CẦU NGUYỆN BẰNG KINH MÂN CÔI VỚI THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Written by lcd on Tháng Tư 5th, 2025. Posted in Lm Lê Công Đức, Tâm linh, Thiên Phong, Đức Maria

CẦU NGUYỆN BẰNG KINH MÂN CÔI VỚI THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

PHẦN MỘT: Những Chỉ Dẫn Của Thánh Gioan Phaolô II Cho Việc Cầu Nguyện Bằng Kinh Mân Côi

Trích từ Tông thư Rosarium Virginis Mariae của Thánh Gioan Phaolô II:

Kinh Mân Côi, một cách để hấp thu mầu nhiệm

Việc suy niệm các mầu nhiệm Chúa Kitô được nêu trong Kinh Mân Côi dựa vào một phương pháp nhằm giúp hấp thu các mầu nhiệm ấy. Đó là một phương pháp dựa trên sự lặp lại. Điều này áp dụng trước hết cho Kinh Kính Mừng, được lặp lại mười lần trong mỗi mầu nhiệm. Nếu hiểu sự lặp lại này cách nông cạn, sẽ dễ có cám dỗ coi Kinh Mân Côi là một thực hành khô khan và nhàm chán. Tuy nhiên, chuyện sẽ hoàn toàn khác khi Kinh Mân Côi được hiểu như một sự tuôn trào của tình yêu không ngừng đón nhận bởi người được yêu, qua những diễn tả tương tự về nội dung nhưng luôn mới mẻ trong cảm nghiệm thấm nhuần các diễn tả ấy.

Trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đã thực sự mang một “trái tim bằng thịt”. Thiên Chúa không chỉ có một trái tim thần linh, giàu lòng thương xót và ơn tha thứ, mà còn có một trái tim con người, có khả năng khơi động mọi trạng thái tâm cảm. Nếu cần bằng chứng về điều này từ Phúc Âm, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trong cuộc đối thoại cảm động giữa Chúa Kitô và Phêrô sau biến cố Phục sinh: “Simon, con Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Câu hỏi này được đặt ra cho Phêrô ba lần, và cả ba lần ông đều trả lời: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa”. Ngoài ý nghĩa chuyên biệt của đoạn văn này, vốn rất quan trọng đối với sứ mạng của Phêrô, hẳn ai cũng nhận ra vẻ đẹp của sự lặp lại ba lần này, trong đó sự yêu cầu kiên trì và lời đáp trả tương ứng được diễn tả bằng những từ ngữ quen thuộc với kinh nghiệm phổ quát của tình yêu con người. Để hiểu Kinh Mân Côi, người ta phải đi vào động lực tâm lý riêng của tình yêu.

Điều rõ ràng là mặc dù Kinh Kính Mừng lặp đi lặp lại ấy hướng trực tiếp đến Đức Maria, nhưng hành động yêu thương thì cuối cùng qui hướng đến Chúa Giêsu, cùng với Mẹ và qua Mẹ. Sự lặp lại này được thúc đẩy bởi khao khát nên đồng hình đồng dạng trọn vẹn hơn nữa với Chúa Kitô, đây chính là chương trình sống thực sự của người Kitô hữu. Thánh Phaolô diễn tả dự phóng này bằng những lời đầy nhiệt huyết: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô và chết là một mối lợi”. Và: “Không còn là tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Kinh Mân Côi giúp chúng ta ngày càng nên đồng hình đồng dạng hơn với Chúa Kitô, cho đến khi chúng ta đạt tới sự thánh thiện chân thực.

Một phương pháp có hiệu lực…

Chúng ta không nên ngạc nhiên khi mối tương quan của chúng ta với Chúa Kitô có vận dụng một phương pháp. Thiên Chúa thông đạt chính Ngài cho chúng ta trong sự tôn trọng bản tính con người và nhịp điệu sống động của bản tính ấy nơi chúng ta. Do đó, trong khi linh đạo Kitô giáo vốn rất quen với những hình thức im lặng thần bí tột bực, trong đó có thể nói các hình ảnh, lời nói và cử chỉ đều được thay thế bằng một sự kết hợp mãnh liệt khôn tả với Thiên Chúa, thì linh đạo này cũng thường huy động toàn bộ con người trong tất cả thực tại tâm lý, thể lý và tương quan phức hợp của mình.

Điều này trở nên rõ ràng trong Phụng vụ. Các bí tích và á bí tích được cấu trúc như một loạt các nghi thức huy động tất cả các chiều kích của con người. Điều tương tự cũng đúng đối với việc cầu nguyện ngoài Phụng vụ. Điều này được xác nhận bởi sự kiện rằng ở Đông phương, lời cầu nguyện đặc trưng nhất của suy niệm về Chúa Kitô – qui hướng vào lời này: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” – theo truyền thống có nối kết với nhịp thở; trong khi thực hành này thiên về sự kiên trì trong cầu nguyện, thì cách nào đó nó cũng thể hiện mong muốn Chúa Kitô trở thành hơi thở, linh hồn và “tất cả” cuộc sống con người.

… song vẫn có thể được cải thiện

Tôi đã đề cập trong Tông thư Novo Millennio Ineunte rằng phương Tây hiện đang cảm nhận một nhu cầu suy nguyện mới, đôi khi dẫn đến một quan tâm sâu sắc đối với các khía cạnh của các tôn giáo khác. Một số Kitô hữu, hiểu biết ít ỏi về truyền thống chiêm niệm Kitô giáo, bị thu hút bởi những hình thức cầu nguyện đó. Mặc dù những hình thức ấy chứa đựng nhiều yếu tố tích cực và đôi khi tương hợp với kinh nghiệm Kitô giáo, chúng thường dựa trên những tiền đề mà cuối cùng không thể chấp nhận được. Phần lớn những phương pháp này nhắm đạt được sự tập trung tinh thần cao độ bằng cách sử dụng các kỹ thuật tâm thể lý có tính biểu tượng và lặp đi lặp lại. Kinh Mân Côi nằm trong lãnh vực rộng lớn của các hiện tượng tôn giáo này, nhưng nó khác biệt do các đặc điểm riêng tương ứng với các yêu cầu cụ thể của Kitô giáo.

Kinh Mân Côi quả thực chỉ là một phương pháp chiêm niệm. Là một phương pháp, nó là phương tiện để đạt được mục đích và không thể tự nó trở thành mục đích. Tuy nhiên, xét như là hoa quả của kinh nghiệm, phương pháp này không nên bị đánh giá thấp. Người ta có thể trích dẫn vô số vị thánh để ủng hộ phương pháp này. Dù vậy, điều đó không có nghĩa rằng phương pháp này không có gì cần được cải thiện. Chính vì thế mà có việc bổ sung loạt ‘mầu nhiệm ánh sáng’ vào trong toàn bộ các mầu nhiệm, cũng như bổ sung một vài gợi ý mà tôi đề nghị trong Tông thư này liên quan đến cách thức đọc kinh. Những gợi ý ấy, trong khi tôn trọng cấu trúc đã được thiết lập của kinh nguyện này, nhằm mục đích giúp các tín hữu nhận hiểu kinh nguyện này trong tính biểu tượng phong phú của nó, và hòa hợp với những yêu cầu của cuộc sống hàng ngày. Nếu không, sẽ có nguy cơ là Kinh Mân Côi không chỉ không đem lại được những hiệu quả thiêng liêng như mong muốn, mà ngay cả những chuỗi hạt, mà người ta thường dùng để đọc kinh, cũng có thể bị coi là một loại bùa hộ mệnh hoặc một vật ma thuật, và như thế làm méo mó hoàn toàn ý nghĩa và chức năng của chúng.

Công bố mỗi mầu nhiệm

Việc công bố mỗi mầu nhiệm, và có lẽ ngay cả việc sử dụng một ảnh tượng phù hợp để mô tả mầu nhiệm ấy, chính là việc mở ra một quang cảnh giúp chúng ta tập trung tâm trí của mình. Những lời hướng dẫn sự tưởng tượng và tâm trí về một chặng hay khoảnh khắc đặc biệt nào đó trong cuộc đời của Chúa Kitô. Trong nền linh đạo truyền thống của Giáo hội, việc tôn kính ảnh tượng và nhiều sự sùng mộ khơi dậy các giác quan, cũng như phương pháp cầu nguyện do thánh Inhaxiô Loyola đề nghị trong Linh thao, sử dụng các yếu tố trực quan và tưởng tượng (compositio loci), được đánh giá là rất hữu ích giúp tập trung tâm trí vào một mầu nhiệm cụ thể. Hơn nữa, đây là một phương pháp tương ứng với lô-gic nội tại của mầu nhiệm Nhập thể: nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn mang những nét dạng của con người. Chính thông qua thực tại thể xác của Chúa Giêsu, chúng ta được dẫn đến tiếp xúc với mầu nhiệm thần tính của Người.

Nhu cầu về tính cụ thể này thể hiện rõ hơn trong việc công bố các mầu nhiệm khác nhau của Kinh Mân Côi. Hiển nhiên những mầu nhiệm này không thay thế được Tin Mừng, cũng không khai thác hết nội dung của Tin Mừng. Vì thế, Kinh Mân Côi không thay thế được cho lectio divina; ngược lại, nó giả định và thúc đẩy việc thực hành ấy. Tuy nhiên, dù các mầu nhiệm được chiêm niệm trong Kinh Mân Côi, ngay cả với sự bổ sung ‘năm sự Sáng’, chỉ là phác họa các yếu tố cơ bản của cuộc đời Chúa Kitô, thì chúng vẫn dễ dàng lôi cuốn tâm trí mở rộng suy ngẫm phần còn lại của Tin Mừng, nhất là khi Kinh Mân Côi được cầu nguyện trong một khung cảnh hồi tâm kéo dài.

Lắng nghe Lời Chúa

Để cung cấp nền tảng Kinh thánh và chiều sâu hơn cho việc suy niệm của chúng ta, sẽ rất hữu ích nếu theo sau lời công bố về mầu nhiệm có một công bố đoạn Kinh Thánh liên quan, dài hay ngắn tùy thuộc vào hoàn cảnh. Không có lời nào khác có thể sánh được với hiệu quả của lời được linh hứng. Khi lắng nghe, chúng ta chắc chắn rằng đây là lời Chúa, được Chúa nói hôm nay và được nói “cho tôi”.

Nếu được đón nhận theo cách này, lời Chúa có thể trở thành một phần của phương pháp lặp đi lặp lại của Kinh Mân Côi mà không gây ra sự nhàm chán do việc chỉ nhớ lại một điều gì đó vốn đã biết rõ. Vấn đề không phải là nhớ lại thông tin mà là để Chúa phán. Trong một số cử hành long trọng của cộng đoàn, lời này có thể được quảng diễn một cách thích hợp bằng một bình luận ngắn gọn.

Thinh lặng

Việc lắng nghe và suy gẫm được làm phong phú bằng sự thinh lặng. Sau khi nêu mầu nhiệm và công bố lời Chúa, chúng ta nên dừng lại và tập trung sự chú ý của mình trong một khoảng thời gian thích hợp vào mầu nhiệm liên quan, trước khi chuyển sang cầu nguyện bằng lời. Việc khám phá ra tầm quan trọng của thinh lặng là một trong những bí quyết của thực hành chiêm niệm và suy ngẫm. Một nhược điểm của xã hội bị chi phối bởi công nghệ và phương tiện truyền thông đại chúng, đó là thực tế rằng người ta ngày càng khó thinh lặng. Cũng giống như những khoảnh khắc thinh lặng được đề xuất trong Phụng vụ, thì trong việc đọc Kinh Mân Côi, ta cũng nên dừng lại một chút sau khi lắng nghe lời Chúa, để tâm trí tập trung vào nội dung của một mầu nhiệm cụ thể.

Kinh “Lạy Cha”

Sau khi lắng nghe lời Chúa và tập trung vào mầu nhiệm, tâm trí tự nhiên hướng lên Chúa Cha. Trong mỗi mầu nhiệm của Người, Chúa Giêsu luôn dẫn chúng ta đến với Chúa Cha, vì khi Người ở trong lòng Chúa Cha, Người liên lỉ hướng về Chúa Cha. Người muốn chúng ta chia sẻ sự thân mật của Người với Chúa Cha, để cùng với Người chúng ta có thể nói: “Abba, Cha ơi”. Nhờ mối tương quan của Người với Chúa Cha, Người biến chúng ta thành anh chị em của Người và của nhau, thông truyền cho chúng ta Thánh Thần, là Thánh Thần của Người và của Chúa Cha. Đóng vai trò nền tảng cho việc suy ngẫm về Chúa Kitô và về Đức Mẹ mở ra trong Kinh Kính Mừng, Kinh Lạy Cha làm cho sự suy ngẫm về mầu nhiệm, ngay cả khi được làm một mình, thành một kinh nghiệm của Giáo hội.

