CHÚNG TA CÓ THỂ HỌC HỎI ĐƯỢC GÌ TỪ MỘT “HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO”?
Trước khi được bầu làm Giáo hoàng, Đức cha Robert Prevost, với tư cách là Giám mục, đã đăng lời tựa cho cuốn sách “Học thuyết xã hội của Giáo hội: Lịch sử và những giáo huấn của nó (Fondo Editorial de la PUCP)”, của cha John Joseph Lydon McHugh.
Bản dịch tiếng Việt được dịch lại từ bản tiếng Pháp, vốn là bản dịch từ trang web tiếng Tây Ban Nha: https://rpp.pe/cultura/literatura/leon-xiv-el-prologo-que-escribio-robert-prevost-para-el-libro-la-doctrina-social-de-la-iglesia-noticia-1633673?ref=rpp .Tựa đề của lời tựa là “Chúng ta có thể học hỏi được gì từ một ‘học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo‘?” (*) Đức cha Robert Prevost dường như muốn nhấn mạnh đến từ “một” này, bên cạnh các học thuyết khác.
“Học thuyết”, giáo huấn hay tư tưởng?
Tôi viết trong dấu ngoặc kép “học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo”, và tôi nhấn mạnh từ học hỏi, bởi vì tôi cho rằng một trong những mối nguy hiểm đang rình rập suy tư của Giáo hội về các vấn đề xã hội là việc quên đi mối liên hệ quan trọng này. Tôi muốn nói rằng chúng ta học hỏi từ học thuyết xã hội của Giáo hội, và chúng ta học hỏi được điều gì đó vượt xa những định nghĩa hoặc khái niệm đơn giản để trả lời và đối mặt với những vấn đề gây tranh cãi hoặc cấp bách về mặt xã hội. Việc học hỏi mà việc nghiên cứu thanh thản học thuyết xã hội của Giáo hội cung cấp cho chúng ta không đi sâu vào trí nhớ để học những điều mà chúng ta không được quên, nhưng đến cách thức chúng ta đề cập xã hội và con người.
Học thuyết xã hội của Giáo hội muốn giúp chúng ta đề cập các vấn đề xã hội theo cách thức lành mạnh nhất : tìm kiếm điều tốt đẹp bằng cách trả lời một cách tích cực cho từng vấn đề. Nhưng phải nói rằng trở ngại đầu tiên đối với chúng ta để thực hiện con đường này chính là tên gọi của cách thức tiếp cận các vấn đề xã hội này, tôi muốn nói đến tên gọi học thuyết.
Có lẽ khi chúng ta nghe đến từ “học thuyết”, định nghĩa cổ điển hiện lên trong tâm trí chúng ta: một tập hợp các ý tưởng riêng cho một tôn giáo. Và với định nghĩa này, chúng ta cảm thấy ít tự do hơn để suy tư, đặt vấn đề hoặc tìm kiếm những giải pháp thay thế mới. Từ học thuyết dường như đòi hỏi sự vâng phục về mặt trí tuệ đối với một điều gì đó mà chúng ta không thể đặt vấn đề và phải chấp nhận, ngay cả khi chúng ta không đồng ý. Từ học thuyết, trong thế giới của sự đúng đắn chính trị mà chúng ta phải sống, dường như là từ không đúng đắn nhất về mặt chính trị để đề cập các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, chúng ta phải thanh lọc nó khỏi những ý nghĩa sai lầm của nó và bảo vệ việc sử dụng nó, ngay cả trong những hoàn cảnh hiện nay khi mọi người đều muốn nghe những câu trả lời, nhưng không nơi nào muốn nghe một học thuyết.
