ALASDAIR MACINTYRE, NHÀ TƯ TƯỞNG PHÊ BÌNH PHONG TRÀO KHAI SÁNG
Nhà văn Jean Duchesne bày tỏ lòng kính trọng đối với nhà tư tưởng Công giáo Alasdair MacIntyre, người đã qua đời vào ngày 21/5/2025, ở tuổi 96. Nhà triết học người Scotland này đã đánh thức lại ý thức đạo đức trong kỷ nguyên hậu hiện đại.
Trong dòng tin tức liên tục sắp bị lu mờ bởi những tin tức theo sau, ít ai chú ý đến cái chết vào ngày 21 tháng 5 của Alasdair MacIntyre, gần một trăm tuổi. Ông là một triết gia người Scotland sinh năm 1929, định cư tại Hoa Kỳ ở tuổi 40, trở nên nổi tiếng vào năm 1981 với cuốn sách có tựa đề After Virtue (một cuốn sách bán chạy nhất quốc tế, được tái bản liên tục) và được Giáo hội Công giáo Rôma đón nhận vào năm 1983. Ông là một nhân vật đáng ngạc nhiên theo nhiều cách, và di sản của ông có lẽ vẫn chưa được khai thác hết.
Một hành trình không điển hình
Thoạt nhìn, ông không phải là một người tầm thường, với một cái tên hiếm có thuộc dân tộc Gaelic và một họ mà một người không nói tiếng Anh có thể thấy khó phát âm (bản phiên âm đọc giống như “Maquine Tailleur”). Sự nghiệp của ông không có tính cổ điển, vì ông đã không bảo vệ luận án (nhưng ông đã nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự) và ông đã giảng dạy tại nhiều trường đại học khác nhau trước khi giảng dạy cố định tại Đại học Notre Dame, ở Indiana. Được các đồng nghiệp và sinh viên đánh giá cao, ông đã từng là chủ tịch của Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ danh tiếng (được Benjamin Franklin thành lập năm 1743).
Hành trình trí thức của ông là hỗn hợp và giao thoa với các trào lưu lớn của thế kỷ XX. Khi còn trẻ, ông đã cân nhắc trở thành một mục sư Trưởng lão (giáo phái quốc gia ở Scotland), trước khi chuyển sang chủ nghĩa vô thần lấy cảm hứng từ chủ nghĩa Marx hứa hẹn công lý xã hội. Sau đó, ông bắt đầu quan tâm đến triết học phân tích (thịnh hành ở Anh, với Wittgenstein và Bertrand Russell) và hiện tượng học “lục địa” (của Husserl và Heidegger), để cuối cùng đưa Aristote cổ đại và Thánh Thomas Aquinô thời trung cổ trở lại chương trình nghị sự.
Hai khuyết điểm của triết thuyết “Khai sáng”
Giống như trường hợp của nhiều nhà tư tưởng có ảnh hưởng, các ý tưởng của ông đã được phổ biến và bình luận thay vì được nghiên cứu trong các bản văn mà ông đã xuất bản. Tuy nhiên, Alasdair MacIntyre không khó để đọc: thay vì dấn thân vào các bài thuyết giảng mang tính chuyên môn, ông kể những câu chuyện mà ông rút ra các bài học và đôi khi cả những kết luận tinh quái. Tuy nhiên, ông không suy ra từ đó một hệ thống được chế tác tốt hay các công thức có thể áp dụng mà không cần suy nghĩ nhiều. Ông luôn phủ nhận việc tạo ra một trường phái và không xức dầu cho bất kỳ môn đồ nào.