Mười “Kinh Kính Mừng”

Đây là yếu tố cốt yếu nhất trong Kinh Mân Côi và cũng là yếu tố làm cho nó trở thành một kinh nguyện tuyệt hảo về Đức Mẹ. Tuy nhiên, khi hiểu đúng Kinh Kính Mừng, chúng ta sẽ thấy rõ rằng đặc tính Thánh mẫu học của nó không đối lập với đặc tính Kitô học, nhưng thực sự nhấn mạnh và tăng cường đặc tính Kitô học. Phần đầu của Kinh Kính Mừng, được rút ra từ lời của thiên thần Gabriel và của thánh Elidabét nói với Đức Maria, là một sự chiêm ngắm tôn thờ mầu nhiệm được thực hiện nơi Đức Trinh Nữ ở Nadaret. Có thể nói những lời này diễn tả điều kỳ diệu của trời và đất, và trao cho chúng ta một thoáng nhìn về sự ngạc nhiên của chính Thiên Chúa khi Ngài chiêm ngưỡng “kiệt tác” của Người là sự Nhập thể của Chúa Con trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Nếu chúng ta nhớ lại cách mà Thiên Chúa, trong sách Sáng thế, “đã nhìn thấy mọi điều Ngài đã dựng nên”, thì chúng ta có thể gặp thấy ở đây âm vang “cảm xúc của Thiên Chúa, vào buổi đầu cuộc tạo dựng, khi Ngài nhìn vào công trình của đôi tay Ngài”. Việc lặp lại Kinh Kính Mừng trong Kinh Mân Côi cho phép chúng ta chia sẻ trong sự ngạc nhiên và vui mừng của chính Thiên Chúa: trong niềm hân hoan thán phục, chúng ta nhìn nhận phép lạ vĩ đại nhất trong lịch sử. Lời tiên tri của Đức Maria ở đây được ứng nghiệm: “Từ nay, muôn thế hệ sẽ khen tôi có phúc”.

Trọng tâm Kinh Kính Mừng, như bản lề nối liền hai phần của nó, là tên của Chúa Giêsu. Đôi khi, do đọc vội vã, trọng tâm này có thể bị bỏ qua, và cùng với đó người ta bỏ qua mối nối kết với mầu nhiệm Chúa Kitô đang được chiêm ngắm. Nhưng chính sự nhấn mạnh tên của Chúa Giêsu và mầu nhiệm của Người là dấu cho thấy việc đọc Kinh Mân Côi có ý nghĩa và hiệu quả. Trong Tông huấn Marialis Cultus, Đức giáo hoàng Phaolô VI ghi nhận thói quen ở một số vùng là làm tôn lên tên của Chúa Kitô bằng cách thêm một mệnh đề hướng chỉ mầu nhiệm đang được chiêm ngắm. Đây là một thói quen đáng khen ngợi, đặc biệt khi đọc kinh chung với nhau. Nó diễn tả mạnh mẽ đức tin của chúng ta vào Chúa Kitô, hướng đến những khoảnh khắc khác nhau trong cuộc đời của Đấng Cứu Chuộc. Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin vừa là sự hỗ trợ để chúng ta tập trung suy ngẫm, vì nó giúp cho tiến trình hấp thu mầu nhiệm Chúa Kitô nội tại nơi việc lặp lại Kinh Kính Mừng. Khi chúng ta lặp lại thánh danh của Chúa Giêsu – danh duy nhất được ban cho chúng ta mà nhờ đó ta có thể hy vọng được cứu rỗi –  trong gắn kết chặt chẽ với tên của Đức Mẹ, như điều mà chính Mẹ đề nghị, thì chúng ta bắt đầu bước đi trên con đường hấp thu giúp ta đi vào sâu hơn trong cuộc đời của Chúa Kitô.

Từ mối tương quan ưu biệt độc đáo của Đức Maria với Chúa Kitô, điều làm cho Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa, Theotokos, ta rút ra sức mạnh cho lời khẩn cầu hướng đến Mẹ trong phần sau của Kinh Kính Mừng, khi chúng ta ký thác cuộc sống và giờ chết của mình cho sự chuyển cầu đầy lòng từ mẫu của Mẹ.

Kinh “Sáng Danh”

Vinh tụng ca Ba Ngôi là mục tiêu của mọi sự chiêm niệm Kitô giáo. Vì Chúa Kitô là con đường dẫn chúng ta đến với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đi con đường này đến cùng, chúng ta sẽ thường xuyên gặp gỡ mầu nhiệm Ba Ngôi Vị thần linh, là Đấng đáng mọi lời ca ngợi, tôn thờ và tạ ơn. Điều quan trọng là Kinh Sáng Danh, đỉnh cao của sự chiêm niệm, phải được tôn lên nổi bật trong Kinh Mân Côi. Khi đọc kinh chung với nhau, kinh này có thể được hát, như một cách nhấn mạnh cách riêng cấu trúc Ba Ngôi thiết yếu của mọi lời cầu nguyện Kitô giáo.

Trong mức độ tập trung và mức độ sâu sắc của việc suy niệm mầu nhiệm, và trong mức độ mà nó được khơi động từ việc lặp lại các Kinh Kính Mừng diễn tả tình yêu đối với  Chúa Kitô và Đức Maria, thì việc tôn vinh Chúa Ba Ngôi ở cuối mỗi chục kinh không phải là một kết luận hời hợt nhưng mang một cung bậc chiêm niệm riêng, thực sự nâng tâm trí ta lên cõi trời cao và cho phép chúng ta sống lại kinh nghiệm núi Tabor cách nào đó, như một nếm trước sự chiêm niệm vẫn chưa đến: “Chúng ta ở đây thật tốt biết bao!”

Lời nguyện ngắn kết thúc

Trong thực hành hiện nay, vinh tụng ca Ba Ngôi được theo sau bởi một lời nguyện ngắn kết thúc, thay đổi tùy thói quen mỗi nơi. Không làm giảm giá trị của những lời chuyển cầu như thế, điều đáng lưu ý là việc chiêm niệm các mầu nhiệm có thể diễn tả tốt hơn hoa trái thiêng liêng trọn vẹn của nó nếu chúng ta cố gắng kết thúc mỗi mầu nhiệm bằng một lời nguyện xin những hoa trái cụ thể của mầu nhiệm đó. Theo cách này, Kinh Mân Côi sẽ diễn tả tốt hơn mối nối kết với đời sống Kitô hữu. Một lời nguyện phụng vụ tốt sẽ mời gọi chúng ta cầu xin – bằng việc suy ngẫm các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi – sao cho chúng ta có thể “bắt chước những gì chứa đựng trong đó và đạt được những gì các mầu nhiệm ấy hứa hẹn”.

Một lời nguyện cuối như vậy có thể có nhiều hình thức hợp pháp, như thực tế đã thấy. Theo cách này, Kinh Mân Côi có thể được thích ứng tốt hơn cho các truyền thống linh đạo khác nhau và các cộng đoàn Kitô hữu khác nhau. Do đó, hy vọng rằng các thể thức thích hợp sẽ được quảng bá rộng rãi, sau khi phân định mục vụ kỹ lưỡng và có thể sau khi thử nghiệm tại các trung tâm và các đền thánh đặc biệt sùng mộ Kinh Mân Côi, để Dân Chúa có thể hưởng lợi ích từ một kho tàng tâm linh phong phú đích thực và tìm thấy sự nuôi dưỡng cho việc chiêm niệm cá nhân của họ.

Chuỗi hạt Mân Côi

Công cụ hỗ trợ truyền thống dùng để đọc Kinh Mân Côi là chuỗi hạt. Xét chỉ mặt ngoài, các hạt thường trở thành một cơ chế đếm thuần túy để đánh dấu các Kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, chúng cũng có thể mang một ý nghĩa biểu tượng có thể giúp chiêm niệm thêm.

Ở đây, điều đầu tiên cần ghi nhận là các hạt hội tụ về cây Thánh giá: vừa mở ra vừa khép lại mạch cầu nguyện đang diễn tiến. Cuộc sống và lời cầu nguyện của chúng ta tập trung vào Chúa Kitô. Mọi thứ bắt đầu từ Người, mọi thứ đều hướng về Người, mọi thứ, thông qua Người, trong Chúa Thánh Thần, đều đạt tới Chúa Cha.

Là một cơ chế đếm, đánh dấu tiến trình của việc cầu nguyện, các hạt gợi lên con đường bất tận của việc chiêm niệm và sự hoàn thiện Kitô giáo. Chân phước Bartolo Longo cũng coi chúng như một “sợi xích” nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Một sợi xích, đúng vậy, nhưng là một sợi xích ngọt ngào; vì mối dây gắn kết với Thiên Chúa, cũng là Cha của chúng ta, thực sự ngọt ngào. Một sợi xích “hiếu thảo” giúp chúng ta hòa nhập với Đức Maria, “nữ tỳ của Chúa”, và nhất là với chính Chúa Kitô, Đấng vốn là Thiên Chúa song đã tự nguyện trở thành “tôi tớ” vì yêu thương chúng ta.

Một cách tuyệt vời để mở rộng ý nghĩa biểu tượng của các hạt là để chúng nhắc nhở chúng ta về nhiều mối tương quan của mình, về mối dây hiệp thông huynh đệ kết hợp tất cả chúng ta trong Chúa Kitô.

Mở đầu và kết thúc

Hiện tại, ở nhiều nơi trong Giáo hội, có nhiều cách để dẫn vào Kinh Mân Côi. Ở một số nơi, người ta thường bắt đầu bằng những lời mở đầu Thánh vịnh 70: “Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con; muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ”, như thể để vun xới nơi người cầu nguyện một cảm thức khiêm nhường nhìn nhận sự bất lực của chính mình. Ở nhiều nơi khác, Kinh Mân Côi bắt đầu bằng việc đọc Kinh Tin Kính, như thể để làm cho lời tuyên xưng đức tin thành nền tảng của hành trình chiêm niệm sắp thực hiện. Những phong tục tương tự như vậy, trong mức độ chúng chuẩn bị cho tâm trí chiêm niệm, tất cả đều hợp lý như nhau. Rồi Kinh Mân Côi được kết thúc bằng một lời cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, như muốn mở rộng tầm nhìn của người cầu nguyện để bao gồm mọi nhu cầu của Giáo hội. Chính vì để khuyến khích chiều kích Giáo hội này của Kinh Mân Côi mà Giáo hội thấy thích hợp việc ban các ân xá cho những ai đọc Kinh Mân Côi với những điều kiện cần thiết.

Được cầu nguyện theo cách này, Kinh Mân Côi thực sự trở thành một hành trình thiêng liêng trong đó Đức Maria đóng vai trò là Mẹ, là Thầy, và Người Hướng Dẫn, nâng đỡ các tín hữu bằng sự chuyển cầu đắc lực của Mẹ. Vậy thì không có gì lạ sau khi đọc kinh nguyện này và cảm nhận sâu sắc tình mẫu tử của Đức Maria, tâm hồn chúng ta thấy cần phải lên lời ngợi khen Đức Trinh Nữ, hoặc bằng lời kinh Salve Regina tuyệt vời hoặc bằng Kinh Cầu Đức Bà. Đây là khoảnh khắc đỉnh cao của một hành trình nội tâm đưa các tín hữu đến tiếp xúc sống động với mầu nhiệm của Chúa Kitô và Thánh Mẫu Người.

Phân phối theo thời gian

Kinh Mân Côi có thể được đọc trọn vẹn mỗi ngày, và có những người làm như vậy một cách thật đáng khen. Theo cách này, Kinh Mân Côi lấp đầy ngày sống của nhiều người chiêm niệm bằng lời cầu nguyện, hoặc đồng hành với các bệnh nhân và những người già vốn sẵn có nhiều thời gian. Tuy nhiên, rõ ràng là nhiều người không thể đọc nhiều hơn một phần của Kinh Mân Côi theo một khuôn mẫu nhất định hàng tuần, nhất là khi đã đưa vào thêm các mầu nhiệm ‘Năm Sự Sáng”. Việc phân phối hàng tuần này có tác dụng mang lại cho các ngày khác nhau trong tuần một ” sắc thái” thiêng liêng nào đó, tương tự như cách Phụng vụ dùng màu cho các mùa khác nhau của năm Phụng vụ.

Theo thông lệ hiện nay, thứ Hai và thứ Năm dành cho “các Mầu nhiệm Vui”, thứ Ba và thứ Sáu dành cho “các Mầu nhiệm Thương”, và thứ Tư, thứ Bảy, Chúa nhật dành cho “các Mầu nhiệm Mừng”. Vậy “các Mầu nhiệm Ánh sáng” có thể được chèn vào đâu? Nếu chúng ta xem xét việc “các Mầu nhiệm Mừng” được đọc vào cả thứ Bảy và Chúa nhật, đồng thời thứ Bảy luôn đặc biệt mang màu sắc của Đức Mẹ, thì việc suy niệm “các Mầu nhiệm Vui ” lần thứ hai trong tuần (Đức Maria hiện diện trong các mầu nhiệm này cách đặc biệt) có thể được chuyển sang thứ Bảy. Như vậy, ngày thứ Năm sẽ có chỗ dành cho việc suy niệm “các Mầu nhiệm Ánh sáng”. Chỉ dẫn này không nhằm hạn chế quyền tự do chính đáng trong việc cầu nguyện cá nhân và cộng đoàn, trong đó cần phải xét đến các nhu cầu thiêng liêng và mục vụ, cũng như khi xảy ra các cử hành Phụng vụ đặc biệt có thể cần sự điều chỉnh phù hợp. Điều thực sự quan trọng, đó là Kinh Mân Côi luôn phải được nhìn và kinh nghiệm như một nẻo đường chiêm niệm. Trong Kinh Mân Côi, cũng tương tự như điều diễn ra trong Phụng vụ, tuần lễ của Kitô giáo, qui hướng vào ngày Chúa nhật, ngày Phục sinh, trở thành một hành trình xuyên qua các mầu nhiệm trong cuộc đời Chúa Kitô, và Người được mặc khải trong đời sống các môn đệ của Người như là Chúa Tể của thời gian và lịch sử.