Mặc dù từ học thuyết thể hiện một hệ tư tưởng tôn giáo, nhưng mặt khác nó vẫn giữ nguyên ý nghĩa môn học hay khoa học. Chúng ta vẫn có thể bảo vệ ý nghĩa của học thuyết như một kiến thức nào đó; và từ đó, hãy cố gắng hiểu tại sao suy tư của Giáo hội về các vấn đề xã hội lại được trình bày như một học thuyết. Vì vậy, nếu chúng ta hiểu theo nghĩa thứ hai, nghĩa là khoa học, môn học hay kiến thức, thì mọi học thuyết đều tìm cách truyền tải một kiến thức chắc chắn, có trật tự và hệ thống về một điều gì đó. Do đó, mọi học thuyết đều thể hiện sự suy tư nghiêm túc, thanh thản và chặt chẽ về một đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, một học thuyết không phải là một ý kiến, nhưng là một nỗ lực để đạt được chân lý về một chủ đề. Có lẽ tác phẩm trí tuệ của một trong những triết gia hiện đại vĩ đại nhất, Hegel, có thể là một ví dụ. Nhà triết học này trình bày, trong cuốn sách “Khoa học về lôgic” của mình, những suy tư cá nhân của ông về hữu thể, yếu tính và khái niệm, đồng thời thật thú vị khi trao cho mỗi suy tư tên gọi học thuyết: học thuyết về hữu thể, học thuyết về yếu tính và học thuyết về khái niệm.
Chúng ta không nên vội vàng phán xét thuật ngữ học thuyết. Học thuyết xã hội của Giáo hội không nhằm mục đích “tuyên truyền nhồi sọ” cho những người tìm kiếm câu trả lời trong suy tư của Giáo hội. Việc tuyên truyền nhồi sọ là phi luân lý, nó tránh việc nhận xét phê bình, nó vi phạm quyền tự do thiêng liêng trong việc tôn trọng lương tâm của một người – cho dầu lương tâm này sai lầm – và khép kín trước những suy tư mới mẻ vì nó bác bỏ sự chuyển động, sự thay đổi hoặc sự tiến triển của các ý tưởng khi đối mặt với những vấn đề mới. Tuy nhiên, học thuyết như một sự suy tư nghiêm túc, thanh thản và chặt chẽ nhắm dạy chúng ta, trước hết, biết làm thế nào đề cập các vấn đề đang được đặt ra. Chính sự nghiêm túc, chặt chẽ và thanh thản mà chúng ta phải rút ra từ mỗi học thuyết. Và liên quan đến học thuyết xã hội của Giáo hội, trong cuốn sách này [Học thuyết xã hội của Giáo hội: lịch sử và những giáo huấn của nó (Fondo Editorial de la PUCP)], chúng ta sẽ tìm thấy trong mỗi chương cơ hội để xác thực những gì tôi đang nói với các bạn. Tôi xin trích dẫn vài lời của tác giả [cha John Joseph Lydon McHugh], vốn chứng minh ý định đúng đắn của ngài: “Học thuyết xã hội không tồn tại để nghiên cứu lịch sử, nhưng để chúng ta có thể áp dụng vào thực tại hiện nay các tiêu chí đánh giá và các kế hoạch hành động bằng cách sử dụng các nguyên tắc đạo đức soi sáng vốn đã xuất hiện trong lò luyện của những tấn kịch đã được sống qua mọi thời đại.”
Tác giả giúp chúng ta nhận ra rằng điều quan trọng hơn các vấn đề, hoặc những câu trả lời cho các vấn đề này, là cách thức chúng ta đề cập những vấn đề này với các tiêu chí đánh giá đích thực và với các nguyên tắc đạo đức hoặc luân lý đích thực. Nói cách khác, chính cách thức đề cập các vấn đề mới là cách học hỏi thực sự. Bất cứ ai muốn biết vị Giáo hoàng này hay vị Giáo hoàng kia đã nói gì về vấn đề này hay vấn đề kia đều được tự do làm như vậy, nhưng đó không phải là mục đích của một học thuyết xã hội của Giáo hội. Mục tiêu là học biết đề cập các vấn đề, vốn luôn khác nhau, bởi vì mỗi thế hệ đều mới, với những thách thức mới, với những ước mơ mới, với những vấn đề mới. Học thuyết xã hội của Giáo hội nhằm thúc đẩy việc tiếp cận thực sự các vấn đề xã hội, nó không muốn phất cờ tuyên bố việc sở hữu chân lý, cả về mặt phân tích các vấn đề cũng như trong việc giải quyết chúng. Trong vấn đề xã hội, điều quan trọng là biết làm thế nào đề cập hơn là đưa ra câu trả lời vội vàng về lý do tại sao tai nạn xảy ra hoặc về cách thức khắc phục.