Phần quan trọng trong tác phẩm của ông phê phán cái được gọi là phong trào “Khai Sáng” (mặc dù ông cẩn thận không bôi nhọ nó, vì không phải mọi thứ trong đó đều tiêu cực). Ông tố giác tham vọng xây dựng kiến thức và phán đoán trên một lý tính tự nhận là khách quan, vô tư và hoàn toàn lôgíc, nhưng lại có hai khuyết điểm. Một mặt, nó cho rằng cảm giác tức thời là không thể ngăn cản và luôn hợp pháp. Mặt khác, nó từ chối hình dung, bên ngoài những kinh nghiệm, những thực tại siêu hình vốn nuôi dưỡng nhận thức và định hướng các diễn giải và quyết định.
Chính trị và chiến tranh
Kết quả là, trong các xã hội hiện đại, không có sự đồng thuận về những lý do sống và những mục tiêu cùng theo đuổi. Ước muốn và ý chí xung đột không thương tiếc. Trong những điều kiện này, luân lý không còn là sự phân biệt thiện và ác dựa trên các tiêu chí chung nữa, nhưng là một cuộc hỗn chiến tự do giữa các chủ thể, ít nhiều bị hạn chế bởi tính trung lập thuần túy thủ tục của các thể chế. Nhại lại Clausewitz, người cho rằng chiến tranh giữa các Nhà nước là “sự tiếp diễn của chính trị bằng các phương tiện khác”, MacIntyre ám chỉ rằng, trong các nền dân chủ của chúng ta, chính trị chỉ là “cuộc nội chiến tiếp diễn bằng các phương tiện khác”. Đây là lý do tại sao nhà triết học này ủng hộ sự cởi mở với một lý tính ít hời hợt hơn, độc lập với những thèm muốn và thất đoạt chốc lát – một lý tính, nếu thế giới và cuộc sống không hoàn toàn phi lý, sẽ sắp xếp chúng theo thời gian mà chúng ta không thể chiếm giữ được.
Tuy nhiên, đây không phải là sự gia nhập triết học kinh viện tân Tôma được hình thành vào cuối thế kỷ XIX và giúp chống lại chủ nghĩa hiện đại bằng cách phát triển một sự tổng hợp được cho là sẽ tích hợp một cách dứt khoát và toàn diện điểm cốt yếu, cho phép phớt lờ và từ chối một cách vô cảm bất kỳ sự phản đối hay cái gọi là sự mới mẻ nào. MacIntyre chắc chắn nhận ra sức mạnh trong tầm nhìn của Aristote và thánh Tôma Aquinô. Hiện tượng học, vốn phá hủy ảo tưởng về tính khách quan khoa học (vì bản thân việc nghiên cứu một đối tượng cũng là một đối tượng cần được nghiên cứu), xác nhận với ông rằng chúng ta không thể phủ nhận một cách tiên nghiệm sự tồn tại của những dữ kiện không cảm giác cũng không thuần túy tâm lý. Hơn nữa, triết học phân tích, vốn tập trung vào tính chặt chẽ lôgic của các tuyên bố và lý luận, khiến ông nhận ra sức mạnh và tính thích đáng của các công thức của nhà thần học vĩ đại thời Trung Cổ. Nhưng ông nhận ra rằng thần học gia này giải quyết các vấn đề cụ thể trong một bối cảnh đặc thù, và các câu trả lời của ông ngày nay có một tầm quan trọng khác trong một môi trường rất khác biệt.
Không Kant lẫn không Bentham
Do đó, nhà triết học này không muốn khai triển một dòng tư tưởng tự khẳng định mình là vĩnh cửu và từ đó các quy tắc hoặc nghĩa vụ tuyệt đối và bất biến sẽ xuất hiện. Do đó, ông bác bỏ cả “mệnh lệnh tuyệt đối” của Kant và chủ thuyết vị lợi của Jeremy Bentham, trong đó tính luân lý của một lựa chọn là chức năng của các kết quả có thể dự kiến được của nó. Thay vào đó, ông cho rằng các khả năng nhận thức của chúng ta và các lựa chọn mà chúng ta thực hiện bị chi phối bởi các truyền thống vốn vạch ra con đường mà chúng ta đi, dù chúng ta có muốn hay không, ngay cả khi có xu hướng đi chệch khỏi nó viện cớ là người ta không còn biết nó đến từ đâu hoặc dẫn đến đâu. Tóm lại, MacIntyre viết: “Tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi: ‘Tôi phải làm gì?’ nếu trước tiên tôi trả lời một câu hỏi khác: ‘Tôi thấy mình là một phần của lịch sử nào (hoặc những câu chuyện nào)?'”