 

Phần Hai: Các Mầu Nhiệm Mừng

Trích từ Tông thư Rosarium Virginis Mariae của Thánh Gioan Phaolô II:

“Việc chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Kitô không thể dừng lại ở hình ảnh Đấng Chịu Đóng Đinh. Người còn là Đấng Phục Sinh!” Kinh Mân Côi luôn diễn tả tri ​​thức này vốn phát sinh từ đức tin, và mời gọi người tín hữu đi qua bóng tối của Cuộc Khổ Nạn để chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa Kitô trong mầu nhiệm Phục Sinh và Lên Trời. Khi chiêm ngắm Chúa Phục Sinh, các Kitô hữu khám phá lại lý do cho đức tin của mình và sống lại niềm vui không chỉ của những người mà Chúa Kitô đã hiện ra – đó là các Tông Đồ, Maria Mađalena, và các môn đệ trên đường Emmau – mà còn là niềm vui của Đức Maria, người hẳn đã có kinh nghiệm thâm sâu không kém về sự sống mới của Người Con vinh quang của mình. Trong biến cố Chúa Lên Trời, Đức Kitô đã được nâng lên trong vinh quang, ngự bên hữu Chúa Cha, trong khi chính Đức Maria cũng sẽ được đưa lên trong cùng vinh quang ấy trong sự kiện Mẹ Lên Trời, được hưởng trước – bởi một đặc ân độc nhất – vận mệnh dành cho mọi người công chính khi sống lại từ cõi chết. Được đội triều thiên vinh quang – như Mẹ được thấy trong mầu nhiệm cuối của ‘Năm Sự Mừng’ – Đức Maria tỏa sáng như Nữ Vương các Thiên thần và các Thánh, là sự báo trước và sự hiện thực tột đỉnh tình trạng chung cuộc của Giáo hội.

Ở trung tâm của chuỗi diễn biến này về vinh quang của Chúa Con và của Đức Mẹ, Kinh Mân Côi đặt trước chúng ta mầu nhiệm Mừng thứ ba, Lễ Hiện Xuống, mặc khải khuôn mặt của Giáo hội như một gia đình được quy tụ cùng với Đức Maria, được làm sống hoạt bởi sự tuôn đổ mạnh mẽ Chúa Thánh Thần và sẵn sàng cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Việc chiêm ngắm cảnh này, cũng giống như việc chiêm ngắm các mầu nhiệm Mừng khác, phải dẫn các tín hữu đến sự trân trọng ngày càng hơn đối với đời sống mới của mình trong Chúa Kitô, được sống trong lòng Giáo hội, một đời sống mà chính cảnh tượng Lễ Hiện xuống là “biểu tượng” vĩ đại. Như vậy, các mầu nhiệm Mừng dẫn các tín hữu đến niềm hy vọng lớn hơn về đích điểm cánh chung mà họ đang hướng tới trong tư cách là thành viên của Dân Chúa lữ hành trong lịch sử. Điều này phải thúc đẩy họ can đảm làm chứng cho “tin mừng” có sức trao ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của họ.

 

Chương 1: Chúa Phục Sinh

Thánh Gioan Phaolô II đã trao diễn từ sau đây vào thứ Tư, ngày 21 tháng 5 năm 1997, trong buổi Tiếp Kiến Chung của ngài:

Đức Maria là chứng nhân của ​​toàn bộ mầu nhiệm vượt qua

Sau khi Chúa Giêsu được mai táng trong mồ, Đức Maria “ở lại một mình để giữ cho ngọn lửa đức tin luôn cháy sáng, chuẩn bị đón nhận lời loan báo Phục sinh đầy bất ngờ và hân hoan.” Niềm mong đợi được cảm nhận vào Thứ Bảy Thánh là một trong những khoảnh khắc lớn lao nhất của đức tin đối với Mẹ của Chúa: trong bóng tối bao trùm thế giới, Mẹ hoàn toàn phó thác mình cho Thiên Chúa của sự sống, và hồi tưởng lại những lời của Con mình, Mẹ mong đợi sự ứng nghiệm những lời hứa của Thiên Chúa.

Các sách Phúc Âm đề cập những cuộc hiện ra khác nhau của Chúa Kitô Phục sinh, nhưng không đề cập cuộc gặp gỡ nào giữa Chúa Giêsu và Mẹ. Không được dựa vào sự im lặng này để kết luận rằng sau khi Phục sinh, Chúa Kitô đã không hiện ra với Mẹ; đúng hơn, sự im lặng này mời gọi chúng ta tìm kiếm lý do tại sao các tác giả Tin Mừng lại lựa chọn như vậy.

Với giả định về một “sự bỏ sót”, sự im lặng này có thể được quy cho thực tế rằng những gì cần thiết cho tri ​​thức cứu rỗi chúng ta đã được ủy thác cho lời của những người “được Chúa chọn làm chứng nhân”, tức là các Tông Đồ, những người làm chứng về sự Phục sinh của Chúa Giêsu “với quyền năng lớn lao”. Trước khi hiện ra với họ, Chúa Phục sinh đã hiện ra với một số phụ nữ trung thành vì chức năng của các phụ nữ này trong Giáo hội: “Hãy đi và bảo các anh em Thầy đến Galilê, họ sẽ gặp Thầy ở đó”.

Nếu các tác giả Tân Ước không nói về sự gặp gỡ của Đức Mẹ với Người Con phục sinh của mình, điều này có lẽ được quy cho sự kiện rằng một chứng tá như vậy có thể bị coi là quá thiên vị bởi những người phủ nhận sự Phục sinh của Chúa, và do đó không đáng tin.

Hơn nữa, các sách Phúc Âm tường thuật chỉ một số ít lần hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh và chắc chắn không phải là bản tóm lược đầy đủ về tất cả những gì đã xảy ra trong 40 ngày sau Phục sinh. Thánh Phaolô nhắc lại rằng Chúa đã hiện ra “với hơn 500 anh em cùng một lúc”. Làm sao chúng ta giải thích được sự kiện rằng một biến cố đặc biệt mà nhiều người biết đến nhưng lại không được các tác giả Tin Mừng đề cập? Đây là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy những lần hiện ra khác của Chúa Phục sinh đã không được ghi chép lại, mặc dù chúng nằm trong số những sự kiện nổi tiếng đã xảy ra.

Làm sao Đức Trinh Nữ, hiện diện trong cộng đoàn các môn đệ đầu tiên, có thể bị loại khỏi những người đã gặp Người Con thần linh của mình sau khi Người sống lại từ cõi chết?

Thật vậy, có thể cho rằng Mẹ có lẽ là người đầu tiên mà Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra. Sự vắng mặt của Đức Maria trong nhóm phụ nữ đến mộ lúc rạng sáng há không cho biết rằng Mẹ đã gặp Chúa Giêsu rồi đó sao? Suy luận này cũng sẽ được xác nhận bởi sự kiện rằng các nhân chứng đầu tiên của sự Phục sinh, theo ý muốn của Chúa Giêsu, là những người phụ nữ đã trung thành hiện diện dưới chân Thập giá và do đó đã kiên định hơn trong đức tin.

Quả thật, Chúa Phục sinh đã ký thác cho một trong số họ, là Maria Mađalêna, sứ điệp để truyền lại cho các Tông Đồ. Có lẽ sự kiện này cũng cho phép chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu đã hiện ra trước hết với Mẹ, là người trung thành nhất và đã giữ vững đức tin của mình khi bị thử thách.

Cuối cùng, tính chất độc đáo và đặc biệt trong sự hiện diện của Đức Trinh Nữ trên đồi Canvê và sự kết hợp hoàn hảo của Mẹ với Chúa Con trong đau khổ của Người trên Thập giá dường như giả định một sự chia sẻ rất đặc biệt của Mẹ trong mầu nhiệm Phục sinh.

Sedulius, một tác giả vào thế kỷ thứ năm, khẳng quyết rằng trong sự sống Phục sinh huy hoàng của Người, Chúa Kitô đã trước hết hiện ra với Mẹ. Thật vậy, ở biến cố Truyền Tin, Mẹ là con đường để Chúa bước vào thế giới, thì nay Mẹ cũng được kêu gọi để loan truyền tin Phục sinh kỳ diệu, hầu trở thành sứ giả cho sự xuất hiện vinh quang của Chúa. Như vậy, được đắm mình trong vinh quang của Chúa Phục sinh, Mẹ báo trước sự huy hoàng của Giáo hội.

Dường như hợp lý việc nghĩ rằng Đức Maria, với tư cách là hình ảnh và mẫu thức của Giáo hội đang chờ đợi Đấng Phục sinh và gặp Người trong nhóm các môn đồ qua những lần Người hiện ra sau Phục sinh, đã có một sự tiếp xúc riêng với Người Con Phục sinh của mình, để Mẹ cũng có thể mừng rỡ hân hoan trong niềm vui Vượt qua trọn vẹn.

Có mặt tại Canvê vào Thứ Sáu Thánh và trong Phòng Tiệc Ly vào Lễ Ngũ Tuần, Đức Trinh Nữ có lẽ cũng là một chứng nhân ưu tiên về sự Phục Sinh của Chúa Kitô, nhờ đó hoàn thành sự tham gia của Mẹ vào tất cả các khoảnh khắc thiết yếu của mầu nhiệm Vượt qua. Khi chào đón Chúa Giêsu Phục sinh, Đức Maria cũng là một dấu chỉ và sự báo trước của nhân tính hy vọng đạt được sự viên mãn thông qua sự sống lại của kẻ chết.

Trong mùa Phục Sinh, cộng đoàn Kitô hữu hướng về Thánh Mẫu của Chúa và mời Mẹ vui lên: “Regina Caeli, laetare. Alleluia!“. “Lạy Nữ Vương thiên đàng, hãy vui mừng. Alleluia!” Lời này gợi lại niềm vui của Đức Maria trong sự Phục sinh của Chúa Giêsu, nối dài tiếng mời gọi “hãy vui lên” mà Thiên thần đã nói với Mẹ trong cuộc Truyền Tin, để Mẹ trở thành một nguyên nhân của “niềm vui lớn” cho tất cả mọi người.

 

Chương 2: Chúa Lên Trời

Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II vào Lễ Trọng Chúa Lên Trời, ngày 24 tháng 5 năm 1979:

Các con, các anh em, và các bạn thân mến trong Chúa Giêsu Kitô,

Với niềm vui và với những quyết tâm mới mẻ cho tương lai, chúng ta hãy cùng suy ngẫm ngắn gọn về mầu nhiệm lớn lao của Phụng vụ hôm nay. Trong các bài đọc Kinh thánh, toàn bộ ý nghĩa của biến cố Chúa Kitô Lên Trời được tóm tắt cho chúng ta. Sự phong phú của mầu nhiệm này được nêu rõ trong hai câu: Chúa Giêsu đã phán dạy, và sau đó Chúa Giêsu lên trời.

Trong sự quan phòng của Thiên Chúa theo kế hoạch vĩnh cửu của Chúa Cha, giờ đã đến để Chúa Kitô ra đi. Người sẽ để lại các Tông Đồ của mình, cùng với Mẹ Maria, nhưng chỉ sau khi Người đã ban cho họ những chỉ thị. Các Tông Đồ giờ đây có một sứ mạng phải thực thi theo những chỉ thị mà Chúa Giêsu đã để lại, và những chỉ thị này chính là sự diễn tả trung thành ý muốn của Chúa Cha.

Trước hết, các chỉ thị ấy cho biết rằng các Tông Đồ phải chờ đợi Chúa Thánh Thần, là quà tặng của Chúa Cha. Ngay từ đầu, phải xác định rõ ràng rằng nguồn sức mạnh của các Tông Đồ là Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo hội trên con đường sự thật; Phúc Âm phải được lan truyền thông qua quyền năng của Chúa, chứ không phải bằng sự khôn ngoan hay sức mạnh của con người.

Hơn nữa, các Tông Đồ được chỉ thị phải dạy cách công bố Tin Mừng cho toàn thế giới. Và họ phải làm phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Giống như Chúa Giêsu, họ phải nói rõ ràng về Nước Thiên Chúa và về sự cứu rỗi. Các Tông Đồ phải làm chứng về Chúa Kitô cho đến tận cùng trái đất. Giáo hội sơ khai hiểu rõ những chỉ thị này và kỷ nguyên thừa sai bắt đầu. Và mọi người đều biết rằng kỷ nguyên thừa sai này không bao giờ có thể kết thúc cho đến khi chính Chúa Giêsu, Đấng đã lên trời, sẽ trở lại.