Tính chính đáng của Giáo hội trong các vấn đề xã hội
Bây giờ, nếu chúng ta thành công biện minh cho việc sử dụng từ học thuyết để trình bày suy tư của Giáo hội về các vấn đề xã hội, thì chúng ta vẫn phải đối mặt với một vấn đề khác, có lẽ nghiêm trọng hơn. Đây là chủ thể mang suy tư này: Giáo hội Công giáo. Làm thế nào chúng ta có thể biện minh cho việc Giáo hội đảm nhận như là một phần sứ mạng của mình trong việc đưa ra câu trả lời cho các vấn đề xã hội? Đây là một câu hỏi có lẽ cần đến một cuốn sách khác, nhưng tôi sẽ cố gắng đưa ra một vài ý tưởng với sự trợ giúp của một đoạn văn mà tác giả đã cung cấp cho chúng ta một cách sâu sắc:
“Chúng ta rất thường tự hỏi: tại sao Giáo hội lại lên tiếng về các vấn đề kinh tế – xã hội và chính trị? Chẳng phải Giáo hội chỉ có trách nhiệm cử hành các bí tích và tập hợp các tín hữu lại để cầu nguyện trong cộng đồng sao? Thực ra, cách giải thích “nhị nguyên” này, vốn cho rằng thực tại (lịch sử nhân loại) đang ở trên con đường này trong khi tôn giáo đang ở trên con đường khác, được biểu lộ trong các lập trường khác nhau của hai ý thức hệ có ảnh hưởng và đối lập nhau trong thời đại chúng ta. Đầu tiên, đó là ý thức hệ của Karl Marx, vốn giải thích mọi tôn giáo theo quan điểm của “thuyết nhị nguyên” này. Đối với ông, tôn giáo chỉ hướng về trời, chứ không hướng về trái đất, và do đó chỉ được dùng để ru ngủ con người và ngăn chặn những đòi hỏi của họ trước những bất công nghiêm trọng mà họ phải chịu đựng. Ý thức hệ thứ hai nảy sinh từ phía đối lập với Marx, từ triết học tự do, cho rằng mọi tôn giáo đều là vấn đề riêng tư, không có tiếng nói hay quan điểm có giá trị trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội và chính trị. Trong chừng mực Giáo hội chỉ trích một chính phủ không tôn trọng nhân quyền, đối xử với người nghèo, gây ô nhiễm môi trường, v.v., các chính trị gia thường phản ứng: hãy ở lại trong phòng thánh của quý vị.”
Một đoạn văn dài tóm tắt rõ ràng lý do cơ bản tại sao Giáo hội, với tư cách là chủ thể, đã suy tư từ 130 năm qua, một cách trực tiếp và có ý thức, về những vấn đề xã hội cấp bách nhất. Như tác giả đã nói một cách đúng đắn, câu trả lời của Giáo hội được thúc đẩy như một câu trả lời cho hai lập trường đó. Điều này có nghĩa là câu trả lời của Giáo hội là điều gì đó như câu trả lời ngược lại. Một mặt, Giáo hội trả lời cho chủ nghĩa Mác và, mặt khác, cho chủ nghĩa tự do. Như thế, lý do tại sao Giáo hội đảm nhận chức năng trả lời cho cả hai ý thức hệ kinh tế xã hội và chính trị này là để nhắc nhở thế giới rằng chúng ta không thể rơi vào sự thống trị của ý thức hệ, bất kể ý thức hệ nào đang được đề cập. Mọi ý thức hệ, dù có vẻ hoàn hảo đến đâu, cuối cùng cũng thoái hóa thành một chính thể không tưởng mà con người không thể thoát khỏi mà bình an vô sự. Một chính thể không tưởng khiến họ phải chiến đấu, hoặc để làm cho mọi người bình đẳng, hoặc để đạt được lợi ích ích kỷ của riêng mình bất chấp cái chết của chính người anh em mình.