Điều này không chỉ hàm ý một món nợ không thể xóa nhòa với quá khứ, nguồn mạch của hiện tại trong một hành trình còn dang dở, mà còn ý thức về sự tương tùy với người lân cận, được kêu gọi biến thành tình liên đới và thậm chí là sự quan tâm. Con người xuất hiện như một hữu thể xác thịt và mong manh, cần những mối quan hệ và sự chăm sóc, và không được khép kín mình trong não trạng lấy mình làm trung tâm hợp lý hóa cũng như trong thú tính vốn buộc họ phải sống cô độc vô mục đích. Một bài thơ (1623) của linh mục Anh giáo John Donne nói điều này rất hay: “Không ai là một hòn đảo.”
Không biện giáo
Thái độ này, vừa khiêm tốn vừa hiện thực, sẵn sàng cho tha nhân và siêu việt, là điều MacIntyre gọi là đức hạnh. Chúng ta hãy hiểu: một nỗ lực của ý chí, được hỗ trợ bởi một tri thức vốn biết rằng bản thân nó rất không hoàn hảo, không sợ thất vọng và thất bại, nhưng với niềm tin (không nhất thiết phải được thể hiện bất cứ lúc nào) vào chân lý không thể chối bỏ về con người, vốn không tầm thường cũng không vô ích. Sự thiện vẫn khó định nghĩa, nhưng nó tỏ lộ và được phát hiện trong những hành vi đức hạnh, vốn không phải là những phản ứng đơn giản trước những kích thích chốc lát.
MacIntyre không biện giáo. Tuy nhiên, phát biểu của ông chắc chắn là Kitô giáo và thậm chí là Công giáo. Các nhân đức được thể hiện đặc biệt trước hết nơi các thánh, ngay cả khi các ngài không rao giảng. Tiếp đến, có trực giác rằng con người thực hiện quyền tự do của mình không phải trong bong bóng bấp bênh của tức thời, nhưng trong một lịch sử lâu dài, được soi sáng bởi sự mặc khải của Công trình tạo dựng và của Ơn cứu độ. Cuối cùng, việc phân định điều thiện, thông qua truyền thống và nhân đức trong hành động, thì giống như một sự chuyển đổi trong lĩnh vực luân lý của cuộc đổi mới thần học của thế kỷ XX: cũng như Thiên Chúa, Đấng đã nói và nhập thể, thì vững chắc và làm phấn khởi hơn nhiều so với sự phản chiếu nhợt nhạt của Ngài là Hữu Thể tối cao trong chủ thuyết thần luận, cũng vậy, gương các nhân đức được soi sáng bởi đức tin, đức cậy và đức mến sẽ thiết lập một nền đạo đức đem lại sự sống hơn những nền đạo đức dựa trên một loạt các nghĩa vụ và cấm đoán, hoặc trên sự so sánh giữa những thuận lợi và bất lợi có thể có.
———————————-
Tý Linh chuyển ngữ
(nguồn : Aleteia)
Tags: các thánh-nhân vật
Trackback from your site.
Bài viết cùng chủ đề
- ALASDAIR MACINTYRE, NHÀ TƯ TƯỞNG PHÊ BÌNH PHONG TRÀO KHAI SÁNG
- TĨNH TÂM THƯỜNG NIÊN XUÂN BÍCH 2025 : NEMO DAT QUOD NON HABET !