Những lời của Chúa Giêsu đã trở thành kho báu để Giáo hội bảo vệ và công bố, để suy ngẫm và sống theo. Và đồng thời, Chúa Thánh Thần đã gieo vào Giáo hội một đặc sủng tông đồ, để giữ cho mặc khải này được nguyên vẹn. Qua lời của Người, Chúa Giêsu sống mãi trong Giáo hội của Người: Thầy ở cùng anh em mọi ngày. Và vì thế toàn thể cộng đoàn giáo hội ý thức được nhu cầu phải trung thành với những chỉ thị của Chúa Giêsu, với kho tàng đức tin. Mối quan tâm này phải được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến thời của chúng ta. Và chính vì nguyên tắc này mà gần đây cha đã nói chuyện với các Giám đốc của các con, lưu ý rằng ưu tiên hàng đầu đối với các chủng viện ngày nay là giảng dạy lời Chúa trong tất cả sự nguyên tuyền và toàn vẹn của nó, với tất cả sự khẩn thiết và trong tất cả sức mạnh của nó. Lời Chúa – và chỉ có lời Chúa mới là nền tảng cho mọi thừa tác vụ, cho mọi hoạt động mục vụ, và cho mọi hành động của linh mục.

Sức mạnh của lời Chúa đã làm nên cơ sở năng động của Công đồng Vatican II, và Đức Gioan XXIII đã chỉ rõ vào ngày khai mạc Công đồng: ‘Mối quan tâm lớn nhất của Công đồng Chung là: kho tàng thánh thiêng của giáo lý Kitô giáo phải được bảo vệ và giảng dạy hiệu quả hơn. Và để cho các chủng sinh của thế hệ này được chuẩn bị đầy đủ để tiếp nhận di sản và thách thức của Công đồng này, họ phải được đào tạo trước hết trong lời Chúa: trong ‘kho tàng thánh thiêng của giáo lý Kitô giáo’. Vâng, các con thân mến, thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với những chỉ thị của Chúa Giêsu.

Và suy tư thứ hai về ý nghĩa của Lễ Thăng Thiên được tìm thấy trong câu này: Chúa Giêsu đã lên trời. Sau khi trải qua sự hạ mình trong cuộc khổ nạn và cái chết của Người, Chúa Giêsu đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa; Người ở với Cha vĩnh cửu của Người. Nhưng Người cũng đã lên trời với tư cách là Đầu của chúng ta. Theo đó, trong cách diễn đạt của Đức Lêô Cả, vinh quang của Đầu đã trở thành hy vọng của thân thể. Cho đến muôn đời, Chúa Kitô ở với Thiên Chúa trong tư cách Trưởng tử giữa nhiều anh em: bản chất của chúng ta ở với Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Và với tư cách con người, Chúa Giêsu hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta với Chúa Cha. Đồng thời, từ ngai vinh quang của Người, Chúa Giêsu gửi đến toàn thể Giáo hội một sứ điệp hy vọng và lời kêu gọi nên thánh.

Nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, nhờ sự chuyển cầu của Người với Chúa Cha, trong Người, chúng ta có thể đạt được đời sống công chính và thánh thiện. Giáo hội có thể kinh nghiệm những khó khăn, Tin Mừng có thể chịu những bước lùi, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha nên Giáo hội sẽ không bao giờ thất bại. Chiến thắng của Chúa Kitô là của chúng ta. Quyền năng của Chúa Kitô vinh quang, là Con yêu dấu của Cha vĩnh cửu, thì sung mãn vô hạn, để nâng đỡ mỗi người và tất cả chúng ta trong sự trung thành tận tụy đối với Nước Thiên Chúa, và trong đời sống độc thân quảng đại của chúng ta. Hiệu ứng của cuộc Thăng Thiên của Chúa Kitô chạm đến tất cả chúng ta trong thực tế cụ thể cuộc sống hàng ngày. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi chờ đợi trong niềm hân hoan hy vọng về sự đến lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta.

Các con thân mến, hãy thấm nhuần niềm hy vọng vốn chủ yếu thuộc về mầu nhiệm Thăng Thiên của Chúa Giêsu. Hãy ý thức sâu sắc về chiến thắng khải hoàn của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết. Hãy nhận thức rằng sức mạnh của Chúa Kitô lớn hơn sự yếu đuối của chúng ta, lớn hơn sự yếu đuối của toàn thế giới. Hãy cố gắng hiểu và chia sẻ niềm vui mà Đức Maria đã kinh nghiệm khi biết rằng Con của Mẹ đã ngự bên Chúa Cha, Đấng mà Người yêu mến vô hạn. Và hôm nay, hãy đổi mới trong lời hứa của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã đi để dọn chỗ cho chúng ta, để Người có thể trở lại và đưa chúng ta đến với Người.

Đó là mầu nhiệm Lên Trời của Đầu chúng ta. Ta hãy luôn nhớ: Chúa Giêsu đã phán dạy, và rồi Người đã lên trời. Amen.

 

Chương 3: Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II vào Lễ Trọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Chúa Nhật, ngày 31 tháng 5 năm 1998:

Credo in Spiritum Sanctum, Dominum et vivificantem: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống.

Với những lời trong Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople, Giáo hội tuyên xưng đức tin của mình vào Đấng Bảo Trợ; một đức tin nảy sinh từ kinh nghiệm tông truyền về biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Đoạn trích từ sách Công vụ Tông đồ, mà Phụng vụ hôm nay cung cấp cho chúng ta suy niệm, nhắc lại chính những điều kỳ diệu đã diễn ra vào ngày Lễ Ngũ Tuần, khi các Tông Đồ vô cùng kinh ngạc nhận thấy lời của Chúa Giêsu trở nên ứng nghiệm. Như được đề cập trong đoạn Phúc Âm thánh Gioan mới vừa được công bố, vào đêm trước Cuộc Khổ nạn của Người, Chúa Giêsu đã bảo đảm với họ: “Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, để ở với anh em luôn mãi.” “Đấng Hướng Dẫn này là Chúa Thánh Thần, được Chúa Cha sai đến nhân danh Thầy, Ngài sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ nhắc anh em nhớ lại những gì Thầy đã nói với anh em.”

Và Chúa Thánh Thần, ngự xuống trên họ với quyền năng phi thường, đã giúp họ công bố giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô cho toàn thế giới. Lòng can đảm của họ thật lớn lao, quyết tâm của họ thật vững vàng, đến mức họ đã sẵn sàng làm bất cứ điều gì, ngay cả hy sinh mạng sống mình. Quà tặng Thánh Thần đã giải phóng những năng lực thâm sâu nhất của họ, tập trung các năng lực ấy vào sứ mạng mà Đấng Cứu Chuộc ủy thác cho họ. Và chính Đấng Phù Trợ, Parakletos, sẽ hướng dẫn họ rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Thánh Thần sẽ dạy họ sự thật trọn vẹn, rút ​​ra từ kho tàng lời Chúa Kitô, để đến lượt mình, họ có thể truyền đạt cho mọi người ở Giêrusalem và khắp nơi trên thế giới.

Làm sao ta có thể không tạ ơn Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu mà Chúa Thánh Thần không ngừng thực hiện trong hai thiên niên kỷ qua của Kitô giáo? Thật vậy, sự kiện ân sủng vào Lễ Ngũ Tuần đã tiếp tục sinh hoa trái kỳ diệu, khơi lên ở khắp mọi nơi nhiệt tâm tông đồ, lòng khao khát chiêm niệm, sự dấn thân sống phục vụ Thiên Chúa và anh chị em chúng ta một cách tận lực. Ngày nay, Chúa Thánh Thần cũng nâng đỡ những hành động tha thứ và lời ngôn sứ lớn và nhỏ trong Giáo hội, và ban sức sống cho những đặc sủng và ân ban luôn mới mẻ, chứng thực rằng Ngài không ngừng hành động trong trái tim con người.

Veni, Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!

Bài kinh tuyệt đẹp này, chứa đựng một thần học phong phú về Chúa Thánh Thần, cũng đáng để suy ngẫm, từng đoạn một. Ở đây chúng ta suy ngẫm chỉ từ đầu tiên: Veni, xin ngự đến! Nó gợi lại sự chờ đợi của các Tông Đồ sau khi Chúa Kitô lên trời.

Trong Công vụ Tông đồ, Luca trình bày cho ta thấy họ tụ họp tại Phòng Tiệc Ly để cầu nguyện cùng với Mẹ Chúa Giêsu. Còn lời nào hay hơn những lời này để diễn tả tâm tình cầu nguyện của họ: “Veni, Sancte Spiritus“, “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến”? Đây là lời cầu khẩn xin Đấng đã di chuyển trên mặt nước vào buổi ban đầu của thế giới, Đấng mà Chúa Giêsu đã hứa với họ là Đấng Bảo Trợ.

Vào khoảnh khắc ấy, trái tim của Đức Maria và các Tông Đồ đang khát mong Ngài đến, trong đức tin nồng cháy xen lẫn với cảm nhận về sự bất xứng của con người. Lòng đạo đức của Giáo hội đã diễn dịch và truyền đạt tình cảm này trong bài thánh ca “Veni, Sancte Spiritus”. Các Tông Đồ biết rằng công việc mà Chúa Kitô giao phó cho họ thì cam go, nhưng có tính quyết định đối với lịch sử cứu độ con người. Liệu họ có thể hoàn thành được không? Chúa trấn an họ. Ở mỗi bước của sứ mạng dẫn họ đến việc công bố và làm chứng cho Tin Mừng đến tận cùng trái đất, họ sẽ có thể trông cậy vào Thánh Thần mà Chúa Kitô đã hứa. Nhớ lại lời hứa của Chúa Kitô vào những ngày giữa biến cố Thăng Thiên và Lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ sẽ tập trung mọi ý nghĩ và tình cảm của mình vào lời khẩn cầu ‘veni / xin ngự đến’ này.

Veni, Sancte Spiritus! Do đó, khi bắt đầu lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần, Giáo hội đã lấy làm của mình chính lời cầu nguyện của các Tông đồ khi các vị tụ họp với Đức Maria trong Phòng Tiệc Ly, thực vậy, Giáo hội mở rộng lời cầu nguyện đó trong lịch sử và làm cho nó luôn hợp thời.

Veni, Sancte Spiritus! Giáo hội lặp đi lặp lại như thế ở mọi ngóc ngách của trái đất, lòng sốt sắng không thay đổi, Giáo hội nhận thức rõ rằng mình phải ở lại trong Phòng Tiệc Ly, luôn chờ đợi Chúa Thánh Thần. Đồng thời, Giáo hội biết rằng mình phải rời Phòng Tiệc Ly và bước vào những con đường của thế giới, với nhiệm vụ luôn mới mẻ là làm chứng cho mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần.

Veni, Sancte Spiritus! Chúng ta cầu nguyện như thế cùng với Đức Maria, cung thánh của Chúa Thánh Thần, nơi cư ngụ tiên vàn của Chúa Kitô giữa chúng ta, để Mẹ có thể giúp chúng ta trở thành những đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần và những chứng nhân không mệt mỏi của Tin Mừng.

Chương 4: Đức Maria Hồn Xác Lên Trời

Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II trong Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 8 tại Denver, Colorado, vào Lễ trọng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Chúa Nhật, ngày 15 tháng 8 năm 1993:

“Thiên Chúa toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả.”

Các bạn trẻ và quí thân hữu quí mến trong Chúa Kitô,

Hôm nay, cùng với Đức Maria, Giáo hội thấy mình đang ở ngưỡng cửa ngôi nhà của Dacaria ở Ain-Karim. Với sự sống mới đang dâng trào trong mình, Đức Trinh Nữ thành Nazareth đã vội vã đến đó, ngay sau lời thưa Fiat của biến cố Truyền Tin, để giúp đỡ người chị họ Êlisabét của mình.

Chính Êlisabét là người đầu tiên nhận ra “những điều cao cả” mà Thiên Chúa đang làm nơi Đức Maria. Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Êlisabét ngạc nhiên khi Mẹ của Chúa đến với mình. Nhận hiểu sâu sắc về mầu nhiệm, bà tuyên bố: “Phước cho em là người đã tin rằng lời Chúa nói với em sẽ được ứng nghiệm.” Với tâm hồn dạt dào lòng khiêm nhường tri ân đối với Chúa, Đức Maria đã đáp lại bằng một bài thánh ca ngợi khen: “Thiên Chúa toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Ngài là thánh.”

Với Lễ này, Giáo hội cử hành chóp đỉnh của “những điều cao cả” mà Thiên Chúa đã làm nơi Đức Maria: sự Lên Trời Cả Hồn Và Xác vinh quang của Mẹ. Và khắp trong Giáo hội, cùng một bài thánh ca tạ ơn “Magnificat” vang lên như lần đầu tiên tại Ain-Karim: Muôn thế hệ sẽ gọi Mẹ là người có phúc.

Tập trung đây dưới chân Dãy Núi Đá, Rocky Mountains, nơi nhắc nhở chúng ta rằng Giêrusalem cũng được bao quanh bởi những ngọn đồi, và Đức Maria đã đi lên trên những ngọn đồi đó, chúng ta cử hành việc Mẹ “đi lên” đến Giêrusalem trên trời, đến ngưỡng cửa Đền thờ vĩnh cửu của Chúa Ba Ngôi Chí Thánh. Tại Denver, trong “Ngày Giới Trẻ Thế giới”, những người con trai và con gái Công giáo Mỹ, cùng với những người khác “từ mọi chi tộc và ngôn ngữ, mọi dân nước”, nối vào với tất cả các thế hệ kêu lên: Chúa đã làm những điều cao cả cho Mẹ và cho tất cả chúng con, những thành viên của đoàn dân hành hương của Ngài.