Giáo hội đảm nhận một vai trò không tương ứng với mình nếu các câu trả lời [của chủ nghĩa Marx và tự do] cho các vấn đề xã hội thực sự có lợi cho con người và nhân loại. Nhưng những phân tích ý thức hệ, nếu chúng ta đề cập chúng và nếu chúng ta phân tích chúng một cách nghiêm túc, tại một thời điểm nào đó đang tỏ ra có hại, bởi vì chúng quên rằng các vấn đề xã hội, chính trị hoặc kinh tế về cơ bản là những vấn đề luân lý. Giáo hội không có ý định để các chính phủ hướng dẫn công dân của mình bằng một thông điệp xã hội, nhưng để họ có thể thực sự đề cập các vấn đề xã hội như những vấn đề luân lý và phân tích chúng bằng những tiêu chí và nguyên tắc luân lý. Đây là động lực của Giáo hội: tạo dựng một lương tâm luân lý, với các tiêu chí luân lý, với các nguyên tắc đạo đức đích thực, trong sự tôn trọng nhận xét phê bình của mỗi cá nhân và quyền tự trị của các dân tộc và các chính phủ của họ. Như tác giả đã chỉ ra một cách đúng đắn trong cuốn sách của mình: “Ý thức phê bình là điều cần thiết để có thể áp dụng các nguyên tắc của học thuyết xã hội vào thực tại ngày nay”.
Tôi chắc chắn sẽ có nhiều người coi sự can thiệp của Giáo hội vào các vấn đề xã hội là không thích đáng và không phù hợp. Các chiều kích dọc và ngang của Giáo hội đôi khi dường như không thể dung hòa được. Những người thích một Giáo hội theo chiều dọc, chỉ nhìn vào Thiên Chúa, chắc chắn không nhầm; nhưng tôi cũng không cho rằng những ai nhìn vào anh chị em mình và muốn nhìn chiều kích ngang của Giáo hội như một phần sứ mạng của Giáo hội là sai lầm. Có biết bao vấn đề đang chất vấn chúng ta ngày nay! Thực tại bạo lực đối với phụ nữ, nhu cầu ứng phó với cuộc khủng hoảng đau buồn và nhục nhã về việc ngược đãi trẻ em, thực tại lạm dụng quyền lực hoặc lương tâm, việc đảm nhận người ly dị tái hôn và các thành viên của cộng đồng LGBT; nền sinh thái và việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, việc bảo vệ các dân tộc vùng Amazon, v.v., chỉ kể ra một số vấn đề xã hội cần được phân tích và trả lời.
Chúng ta sẽ nói gì? Những định nghĩa từ 130 năm trước không còn thích ứng với ngày nay. Điều này không có nghĩa là chúng không chân thật hoặc không đúng, nhưng chúng không còn thích đáng ở một số khía cạnh. Các hoàn cảnh đòi hỏi sự phân tích mới và câu trả lời thanh thản. Giáo hội, trong học thuyết xã hội của mình, đã biết đề cập các vấn đề và phải làm như vậy ngay bây giờ, dựa trên các nguyên tắc luân lý nền tảng như phẩm giá con người, công ích, tình liên đới, tự do lương tâm, trong số nhiều nguyên tắc nền tảng khác mà cuốn sách này trình bày một cách tuyệt vời. Thách thức là biết làm thế nào đề cập các vấn đề xã hội và học biết được rằng không phải lý thuyết làm nên thực tại, nhưng ngược lại: chính thực tại tạo cơ sở cho lý thuyết. Lý thuyết đi sau thực tại và, như thế, nó đại diện cho một câu trả lời. Học thuyết xã hội của Giáo hội, với tất cả sự chặt chẽ mà nó trình bày, không thể có tham vọng trở thành một câu trả lời được chấp nhận phổ quát, vốn sẽ là không tưởng. Nó chỉ có thể muốn là một câu trả lời tôn trọng thực tại và đề cập nó một cách thích đáng dựa trên các nguyên tắc và tiêu chí lành mạnh và phù hợp nhất.
Những ai chọn con đường của chủ nghĩa Mác hay chủ nghĩa tự do để trả lời các vấn đề xã hội đều được tự do làm như vậy. Nhưng những ai không hài lòng với những câu trả lời mà các hệ thống này đưa ra, đều có thể tiếp cận và học hỏi lối phân tích xã hội mà Giáo hội đã thực hiện từ 130 năm qua. Học thuyết xã hội của Giáo hội muốn là một ánh sáng, để có thể đề cập tốt hơn và rộng rãi hơn những vấn đề xã hội cấp bách nhất. Chắc chắn, một phần suy tư của Giáo hội sẽ không ngừng mang tính thần học ở một số khía cạnh, nhưng đây không phải là nét thiết yếu của nó. Học thuyết xã hội của Giáo hội không phải là một nền thần học về các vấn đề xã hội, nhưng là một phân tích đạo đức phù hợp với thực tại cụ thể của cùng những vấn đề này.
Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo nói với ai?
Chúng ta có thể học hỏi được gì từ một học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo? Tôi tin rằng điều cốt yếu của câu trả lời cho câu hỏi này đã được nêu ra rồi. Việc học hỏi là trong cách thức chúng ta đề cập các vấn đề xã hội. Tôn trọng thực tại, xem xét kịp thời các nguyên tắc luân lý cần thiết, hành động mà không áp đặt hay tham vọng tính phổ quát, trả lời các vấn đề thực sự của thời đại. Nhưng ngày nay, một vấn đề chưa từng được nhìn thấy trước đây đã trở nên rõ ràng: ai là người tiếp nhận học thuyết xã hội này của Giáo hội? Một câu hỏi cơ bản, bởi vì không có người tiếp nhận cụ thể, suy tư của Giáo hội đơn giản sẽ trở thành một tài liệu thư viện mà thôi. Ở giai đoạn này, chúng ta có thể tìm thấy một số câu trả lời. Một số người sẽ nói rằng nó nói với hàng giáo phẩm của Giáo hội, với các linh mục, giáo dân và các cộng đồng của họ, hoặc có lẽ những người có thiện chí tham gia các phong trào xã hội hoặc giữ chức vụ công. Phạm vi người nhận có thể rất rộng, nhưng tôi chia sẻ ý định của tác giả là hướng suy tư về học thuyết xã hội của Giáo hội tới các sinh viên đại học trẻ: “Chúng tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ giúp hướng dẫn các sinh viên đại học hiểu được sự phong phú của học thuyết xã hội của Giáo hội cũng như trong việc hình thành lương tâm chính trị và xã hội, một lương tâm Kitô giáo có khả năng phá bỏ những thành kiến cá nhân và văn hóa cũng như thúc đẩy chúng ta hướng tới việc xây dựng thế giới mà chúng ta mơ ước.”
Tôi chia sẻ quyết định này, vì giới đại học có tiềm năng là xã hội của ngày mai. Thế giới của giới trẻ đại học phản ánh xã hội ngày nay và xã hội tương lai. Đây là lý do tại sao đối với tôi, việc quyết định hướng sự suy tư của Giáo hội về các vấn đề xã hội tới các sinh viên đại học trẻ tuổi dường như là sự lựa chọn thích hợp nhất mà chúng ta có thể thực hiện với học thuyết xã hội của Giáo hội mà chúng tôi hiện đang giới thiệu cho các bạn. Những quyết định chính trị trong tương lai đang được hình thành trong lương tâm của giới trẻ. Trong lương tâm của giới trẻ, những mối quan hệ gia đình trong tương lai được hình thành. Trong lương tâm của các bạn trẻ, những lý tưởng mới đang thức tỉnh mà một xã hội dám hướng tới. Trong lương tâm của những sinh viên đại học trẻ tuổi có một người biến đổi xã hội, một nghệ sĩ, một người mẹ, một người cha, một nhà lãnh đạo chính trị, một người đấu tranh cho những quyền lợi chưa được công nhận, v.v. Trong lương tâm của các sinh viên đại học trẻ, xã hội tiếp theo đang được chuẩn bị. Đối với tôi, việc nói với họ để dạy cho họ cách đề cập thế giới với tất cả các vấn đề xã hội của nó dường như là một nhiệm vụ có giá trị cao nhất.
Tôi biết ơn tác giả đã cho phép tôi viết lời mở đầu cho cuốn sách của ngài. Tôi chắc chắn rằng nó sẽ mang lại lợi ích cho nhiều người tiếp cận nó, không chỉ để học biết những câu trả lời, nhưng còn học biết một cách thức đề cập thực tại xã hội. Tôi cũng giới thiệu việc đọc sách này với tất cả những ai chưa biết đến những con đường mà học thuyết xã hội của Giáo hội đã trải qua trong thế kỷ vừa qua và mong muốn hiểu nó một cách chắc chắn hơn. Tôi chúc mừng tác giả vì sự tổng hợp mà ngài biết đề nghị trong cuốn sách của mình và tôi đoán trước những thành tựu to lớn trong công việc trí thức của ngài.