- DIỄN VĂN CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG LÊÔ XIV GỬI CÁC BỀ TRÊN VÀ CÁC VIÊN CHỨC CỦA PHỦ QUỐC VỤ KHANH
- CUỘC ĐIỆN ĐÀM GIỮA ĐỨC LÊÔ XIV VÀ VLADIMIR PUTIN
- BÀI GIÁO LÝ NĂM THÁNH 2025. CHÚA GIÊSU KITÔ, NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA. II. CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊSU. CÁC DỤ NGÔN. BÀI 8. NHỮNG NGƯỜI THỢ TRONG VƯỜN NHO. “VÀ ÔNG BẢO HỌ: ‘CẢ CÁC ANH NỮA, HÃY ĐI VÀO VƯỜN NHO CỦA TÔI’” (Mt 20, 4)
- “ĐỨC LÊO KHÔNG ĐƯỢC CHỌN ĐỂ KHÔI PHỤC SỰ HIỆP NHẤT MÀ NGƯỜI TA CHO LÀ ĐÃ BỊ ĐỨC PHANXICÔ PHÁ VỠ”
- CHÚA BIẾT ĐIỀU GÌ LÀ TỐT NHẤT CHO CHÚNG TA
- BẢY THÁCH THỨC MÀ ĐỨC LÊÔ XIV ĐẶT RA CHO CÁC CẶP VỢ CHỒNG
- MAURICE BLONDEL, MỘT TRIẾT GIA NGƯỜI PHÁP TRÊN CON ĐƯỜNG HƯỚNG ĐẾN VIỆC PHONG THÁNH
- SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC LÊÔ XIV GỬI CÁC THAM DỰ VIÊN HỘI THẢO ‘LOAN BÁO TIN MỪNG VỚI CÁC GIA ĐÌNH NGÀY NAY VÀ TƯƠNG LAI: NHỮNG THÁCH ĐỐ VỀ GIÁO HỘI HỌC VÀ MỤC VỤ”, DO BỘ GIÁO DÂN, GIA ĐÌNH VÀ SỰ SỐNG TỔ CHỨC
- ĐỨC LÊÔ XIV KHÍCH LỆ GIÁO HỘI HÃY RA ĐI GẶP GỠ NHỮNG GIA ĐÌNH XA CÁCH THIÊN CHÚA
- KINH NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG CHÚA NHẬT LỄ CHÚA LÊN TRỜI
- BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC LÊÔ XIV TRONG THÁNH LỄ NĂM THÁNH CỦA CÁC GIA ĐÌNH, TRẺ EM, ÔNG BÀ VÀ NGƯỜI CAO TUỔI: TƯƠNG LAI CỦA CÁC DÂN TỘC ĐƯỢC XÂY DỰNG TỪ GIA ĐÌNH
- 100 NĂM KỂ TỪ NGÀY PHONG THÁNH CHO CHA SỞ XỨ ARS, MỘT CHIẾN BINH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
- ĐỨC LÊÔ XIV LẦN CHUỖI MÂN CÔI KẾT THÚC THÁNG KÍNH ĐỨC MẸ
- SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC PHANXICÔ CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI 2025: CHIA SẺ NIỀM HY VỌNG TRONG LÒNG ANH CHỊ EM MỘT CÁCH HIỀN HÒA
- ĐHY YOU HEUNG-SIK NÓI VỚI CÁC LINH MỤC: “ĐỪNG SỢ MÌNH YẾU ĐUỐI”
- ĐỨC THÁNH CHA YÊU CẦU CÁC TÂN LINH MỤC VỀ TÍNH KHẢ TÍN, CHỨ KHÔNG PHẢI SỰ HOÀN HẢO
- ĐỨC LÊÔ XIV: TIN MỪNG VÀ HỌC THUYẾT XÃ HỘI LÀ LA BÀN CHO LỐI SỐNG BẤT BẠO ĐỘNG
- ĐHY PAROLIN: “ĐỦ BOM ĐẠN RỒI Ở GAZA, CHÚNG TÔI MUỐN MỘT LỆNH NGỪNG BẮN Ở UCRAINA”