Với trái tim tràn đầy lời ngợi khen Nữ Vương Thiên đàng, dấu chỉ của hy vọng và nguồn an ủi trên cuộc hành hương đức tin của chúng ta tiến về “Giêrusalem trên trời”, Cha chào tất cả các con hiện diện trong Phụng vụ trọng thể này. Cha rất vui khi thấy rất nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân từ Denver, từ tiểu bang Colorado, từ khắp mọi nơi của Hoa Kỳ và từ rất nhiều quốc gia trên thế giới, những người cùng với các bạn trẻ của Ngày Giới Trẻ Thế Giới tôn vinh chiến thắng dứt khoát của ân sủng nơi Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc.

“Ngày Giới Trẻ Thế Giới” lần thứ tám là một cuộc cử hành Sự Sống. Cuộc qui tụ này là dịp để suy ngẫm nghiêm túc về lời của Chúa Giêsu Kitô: “Ta đến cho chúng được sống và sống dồi dào”. Các bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới, trong lời cầu nguyện sốt sắng, các con đã mở lòng mình ra với sự thật về lời Chúa Kitô hứa ban Sự Sống mới. Qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể, và với sự hiệp nhất và tình thân hữu được kiến tạo giữa rất nhiều người, các con đã có một kinh nghiệm về Sự Sống mới thực sự và có sức biến đổi mà chỉ Chúa Kitô mới có thể ban tặng. Các con, những người hành hương trẻ tuổi, cũng đã cho thấy rằng các con hiểu món quà Sự Sống của Chúa Kitô không chỉ dành riêng cho các con mà thôi. Các con đã ý thức hơn về ơn gọi và sứ mạng của mình trong Giáo hội và trong thế giới. Đối với Cha, cuộc hội ngộ này là một kinh nghiệm sâu sắc và cảm động về đức tin của các con đặt vào Chúa Kitô, và Cha muốn mượn những lời của Thánh Phaolô: “Cha rất tin tưởng các con, Cha rất tự hào về các con; Cha cảm thấy tràn đầy an ủi và niềm vui.”

Đây không phải là những lời ngợi khen suông. Cha tin rằng các con đã nắm bắt được tầm mức của thách thức trước mặt các con, và rằng các con sẽ có sự khôn ngoan và can đảm để đáp lại thách đố ấy. Rất nhiều điều phụ thuộc vào các con.

Thế giới kỳ diệu này, được Chúa Cha yêu thương đến nỗi đã sai Con Một của Ngài đến để cứu rỗi, là sân khấu của một cuộc chiến bất tận đang diễn ra vì phẩm giá và căn tính của chúng ta là những hữu thể có tinh thần và tự do. Cuộc đấu tranh này song song với cuộc chiến khải huyền được mô tả trong Bài đọc thứ nhất của Thánh lễ này. Sự chết chiến đấu chống lại Sự Sống: một “nền văn hóa của sự chết” tìm cách áp đặt chính nó lên khát vọng sống và sống trọn vẹn của chúng ta. Có những người từ chối ánh sáng của sự sống, thích “những công việc vô nghĩa của bóng tối” hơn. Điều họ gặt hái là sự bất công, kỳ thị, bóc lột, lừa dối, bạo lực. Trong mọi thời đại, thước đo thành công hiển nhiên của họ là cái chết của những người vô tội. Trong thế kỷ của chúng ta, như chưa từng bao giờ trong lịch sử, “văn hóa sự chết” đã mang một dạng thức hợp pháp có tính thiết chế và xã hội để biện minh cho những tội ác khủng khiếp nhất chống lại loài người: diệt chủng, “những giải pháp cuối cùng”, “những thanh trừng sắc tộc”, và làn sóng “tước đoạt mạng sống của con người ngay cả trước khi họ được sinh ra, hoặc trước khi họ đạt đến điểm chết tự nhiên”.

Bài đọc hôm nay từ sách Khải huyền trình bày người Phụ Nữ bị bao vây bởi các thế lực thù địch. Bản chất tuyệt đối của cuộc tấn công do các thế lực này được tượng trưng trong đối tượng của ý định xấu xa nơi họ: Đứa Trẻ, biểu tượng của sự sống mới. “Con rồng”, “kẻ thống trị thế giới này”, là “cha của sự dối trá”, không ngừng cố gắng xóa bỏ khỏi trái tim con người cảm thức biết ơn và tôn trọng đối với món quà đầu tiên, phi thường và nền tảng Chúa ban: đó là chính sự sống con người. Ngày nay, cuộc đấu tranh này ngày càng trở nên trực tiếp hơn.

Các bạn thân mến, cuộc qui tụ này ở Denver về chủ đề Sự Sống sẽ dẫn chúng ta đến nhận thức về mâu thuẫn nội tại hiện diện trong một phần văn hóa của “thành thị”.

Khi những Người sáng lập của quốc gia vĩ đại này lưu giữ một số điều bất khả xâm phạm trong Hiến pháp, và một điều tương tự cũng tồn tại ở nhiều quốc gia và trong nhiều Tuyên Ngôn quốc gia – họ đã làm thế vì họ công nhận sự tồn tại của một “luật”, một loạt các quyền và nghĩa vụ, được Đấng Tạo hóa khắc ghi vào trái tim và lương tâm của mỗi người.

Trong nhiều suy nghĩ ngày nay, không hề thấy bất kỳ tham chiếu nào đến “luật” được Đấng Sáng Tạo bảo đảm. Chỉ còn lại sự lựa chọn của mỗi cá nhân về mục tiêu này hay mục tiêu kia được thấy là thuận tiện hay hữu ích trong một bối cảnh nhất định. Không còn bất cứ điều gì tự nó được coi là “tốt” và “có tính ràng buộc phổ quát” nữa. Các quyền được khẳng định nhưng vì chúng không dựa trên bất kỳ sự thật khách quan nào nên chúng bị tước đi mọi cơ sở vững chắc của chúng. Nhiều lãnh vực rộng lớn của xã hội đang bối rối không biết điều gì đúng và điều gì sai, và phụ thuộc vào những người có quyền “tạo ra” ý kiến ​​và áp đặt nó lên người khác.

Đặc biệt, gia đình đang bị tấn công. Và đặc tính thánh thiêng của sự sống con người bị phủ nhận. Đương nhiên là những thành viên yếu ớt nhất của xã hội là những người có nguy cơ cao nhất: những sinh linh chưa chào đời, trẻ em, người bệnh, người tàn tật, người già, người nghèo và người thất nghiệp, người nhập cư và người tị nạn, Nam bán cầu!

Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời & Cuộc Chiến Đấu Cho Sự Sống

Hỡi những người hành hương trẻ tuổi, Chúa Kitô cần các con soi sáng thế giới và chỉ cho thế giới “con đường dẫn đến sự sống”. Thách đố ở đây là làm sao cho tiếng “vâng” của Giáo hội đối với Sự Sống trở nên cụ thể và hữu hiệu. Cuộc chiến sẽ còn dài, và cần đến từng người trong các con. Hãy đặt trí thông minh, tài năng, lòng nhiệt thành, lòng trắc ẩn và sự kiên cường của các con vào việc phục vụ sự sống!

Đừng sợ. Kết quả của cuộc chiến đấu cho Sự Sống đã được định đoạt, mặc dù cuộc chiến vẫn tiếp diễn cam go với nhiều đau khổ. Sự chắc chắn này chính là điều mà Bài đọc thứ hai tuyên bố: “Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, là hoa trái đầu mùa của những người đã an nghỉ… vì vậy, trong Chúa Kitô, tất cả sẽ sống lại”. Nghịch lý của sứ điệp Kitô giáo là: Chúa Kitô, Đấng là Đầu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Còn Chúa Kitô trong Thân Thể của Người, là đoàn dân lữ hành của Thiên Chúa, thì vẫn còn phải chịu sự tấn công của Ác Thần và mọi sự dữ mà nhân loại tội lỗi có thể gây ra.

Tại giai đoạn này của lịch sử, sứ điệp giải phóng của Tin Mừng Sự Sống đã được trao vào tay các con. Và sứ mạng công bố sứ điệp ấy đến tận cùng trái đất giờ đây đang chuyển trao cho thế hệ các con. Giống như Thánh Tông Đồ Phaolô vĩ đại, các con cũng phải cảm thấy tính cấp bách của nhiệm vụ này: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Khốn cho các con nếu các con không thành công trong việc bảo vệ sự sống. Giáo hội cần năng lực, nhiệt huyết, lý tưởng tuổi trẻ của các con, để làm cho Tin Mừng Sự Sống thấm nhuần vào cấu trúc xã hội, biến đổi trái tim con người và các cơ cấu của xã hội để tạo ra một nền văn minh của công lý và tình yêu đích thực. Bây giờ hơn bao giờ hết, trong một thế giới thường không có ánh sáng và không có lòng can đảm của những lý tưởng cao quí, mọi người cần đến tinh thần tươi mới và sống động của Phúc Âm.

Đừng sợ ra đường và đến những nơi công cộng, giống như các Tông Đồ đầu tiên đã rao giảng về Chúa Kitô và Tin Mừng cứu rỗi tại các quảng trường của các thành phố, thị trấn và làng mạc. Đây không phải là lúc để xấu hổ về Phúc Âm. Đã đến lúc rao giảng Phúc Âm từ trên mái nhà. Đừng sợ phá vỡ lối sống thoải mái quen thuộc thường ngày, để đón nhận thử thách làm cho Chúa Kitô được biết đến trong các “thành phố lớn” hiện đại. Chính các con phải “ra các ngả đường” và mời mọi người mình gặp đến dự bữa tiệc mà Chúa đã chuẩn bị cho dân Ngài. Tin Mừng không được giữ kín vì sợ hãi hay thờ ơ. Tin Mừng không bao giờ có nghĩa là phải bị giấu kín trong riêng tư. Tin Mừng phải được đặt trên giá để mọi người có thể nhìn thấy ánh sáng của nó và ngợi khen Cha chúng ta trên trời.

Chúa Giêsu đã đi tìm những con người nam nữ vào thời của Người. Người đã đưa họ vào một cuộc đối thoại cởi mở và chân thành, bất kể tình trạng của họ như thế nào. Là Người Samaritanô Nhân Hậu của gia đình nhân loại, Người đã đến gần mọi người để chữa lành tội lỗi và những tổn thương mà họ gây ra, và đưa họ trở về nhà Cha. Hỡi những người trẻ của “Giời Trẻ Thế giới”, Giáo hội yêu cầu các con ra đi, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, đến với những người ở gần và những người ở xa. Hãy chia sẻ với họ sự tự do mà các con đã tìm thấy được trong Chúa Kitô. Mọi người đều khao khát sự tự do nội tâm đích thực. Họ khao khát Sự Sống mà Chúa Kitô đã đến để ban tặng một cách dồi dào.

Thế giới đang tiến gần đến một thiên niên kỷ mới, mà toàn thể Giáo hội đang chuẩn bị, giống như một cánh đồng sẵn sàng cho mùa gặt. Chúa Kitô cần những người lao động sẵn sàng làm việc trong vườn nho của Người. Mong rằng các con, những người trẻ Công giáo trên thế giới, không làm Người thất vọng. Trong tay các con, hãy mang lấy Thập giá của Chúa Kitô. Trên môi các con, hãy nói những lời của Sự Sống. Trong trái tim các con, hãy mang ân sủng cứu độ của Chúa.

Đức Mẹ được “Đưa lên Cõi Sống”

Được đưa lên trời, Đức Maria đã được “đưa vào Sự Sống” cả hồn lẫn xác. Mẹ vốn là một phần của “hoa trái đầu mùa”[8] từ Cái Chết và Sự Phục Sinh cứu chuộc của Đấng Cứu Thế. Chúa Con đã nhận sự sống nhân loại của Người từ Mẹ; đổi lại, Người đã ban cho Mẹ sự hiệp thông trọn vẹn trong Sự Sống Thần Linh. Mẹ là hữu thể duy nhất mà trong đó mầu nhiệm đã được hoàn tất trọn vẹn. Trong Đức Maria, chiến thắng cuối cùng của Sự Sống trên sự chết đã trở thành hiện thực. Và như Công đồng Vatican II dạy: “Trong Đức Trinh Nữ rất thánh, Giáo hội đã đạt đến sự hoàn hảo, nhờ đó Giáo hội hiện hữu không tì vết hay nhăn nheo.” Trong và qua Giáo hội, chúng ta cũng có hy vọng về “một gia sản bất diệt, tinh tuyền và không tàn phai, được giữ trên trời cho chúng ta.”

Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc! Mẹ của Người Con Hằng Hữu sinh ra từ cung lòng trinh khiết của Mẹ, Mẹ đầy ân sủng, Mẹ đã nhận được Sự Sống sung mãn hơn bất kỳ ai khác trong số con cháu của Ađam và Eva. Là “người nghe Lời Chúa” trung thành nhất, Mẹ không chỉ trân quí và suy ngẫm về mầu nhiệm này trong trái tim mình, mà Mẹ còn giữ mầu nhiệm này trong thân xác mình và nuôi dưỡng bằng tình yêu tự hiến mà Mẹ đã bao bọc Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Người. Là Mẹ của Giáo hội, Mẹ vẫn hướng dẫn chúng con từ nơi của Mẹ trên thiên đàng và chuyển cầu cho chúng con. Mẹ dẫn chúng con đến với Chúa Kitô, là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, và giúp chúng con tăng trưởng trong sự thánh thiện bằng cách chiến thắng tội lỗi.