Robert F. Prevost, O.S.A.
Nguyên Tổng Giám mục giáo phận Chiclayo, Pêru
———————————————————————-
Tý Linh chuyển ngữ
(nguồn : https://www.doctrine-sociale-catholique.fr/)
—————————————————————-
(*) Một phần của lời tựa này được lấy lại trong diễn văn cho các thành viên của Tổ chức Centesimus Annus Pro Pontifice, ngày 17/5/2025. (ctcnd).
Tags: Lêo XIV
Trackback from your site.
Bài viết cùng chủ đề
- BÀI GIẢNG LỄ CHÚA BA NGÔI CỦA ĐỨC LÊÔ XIV, DỊP NĂM THÁNH CỦA THỂ THAO: KHÔNG AI SINH RA ĐÃ LÀ NHÀ VÔ ĐỊCH HAY THÁNH NHÂN
- CHÚNG TA CÓ THỂ HỌC HỎI ĐƯỢC GÌ TỪ MỘT “HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO”?
- ĐỨC LÊÔ XIV KÊU GỌI ISRAEL VÀ IRAN VỀ TRÁCH NHIỆM VÀ LÝ TRÍ
- ĐỔI MỚI VÀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO, THÁCH THỨC ĐẶT CON NGƯỜI VÀO TRUNG TÂM
- SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC LÊÔ XIV CHO NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO LẦN THỨ IX : NGƯỜI NGHÈO LÀ TRUNG TÂM CỦA MỌI HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ
- CARLO ACUTIS VÀ PIER GIORGIO FRASSATI SẼ ĐƯỢC PHONG THÁNH VÀO NGÀY 7/9
- LOS ANGELES : THÁNH LỄ HIỆP NHẤT CÁC CỘNG ĐỒNG
- DIỄN VĂN CỦA ĐỨC LÊÔ XIV CHO HÀNG GIÁO SĨ GIÁO PHẬN RÔMA : CHÚNG TA HÃY CAM KẾT TRỞ THÀNH NHỮNG LINH MỤC KHẢ TÍN VÀ GƯƠNG MẪU
- BÀI GIÁO LÝ NĂM THÁNH 2025. CHÚA GIÊSU KITÔ, NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA. II. CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊSU. CÁC DỤ NGÔN. BÀI 9. ANH MÙ BATIMÊ. “CỨ YÊN TÂM, ĐỨNG DẬY, NGƯỜI GỌI ANH ĐẤY!”
- ĐỨC CHA LIN YUNTUAN ĐƯỢC BỔ NHIỆM LÀM GIÁM MỤC PHỤ TÁ CỦA PHÚC CHÂU, TRUNG QUỐC
- ĐỨC CHA RUSSO: CÁC SỨ THẦN TÒA THÁNH, NHỮNG NGƯỜI XÂY DỰNG HÒA BÌNH GIỮA NHỮNG VẾT THƯƠNG CỦA THẾ GIỚI
- NĂM THÁNH CỦA TÒA THÁNH: ĐHY PAROLIN NHẤN MẠNH CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA TIN MỪNG
- BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC LÊÔ XIV TRONG THÁNH LỄ ĐỨC MARIA, MẸ HỘI THÁNH, DỊP NĂM THÁNH CỦA TÒA THÁNH
- ĐỨC CHA VINCENZIO PAGLIA, NGƯỜI PHỤC VỤ GIA ĐÌNH VÀ SỰ SỐNG
- NĂM THÁNH CỦA TÒA THÁNH: ĐỨC LÊÔ XIV MỜI GỌI NÊN THÁNH
- BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC LÊÔ XIV TRONG LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG: CHÚA THÁNH THẦN MỞ RỘNG MỌI BIÊN GIỚI
- BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC LÊÔ TRONG BUỔI CANH THỨC VỌNG LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
- ĐỨC LÊÔ XIV, MỘT THÁNG TRIỀU ĐẠI GIÁO HOÀNG NHÂN DANH HÒA BÌNH
- ALASDAIR MACINTYRE, NHÀ TƯ TƯỞNG PHÊ BÌNH PHONG TRÀO KHAI SÁNG
- TĨNH TÂM THƯỜNG NIÊN XUÂN BÍCH 2025 : NEMO DAT QUOD NON HABET !