Phụng vụ trình bày Mẹ như người Phụ Nữ mặc áo mặt trời. Nhưng Mẹ thậm chí còn được khoác lên mình Ánh sáng Thần linh huy hoàng hơn nữa, là Ánh sáng có thể trở thành Sự Sống cho tất cả những ai được tạo ra theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa: “Sự Sống này là ánh sáng của nhân loại; ánh sáng chiếu rọi trong bóng tối, và bóng tối không thắng được ánh sáng”.

Hỡi Mẹ là người phụ nữ khoác áo mặt trời, các bạn trẻ trên thế giới chào mừng Mẹ với tràn đầy yêu thương; họ đến cùng Mẹ với tất cả lòng can đảm của những trái tim trẻ trung. Denver đã giúp họ trở nên ý thức hơn về Sự Sống mà Người Con Thần linh của Mẹ mang đến.

Tất cả chúng tôi là chứng nhân của điều này

Những người trẻ tuổi này giờ đây biết rằng Sự Sống mạnh mẽ hơn các thế lực của sự chết; họ biết rằng Sự Thật mạnh mẽ hơn bóng tối; rằng Tình Yêu mạnh hơn cái chết.

Lạy Mẹ Maria, thần trí của Mẹ hân hoan, và thần trí chúng con hân hoan với Mẹ vì Đấng Toàn năng đã làm những điều cao cả cho Mẹ và cho chúng con, cho tất cả các bạn trẻ này tụ họp ở đây tại Denver, cho tất cả chúng con, cho tất cả các bạn trẻ trên thế giới, cho mọi người trẻ của thế hệ này và thế hệ tương lai. Đấng Toàn Năng đã làm những điều cao cả cho Mẹ, và cho chúng con. Cho Mẹ và cho chúng con, cho chúng con với Mẹ. Bởi vì Ngài là Đấng Toàn Năng, và Danh Ngài là thánh!

Lòng thương xót của Chúa trải qua đời nọ đến đời kia.

Lạy Mẹ Maria, chúng con hân hoan, chúng con vui mừng với Mẹ là Trinh Nữ được đưa lên trời. Chúa đã làm những điều cao cả cho Mẹ! Chúa đã làm những điều cao cả cho chúng con! Alleluia. Amen.

 

Chương 5: Đức Maria nhận Triều thiên vinh quang

Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II vào Lễ trọng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Chúa Nhật, ngày 15 tháng 8 năm 1998:

“Phúc cho em là người đã tin rằng những gì Chúa đã phán với em sẽ được thực hiện”.

Với những lời này, bà Êlisabét chào đón Đức Mẹ đến thăm bà. Cùng một phúc hạnh này vang vọng trên trời dưới đất, từ thế hệ này sang thế hệ khác (x. Lc 1,48), và đặc biệt trong lễ mừng trọng thể hôm nay. Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ đã mau mắn tin vào Lời Chúa, vì Mẹ đã chấp nhận không chút do dự thánh ý của Đấng Toàn Năng được thiên thần mặc khải cho Mẹ trong biến cố Truyền Tin.

Chúng ta có thể thấy trong hành trình của Mẹ từ Nadaret đến Ain-Karin, được kể lại trong Phúc Âm hôm nay, một hình ảnh báo trước về hành trình tâm linh độc đáo của Mẹ, bắt đầu bằng lời “xin vâng” trong ngày Truyền Tin, được tôn vinh bằng sự kiện Lên Trời cả hồn lẫn xác. Đó là một hành trình đến với Thiên Chúa, luôn được soi sáng và nâng đỡ bởi đức tin.

Công đồng Vatican II nói rằng Đức Maria “tiến tới trong cuộc hành hương đức tin của mình, và trung thành kiên trì trong sự kết hợp với Con của mình cho đến Thập giá. Vì thế, Mẹ đã làm hài lòng Vua vũ trụ với vẻ đẹp vô song của Mẹ đến nỗi giờ đây, được gắn kết trọn vẹn với Người trong thân xác và linh hồn, Mẹ rạng rỡ như Nữ hoàng đứng bên hữu Người.

Trong lễ trọng hôm nay, Phụng vụ mời gọi tất cả chúng ta chiêm ngắm Đức Maria như “người phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”. Trong Mẹ, tỏa sáng chiến thắng của Chúa Kitô trước Satan, được ngôn ngữ khải huyền mô tả là “con rồng đỏ to lớn”.

Thị kiến vinh quang và đồng thời đầy kịch tính này nhắc nhở Giáo hội trong mọi thời đại về vận mệnh rạng ngời của mình trong Thiên Quốc, và về sự an ủi trong những thử thách mà mình phải chịu trong cuộc lữ hành trần thế. Chừng nào thế giới này còn tồn tại, lịch sử sẽ luôn là sân khấu của cuộc đụng độ giữa Thiên Chúa và Satan, giữa thiện và ác, giữa ân sủng và tội lỗi, giữa sự sống và sự chết.

Các biến cố của thế kỷ này, giờ đây đang dần khép lại, cũng làm chứng một cách hùng hồn phi thường về chiều sâu của cuộc chiến đấu này, vốn ghi dấu lịch sử của các dân tộc, nhưng cũng đánh dấu trái tim của mọi người nam nữ. Tuy nhiên, lời loan báo Phục sinh vừa vang lên trong những lời của Thánh Phaolô, đặt nền tảng niềm hy vọng chắc chắn cho mọi người. Đức Maria rất thánh, được đưa lên trời, là biểu tượng sáng ngời của mầu nhiệm và niềm hy vọng này.

Trong năm thứ hai của việc chuẩn bị gần cho Đại Năm Thánh 2000, tôi muốn mời gọi các tín hữu chú ý hơn đến sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần, và “trân trọng cách mới mẻ đức cậy”.

Đức Maria, được tôn vinh trong thân xác của mình, hôm nay xuất hiện như ngôi sao hy vọng cho Giáo hội và cho nhân loại trên con đường tiến tới thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo. Vinh dự tột đỉnh của Mẹ không làm Mẹ xa cách mọi người hay xa cách các vấn đề của thế giới, ngược lại, nó cho phép Mẹ quan tâm cách hữu hiệu những vấn đề của con người với sự tận tâm mà nhờ đó Mẹ đã nhận được phép lạ đầu tiên từ Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana.

Sách Khải huyền nói rằng người phụ nữ mặc áo mặt trời “đang mang thai và kêu lên trong cơn đau chuyển dạ, cơn đau đớn khi sinh nở”. Điều này gợi nhớ đến một bản văn của Tông Đồ Phaolô, có tầm quan trọng nền tảng đối với thần học hy vọng Kitô giáo. chúng ta đọc trong Thư gửi tín hữu Rôma: “Chúng ta biết rằng toàn thể thụ tạo rên rỉ quằn quại như sắp sinh nở cho đến bây giờ; và không chỉ thụ tạo, mà cả chúng ta, những người lãnh nhận hoa trái đầu mùa là Thần Khí, cũng rên siết trong lòng khi chúng ta chờ đợi được trọn quyền làm con, nghĩa là sự cứu chuộc thân xác chúng ta. Vì trong niềm hy vọng này, chúng ta đã được cứu rỗi”.

Mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, chúng ta cầu xin Mẹ giúp mọi người nam nữ trong thời đại chúng ta sống trên trong đời này với đức tin và hy vọng, biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa trong mọi sự; xin Mẹ giúp các tín hữu mở lòng đón nhận sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng Tác Tạo và Thần Khí Đổi Mới, Đấng có thể biến đổi các tâm hồn; xin Mẹ khai sáng nhận thức chúng ta về vận mệnh đang chờ đợi mình, về phẩm giá của mỗi người và về sự cao quý của thân xác con người.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã được đưa lên trời, xin tỏ mình ra là Mẹ hy vọng cho mọi người! Xin tỏ ra cho mọi người nhận biết Mẹ là Nữ Vương của nền văn minh tình yêu!

 

Phần Ba: Các Mầu Nhiệm Vui

Trích từ Tông thư Rosarium Virginis Mariae của Thánh Gioan Phaolô II:

Năm chục đầu tiên là “Các Mầu Nhiệm Vui “, được đánh dấu bằng niềm vui tỏa ra từ sự kiện Nhập Thể. Điều này rõ ràng ngay từ mầu nhiệm đầu tiên, biến cố Truyền Tin, trong đó lời chào của thiên thần Gabriel với Đức Trinh Nữ thành Nadaret được liên kết với lời mời gọi vui niềm vui thiên sai: “Maria, hãy vui lên”. Toàn bộ lịch sử cứu độ, theo một nghĩa nào đó là toàn bộ lịch sử thế giới, đã dẫn đến lời chào này. Nếu đó là kế hoạch của Chúa Cha để hợp nhất mọi sự trong Chúa Kitô, thì cách nào đó toàn thể vũ trụ được ân sủng thần linh chạm đến, với ân sủng này Chúa Cha nhìn đến Đức Maria và làm cho người trở thành Mẹ của Chúa Con. Đến lượt mình, toàn thể nhân loại được ôm lấy bởi lời ‘fiat’ mà Mẹ thưa lên, sẵn sàng hưởng ứng thánh ý của Thiên Chúa.

Vui mừng hân hoan là âm hưởng chính của cuộc gặp gỡ với Êlisabét, trong đó tiếng nói của Đức Maria và sự hiện diện của Chúa Kitô trong lòng Mẹ khiến Gioan “nhảy mừng”. Niềm vui cũng tràn ngập khung cảnh ở Bêlem, khi sự ra đời của Chúa Hài Nhi, Đấng Cứu Độ trần gian, được loan báo bởi bài ca của các thiên thần và được công bố cho những người chăn chiên như là “tin mừng trọng đại”.

Hai mầu nhiệm cuối cùng, trong khi vẫn giữ sắc thái vui mừng này, đã hướng chỉ kịch tính sẽ xảy ra. Việc Dâng Chúa vào Đền thờ không chỉ diễn tả niềm vui của việc thánh hiến Hài Nhi và sự xuất thần của cụ già Simeon; mà sự kiện này còn ghi lại lời tiên tri rằng Chúa Kitô sẽ là “dấu hiệu mâu thuẫn” đối với Israel, và rằng một lưỡi gươm sẽ đâm thấu trái tim của Mẹ Người. Niềm vui pha lẫn với kịch tính đánh dấu mầu nhiệm thứ năm, việc tìm thấy Giêsu mười hai tuổi trong Đền thờ.

Ở đây, Người xuất hiện trong sự khôn ngoan thần linh của mình khi Người lắng nghe và đặt các câu hỏi, trong thực tế đã là một người “dạy dỗ”. Sự mặc khải về mầu nhiệm của Người là Người Con hoàn toàn phụng sự công việc của Chúa Cha công bố bản chất triệt để của Phúc Âm, trong đó ngay cả những mối tương quan gần gũi nhất của con người cũng bị thách thức bởi những đòi hỏi tuyệt đối của Nước Trời. Maria và Giuse, đầy âu lo, đã “không hiểu” những điều Chúa Giêsu nói.

Vì thế, suy ngẫm các mầu nhiệm “vui ” là đi vào nguyên nhân tối hậu và ý nghĩa sâu xa nhất của niềm vui Kitô giáo. Đó là tập trung vào tính hiện thực của mầu nhiệm Nhập Thể, cũng như thoáng nhìn mầu nhiệm Khổ nạn có sức cứu độ. Đức Maria dẫn chúng ta khám phá bí mật của niềm vui Kitô giáo, nhắc nhở chúng ta rằng Kitô giáo, trước hết và trên hết, là evangelion, “tin mừng”, với trung tâm và toàn bộ nội dung là con người của Chúa Giêsu Kitô, là Ngôi Lời trở thành xác phàm, Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.

Chương 1: Truyền tin

Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II tại Nadaret trong chuyến hành hương Năm Thánh của ngài đến Thánh Địa, trong Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Truyền Tin, thứ Bảy, ngày 25 tháng 3 năm 2000:

“Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin hãy thực hiện nơi tôi theo lời ngài.” Vào ngày này, toàn thể Giáo hội hướng mắt về Nadaret. Tôi đã mong muốn được trở lại thị trấn của Chúa Giêsu, để tiếp xúc với nơi này và một lần nữa cảm nhận sự hiện diện của người phụ nữ mà Thánh Augustin đã viết: “Người đã chọn người Mẹ mà Người đã tạo ra; Người đã tạo ra người Mẹ mà Người đã chọn.” Ở đây, thật dễ hiểu tại sao mọi thế hệ đều gọi Đức Maria là người có phúc.

… Chúng ta tụ họp để cử hành mầu nhiệm cao cả được thực hiện tại nơi này cách đây hai ngàn năm. Thánh sử Luca đã đặt sự kiện này một cách rõ ràng vào thời gian và địa điểm: “Tháng thứ sáu, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành miền Galilê, tên là Nadaret, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse… Trinh nữ tên là Maria.”

Nhưng để hiểu những gì đã diễn ra ở Nadaret hai ngàn năm trước, chúng ta phải trở lại với Bài đọc trích từ Thư gửi tín hữu Do Thái. Bản văn đó cho phép chúng ta lắng nghe đúng cuộc đàm thoại giữa Chúa Cha và Chúa Con về mục đích của Thiên Chúa từ đời đời. “Cha không muốn hy lễ hay lễ vật dâng hiến, nhưng đã chuẩn bị cho con một thân xác. Cha không thích lễ toàn thiêu hay lễ tế chuộc tội. Bấy giờ con thưa “Lạy Chúa, này con đây! Con đến để thực thi ý Chúa.” Thư gửi tín hữu Do Thái cho ta biết rằng trong niềm vâng phục ý Chúa Cha, Ngôi Lời Hằng Hữu đến giữa chúng ta để dâng hy lễ vượt trên mọi hy lễ của Giao ước cũ. Hy lễ của Người là hy lễ hoàn hảo và vĩnh cửu có sức cứu chuộc thế gian.

Kế hoạch của Thiên Chúa dần được vén mở trong Cựu Ước, đặc biệt là trong lời của Tiên tri Isaia mà chúng ta vừa nghe: “Chính Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu hiệu. Đó là: trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con mà sẽ được gọi là Emmanuel.” Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Những lời này báo trước sự kiện độc nhất sẽ diễn ra tại Nadaret vào thời điểm viên mãn, chính là sự kiện mà chúng ta đang cử hành đây với niềm vui và hạnh phúc sâu xa.

Cuộc hành hương Năm Thánh của chúng ta là một hành trình trong tinh thần, bắt đầu theo bước chân của Abraham, “cha chúng ta trong đức tin”. Hành trình đó hôm nay đã đưa chúng ta đến Nadaret đây, nơi chúng ta gặp Đức Maria, nữ tử chân thực nhất của Abraham. Đức Maria là người trước hết có thể dạy chúng ta ý nghĩa việc sống đức tin của “tổ phụ chúng ta”. Về nhiều mặt, Đức Maria rõ ràng khác với Abraham; nhưng ở những tầm sâu hơn thì “người bạn của Thiên Chúa” và người thiếu nữ Nadaret rất giống nhau.

Cả hai đều nhận được lời hứa tuyệt vời của Thiên Chúa. Abraham sẽ là cha của một người con trai, từ đó sẽ phát sinh một dân tộc lớn. Đức Maria sẽ là Mẹ của Người Con là Đấng Mêsia, Đấng được xức dầu. “Này đây!” Gabriel nói, “Bà sẽ thụ thai và sinh một người con trai… Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng của Đavít tổ tiên Người… và triều đại Người sẽ vô tận.”

Đối với cả Abraham và Đức Maria, lời hứa của Thiên Chúa đến như một điều hoàn toàn bất ngờ. Thiên Chúa phá vỡ tiến trình cuộc sống hằng ngày của họ, đảo lộn nhịp điệu ổn định và những kỳ vọng thông thường của nó. Đối với cả Abraham và Đức Maria, lời hứa dường như là bất khả thi. Vợ của Abraham là Sara bị hiếm muộn, và Đức Maria vẫn chưa sống đời vợ chồng: “Điều đó xảy ra thế nào được, vì tôi là một trinh nữ?”

Giống như Abraham, Đức Maria được mời gọi thưa “vâng” trước một điều chưa từng xảy ra bao giờ. Sara là người đầu tiên trong chuỗi những người vợ hiếm muộn trong Kinh Thánh thụ thai nhờ quyền năng của Chúa, cũng như Êlisabét sẽ là người cuối cùng. Gabriel nói về Êlisabét để trấn an Đức Maria: “Kìa, Êlisabét người chị họ của bà, tuổi đã già, mà vẫn thụ thai một đứa con trai.”

Giống như Abraham, Đức Maria phải bước qua bóng tối, trong đó Mẹ phải hoàn toàn tin tưởng vào Đấng đã gọi mình. Tuy nhiên, ngay cả câu hỏi của Mẹ, “Điều đó xảy ra thế nào được?” cũng cho thấy Mẹ đã sẵn sàng nói “vâng”, bất chấp những sợ hãi và hoang mang. Đức Maria không hỏi liệu lời hứa có thể xảy ra hay không, mà chỉ hỏi làm thế nào lời hứa đó được ứng nghiệm. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi cuối cùng Mẹ thốt lên lời ‘fiat’: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Ngài đã nói”, Với những lời này, Đức Maria cho thấy mình thực sự là con gái của Abraham, và trở thành Mẹ của Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các tín hữu.

Để đi sâu hơn vào mầu nhiệm này, chúng ta hãy nhìn lại khoảnh khắc trong cuộc hành trình của Abraham khi ông nhận được lời hứa. Đó là khi ông chào đón ba vị khách bí ẩn đến nhà mình, và diễn tả sự tôn thờ dành cho Thiên Chúa: tres vidit et unum adoravit. Cuộc gặp gỡ huyền nhiệm ấy báo trước biến cố Truyền Tin, khi Đức Maria được lôi kéo mạnh mẽ vào sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Qua lời ‘fiat’ mà Maria thưa lên ở Nadaret, sự kiện Nhập Thể đã trở thành sự hoàn thành kỳ diệu cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Vì vậy, theo bước chân của Abraham, chúng ta đã đến Nadaret đây, để ca ngợi người phụ nữ “được Chúa dùng để chiếu rọi ánh sáng trên trái đất”.

Nhưng chúng ta cũng đến đây để cầu xin Mẹ. Là những người hành hương trên con đường tiến vào Thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo, chúng ta cầu xin Mẹ Thiên Chúa điều gì? Tại thị trấn này, nơi mà Đức Giáo hoàng Phaolô VI, khi đến thăm Nadaret, đã gọi là “trường học Phúc Âm”, nơi “chúng ta học cách nhìn và lắng nghe, suy ngẫm và thấu hiểu ý nghĩa sâu xa và huyền bí của sự xuất hiện rất đơn giản, rất khiêm nhường và rất đẹp đẽ của Con Thiên Chúa”, trước hết, tôi cầu xin một đức tin vững mạnh hơn nơi tất cả con cái của Giáo hội. Một sự đổi mới đức tin sâu sắc: không chỉ như một cái gì chung chung của cuộc sống, mà như một lời tuyên xưng can đảm và đầy ý thức về Kinh Tin Kính: “Et incarnatus es itu Sancto ex Maria Virgine, et homo factus est.”

Tại Nadaret, nơi Chúa Giêsu “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta”, tôi cầu xin Thánh Gia truyền cảm hứng cho tất cả các Kitô hữu bảo vệ gia đình khỏi rất nhiều mối đe dọa hiện nay đối với bản chất, sự ổn định và sứ mạng của gia đình. Tôi ký thác cho Thánh Gia những nỗ lực của các Kitô hữu và của mọi người thiện chí trong việc bảo vệ sự sống và thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá của mọi con người.

Tôi thánh hiến các gia đình của Đất Thánh, các gia đình trên thế giới cho Đức Maria, Theotokos, Mẹ Thiên Chúa cao cả.

Tại Nadaret đây, nơi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của mình, tôi cầu xin Đức Maria giúp Giáo hội ở khắp mọi nơi rao giảng “tin mừng” cho người nghèo, như Chúa đã làm. Trong “năm hồng ân của Chúa” này, tôi cầu xin Mẹ dạy chúng ta con đường vâng phục Phúc Âm cách khiêm nhường và vui tươi trong việc phục vụ anh chị em mình, không thiên vị và không thành kiến.

“Lạy Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, xin đừng chê bỏ lời con cầu xin, nhưng xin lắng nghe và đáp lời con trong lòng nhân hậu của Mẹ. Amen.”

Chương 2: Chuyến đi thăm

Trích từ Thông điệp Redemptoris Mater của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, “Về Đức Trinh Nữ Maria, trong đời sống của Giáo hội lữ hành”, Phần Hai, “Phước cho Người đã tin”:

Ngay sau trình thuật Truyền Tin, Thánh sử Luca dẫn chúng ta theo dấu chân của Đức Trinh Nữ thành Nadaret đến “một thành của Giuđa.” Theo các học giả, thành này là Ain Karim hiện nay, nằm trên núi, không xa Giêrusalem. Maria đã “vội vã” đến đó, để thăm Êlisabét, người chị họ của mình. Lý do cho chuyến viếng thăm của Mẹ thực tế cũng được tìm thấy trong cuộc Truyền Tin, Gabriel đã đặc biệt nhắc đến Êlisabét, người phụ nữ cao niên đã thụ thai con trai với chồng mình là Dacaria, nhờ quyền năng của Thiên Chúa: “người họ hàng của bà là Êlisabét, trong tuổi già, cũng đã thụ thai một con trai; và chuyện đã xảy ra được sáu tháng với người được coi là son sẻ. Vì với Thiên Chúa, không có gì là không thể được.” Vị sứ giả của Thiên Chúa đã nói về những gì đã được thực hiện nơi Êlisabét để trả lời câu hỏi của Maria. “Điều đó sẽ xảy ra như thế nào, vì tôi không có chồng?” Nó sẽ xảy ra chính xác thông qua “quyền năng của Đấng Tối Cao”, giống như những gì đã xảy ra trong trường hợp của Êlisabét, và thậm chí còn hơn thế nữa.

Do đó, được thúc đẩy bởi lòng bác ái, Maria đến nhà người chị họ của mình. Khi Maria bước vào, Êlisabét đáp lại lời chào và cảm thấy đứa trẻ nhảy lên trong bụng mình, và được “tràn đầy Thánh Thần”, bà chào Maria lớn tiếng: “Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và người con trong bụng em được chúc phúc”. Lời tán tụng hay tung hô này của Êlisabét về sau trở thành một phần của Kinh Kính Mừng, như một tiếp nối lời chào của thiên thần, do đó trở thành một trong những lời cầu nguyện được sử dụng thường xuyên nhất của Giáo hội. Nhưng còn có ý nghĩa hơn nữa là những lời của Êlisabét trong câu hỏi tiếp theo: “Bởi đâu tôi được ban cho điều này, là Mẹ của Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” Êlisabét làm chứng cho Maria: bà nhận ra và công bố rằng đứng trước mặt mình là Mẹ của Chúa, Mẹ của Đấng Mêsia. Đứa con trai mà Elizabeth đang mang trong bụng cũng chia sẻ lời chứng này: “Đứa con trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui sướng”. Đứa trẻ này chính là Gioan Tẩy Giả trong tương lai, người sẽ chỉ ra Chúa Giêsu là Đấng Meêsia tại sông Giođan.

Trong khi từng lời chào của Êlisabét đều chứa đầy ý nghĩa, thì những lời cuối cùng của bà dường như có tầm quan trọng nền tảng: “Phúc cho em vì đã tin rằng những điều Chúa phán với em sẽ được ứng nghiệm.” Những lời này có thể được liên kết với lời chào “đầy ơn phúc” của thiên thần. Cả hai bản văn này đều tiết lộ một nội dung thiết yếu có tính Thánh Mẫu học, cụ thể là sự thật về Đức Maria, người đã thực sự hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô chính bởi vì Mẹ “đã tin.” Sự đầy ơn phúc được thiên thần công bố là quà tặng của chính Thiên Chúa. Đức tin của Đức Maria, được Êlisabét công bố trong Cuộc Thăm Viếng, cho thấy cách mà Trinh Nữ thành Nadaret đáp lại món quà này.

Như Công Đồng dạy, “sự vâng phục của đức tin” phải được trao cho Thiên Chúa, Đấng mặc khải, một sự vâng phục mà qua đó con người tự do phó thác trọn bản thân mình cho Thiên Chúa.” Mô tả này về đức tin đã được hiện thực hoàn toàn nơi Đức Maria. Khoảnh khắc “quyết định” là biến cố Truyền Tin, và chính những lời của Êlisabét, “phúc cho em vì đã tin”, ám chỉ trước hết đến chính khoảnh khắc đó.

 Chương 3: Chúa sinh ra

Sứ điệp Urbi et Orbi của Thánh Gioan Phaolô II, Giáng sinh năm 2003:

Descendit de caelis Salvator mundi. Gaudeamus!

Đấng Cứu Độ đã từ trời xuống thế. Chúng ta hãy vui lên!

Lời công bố này, đầy niềm vui sâu xa,

đã vang vọng trong đêm Bêlem.

Hôm nay, Giáo hội nhắc lại lời công bố này với cùng một niềm vui:

Đấng cứu thế đã sinh ra cho chúng ta!

Một làn sóng dịu dàng và hy vọng tràn ngập trái tim chúng ta, cùng với nhu cầu mãnh liệt về sự gần gũi và bình an. Trong máng cỏ, chúng ta chiêm ngưỡng Đấng đã tự tước bỏ vinh quang thần linh để trở nên nghèo khó, được thúc đẩy bởi tình yêu dành cho nhân loại. Bên máng cỏ, cây thông Noel, với những ánh đèn nhấp nháy, nhắc nhở chúng ta rằng với sự chào đời của Chúa Giêsu, cây sự sống đã nở hoa trở lại trong sa mạc của nhân loại. Máng cỏ và cây thông là những biểu tượng quý giá, truyền lại trong lịch sử ý nghĩa chân thực của Giáng Sinh! Trên trời vang vọng lời loan báo của các thiên thần: “Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành Đavít, Người là Chúa Kitô.”

Thật kỳ diệu!

Với việc sinh ra tại Bêlem, Con Hằng Hữu của Thiên Chúa đã đi vào lịch sử của mỗi con người sống trên mặt đất này. Giờ đây Người hiện diện trong thế giới như Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Vì thế, chúng ta cầu nguyện với Người:

Lạy Đấng Cứu Độ trần gian, xin cứu chúng con!

Xin cứu chúng con khỏi những sự dữ hung hãn đang xé nát nhân loại

trong những năm đầu tiên này của thiên niên kỷ thứ ba.

Xin cứu chúng con khỏi các cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang

đang phá sạch những vùng rộng lớn trên thế giới,

Xin cứu chúng con khỏi khỏi tai họa khủng bố

và khỏi bao hình thức bạo lực

đang tấn công những người yếu đuối và dễ bị tổn thương.

Xin cứu chúng con khỏi sự nản lòng

khi chúng con đứng trước những con đường dẫn đến hòa bình,

thực sự là những con đường khó khăn, nhưng vẫn có thể và do đó cần thiết;

những con đường khẩn cấp mọi lúc mọi nơi,

nhất là ở vùng Đất nơi Chúa đã sinh ra,

trong tư cách Hoàng tử Hòa bình.

Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ của sự mong đợi và sự hoàn thành,

Mẹ là người nắm giữ bí mật của Giáng Sinh,

Xin giúp chúng con nhận ra nơi Hài Nhi

được bồng ẵm trên tay Mẹ, chính là Đấng Cứu Độ được báo trước,

Đấng mang lại hy vọng và hòa bình cho mọi người.

Cùng với Mẹ, chúng con thờ phượng Người và tin tưởng thưa lên:

Lạy Chúa, chúng con cần Chúa, Đấng Cứu chuộc loài người,

Chúa biết những niềm hy vọng và những nỗi sợ hãi trong lòng chúng con.

Xin Chúa hãy đến và ở lại với chúng con!

Xin cho niềm vui Chúa Giáng sinh lan tỏa

đến mọi góc biển chân trời!

Chương 4: Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh

Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II vào Lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, ngày 2 tháng 2 năm 1998:

Lumen ad revelationem gentium!

Những lời này vang vọng trong Đền thờ Giêrusalem, 40 ngày sau khi Chúa Giêsu ra đời, Đức Maria và Thánh Giuse chuẩn bị “dâng Hài Nhi cho Chúa”. Bằng cách nhấn mạnh sự tương phản giữa hành động khiêm nhường đơn sơ của cha mẹ Hài Nhi và vinh quang của sự kiện như được Simêon và Anna cảm nhận, thánh sử Luca rõ ràng muốn ám chỉ rằng chính Đền thờ đang chờ đợi Hài Nhi đến. Thực vậy, trong cung cách ngôn sứ của hai vị  cao niên, toàn bộ Cựu Ước thể hiện niềm vui được gặp gỡ Đấng Cứu Chuộc.

Simêon và Anna đến Đền thờ, cả hai đều khao khát Đấng Mêsia, cả hai đều được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, khi Đức Maria và Thánh Giuse đưa Chúa Giêsu đến đó để tuân hành các điều luật dạy. Vừa nhìn thấy Hài Nhi, các vị cảm thấy đây đúng là Đấng được mong đợi, và Simêon, như thể xuất thần, đã công bố: “Lạy Chúa, giờ đây xin cho tôi tớ Chúa được ra đi bình an, theo lời Chúa đã phán; vì chính mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, Người là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, và vinh quang của dân Israel dân Chúa.”

Lumen ad revelationem gentium!

Bằng những lời đầy cảm hứng của mình, Simêon, một người của Cựu Ước, một người của Đền thờ Giêrusalem, bày tỏ niềm xác tín của mình rằng Ánh Sáng này không chỉ dành cho Israel, nhưng còn cho các dân ngoại và cho mọi dân tộc trên trái đất. Cùng với ông, thế giới “già nua” đón nhận trong vòng tay mình sự huy hoàng của “tuổi trẻ” vĩnh cửu của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bóng của Thập giá đã lờ mờ trên bức phông, bởi vì bóng tối sẽ từ chối Ánh Sáng đó. Thật vậy, hướng về Đức Maria, Simêon đã nói tiên tri: “Đứa trẻ này được đặt lên để nhiều người trong Israel phải ngã xuống và trỗi dậy, và là dấu hiệu bị chống đối, (và một lưỡi gươm cũng sẽ đâm thấu tâm hồn bà), để những ý nghĩ từ nhiều tâm hồn được lộ ra.”

Lumen ad revelationem gentium!

Những lời trong bài thánh ca của Simêon vang lên trong nhiều đền thờ của Giao Ước Mới, nơi mà mỗi buổi tối, các môn đồ của Chúa Kitô kết thúc Phụng vụ Giờ ​​Kinh bằng Kinh Tối. Bằng cách này, Giáo hội, dân của Giao Ước Mới, vận dụng như lời cuối cùng của Cựu Ước và công bố sự ứng nghiệm của lời hứa thần linh, loan báo rằng “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” đã lan tỏa khắp mặt đất và hiện diện ở khắp mọi nơi trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.

Cùng với Bài ca của Simêon, Phụng vụ Giờ ​​Kinh nhắc lại những lời cuối cùng của Chúa Kitô trên Thập giá: In manus tuas, Domine, commendo spiritum meum “Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong tay Cha.” Phụng vụ Giờ ​​Kinh cũng mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng với sự ngạc nhiên và lòng biết ơn hành động cứu độ của Chúa Kitô, là “ánh sáng soi đường cho Dân Ngoại”, vì lợi ích của nhân loại: Redemisti nos, Domine, Deus veritatis “Lạy Chúa, Thiên Chúa của chân lý, Chúa đã cứu chuộc chúng con”.

Bằng cách này, Giáo hội công bố sự hoàn thành của công cuộc Cứu Chuộc thế giới, được các tiên tri mong đợi và được Simêon công bố trong Đền thờ Giêrusalem.

Lumen ad revelationem gentium!

Hôm nay, với những ngọn nến thắp sáng, chúng ta cũng đến gặp Người là “Ánh sáng của thế gian” và chúng ta chào đón Người trong Giáo hội của Người với tất cả lòng nhiệt thành của đức tin do Phép Rửa. Bất cứ ai chân thành tuyên xưng đức tin này đều được hứa hẹn “cuộc gặp gỡ” cuối cùng, dứt khoát với Chúa trong vương quốc của Người. Trong truyền thống Ba Lan, cũng như ở các quốc gia khác, những cây nến được làm phép này có ý nghĩa đặc biệt vì sau khi được mang về nhà, chúng được thắp sáng trong những lúc nguy hiểm, trong những cơn bão và thảm họa, như một dấu hiệu phó thác bản thân, gia đình và mọi tài sản cho sự bảo vệ của Chúa. Đây là lý do tại sao những ngọn nến này được gọi là gromnice trong tiếng Ba Lan, nghĩa là những ngọn nến ngăn chặn sét đánh và bảo vệ khỏi ma quỷ, và tại sao lễ này được gọi là Candlemas (nghĩa đen là: Lễ nến Đức Mẹ) [“gromnice”]).

Hùng hồn hơn nữa, đó là phong tục đặt cây nến được làm phép ngày hôm nay vào tay một Kitô hữu đang hấp hối, để nó có thể soi sáng những bước cuối cùng của người đó trên con đường đến cõi vĩnh hằng. Thực hành này nhằm cho thấy rằng bằng cách đi theo ánh sáng của đức tin, người hấp hối đang chờ đợi để bước vào nơi ở vĩnh cửu, nơi không còn “cần ánh sáng của đèn hay mặt trời, vì Chúa là Thiên Chúa sẽ là ánh sáng của họ”.

Thánh vịnh đáp ca hôm nay cũng nói về việc bước vào vương quốc ánh sáng này: “Cửa hỡi, hãy cất cao đầu, hỡi cửa ngàn thu, hãy vươn mình lên, để Chúa hiển vinh ngự đến”.

Những lời này ám chỉ trực tiếp đến Chúa Giêsu Kitô, người bước vào đền thờ của Giao Ước Cũ trong vòng tay của cha mẹ mình, nhưng chúng ta cũng có thể áp dụng chúng cho mọi tín hữu bước qua ngưỡng cửa của cõi vĩnh hằng, được Giáo hội ẵm bồng trong vòng tay. Các tín hữu đồng hành với cuộc hành trình cuối cùng của người ấy bằng lời cầu nguyện: “Xin ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên …!”, xin các thiên thần và các thánh chào đón …, và xin Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc con người, đón nhận … trong ánh sáng vĩnh cửu của Người.

Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến lần thứ hai, nhằm khơi dậy mối quan tâm mới mẻ trong Giáo hội về món quà ơn gọi đời sống thánh hiến. Anh chị em nam nữ tu sĩ, các thành viên tu hội đời và đời sống tông đồ thân mến, Chúa đã kêu gọi anh chị em theo Người một cách đặc biệt gần gũi. Trong thời đại của chúng ta, bị chi phối bởi chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa duy vật, thì bằng sự dâng hiến hoàn toàn và dứt khoát của mình cho Chúa Kitô, anh chị em là dấu chỉ của một lối sống khác với logic của thế gian, bởi vì nó được truyền cảm hứng triệt để bởi Phúc Âm và hướng đến những thực tại cánh chung trong tương lai. Anh chị em hãy luôn trung thành với ơn gọi đặc biệt này!

… Những ngọn nến thắp sáng trên tay mỗi người trong phần đầu của Phụng vụ long trọng này cho thấy sự tỉnh thức trông đợi Chúa, là điều đánh dấu đời sống của mọi tín hữu, cách riêng là đời sống của những người được Chúa kêu gọi nhận một sứ mạng đặc biệt trong Giáo hội. Chúng là lời nhắc nhở mạnh mẽ việc làm chứng cho Chúa Kitô trong thế giới, là ánh sáng không bao giờ lụi tàn: “Ánh sáng của anh em hãy chiếu sáng trước mặt mọi người, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha anh em trên trời.”

Anh chị em thân mến, mong sao lòng trung thành trọn vẹn của anh chị em đối với Chúa Kitô nghèo khó, trong sạch và vâng phục trở thành nguồn ánh sáng và hy vọng cho mọi người anh chị em gặp gỡ.

Lumen ad revelationem gentium!

Mẹ Maria đã mau mắn trong vâng phục, can đảm trong nghèo khó, và sẵn sàng tiếp nhận trong sự trinh khiết đầy hoa trái khi Mẹ hoàn thành ý muốn của Chúa Cha, xin Mẹ cầu bàu để Chúa Giêsu ban cho “tất cả những ai đã nhận được ân sủng theo Người trong đời sống thánh hiến có thể làm chứng cho ân sủng ấy bằng cuộc sống được biến đổi của mình, khi họ vui vẻ tiến bước cùng với tất cả anh chị em mình về quê hương thiên đàng, nơi ánh sáng sẽ không bao giờ tàn lụi.

Chúc tụng Chúa Giêsu Kitô!

 Chương 5: Tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ

Diễn từ của Thánh Gioan Phaolô II vào thứ Tư, ngày 15 tháng 1 năm 1997, trong buổi Tiếp kiến ​​Chung:

Đức Maria hợp tác bằng sự vâng phục của riêng mình

Thánh sử Luca mô tả cuộc hành hương của thiếu niên Giêsu đến Đền thờ ở Giêrusalem như phân đoạn cuối cùng của trình thuật thời thơ ấu, trước khi bắt đầu việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả. Đây là một dịp thường lệ, cho thấy những năm tháng ẩn dật của Người ở Nadaret.

Trong dịp này, với tính cách mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu cho thấy Người ý thức sứ mạng của mình, làm cho sự kiện “vào nhà của Cha” lần thứ hai này mang ý nghĩa của việc hiến dâng trọn vẹn chính mình cho Thiên Chúa, điều vốn đã đánh dấu biến cố Người được dâng trong Đền thờ.

Đoạn văn này dường như tương phản với ghi chú của Luca rằng Chúa Giêsu đã vâng phục Giuse và Maria. Nhưng nếu nhìn kỹ, ở đây ngài dường như đặt mình vào một sự đối lập có ý thức và hầu như chủ định so với tình trạng thông thường trong tư cách là con, bất ngờ gây ra sự chia cắt rõ ràng với Maria và Giuse. Theo quy tắc ứng xử của Người, Chúa Giêsu tuyên bố rằng Người chỉ thuộc về Chúa Cha và không đề cập đến những mối liên hệ với gia đình trần thế của Người. Hành vi của Chúa Giêsu có vẻ rất khác thường.

Qua phân đoạn này, Chúa Giêsu chuẩn bị cho Mẹ Người đi vào mầu nhiệm Cứu Chuộc. Trong ba ngày đầy kịch tính khi Chúa Con rời cha mẹ để ở lại trong Đền thờ, Đức Maria và Thánh Giuse kinh nghiệm sự tiên báo về Tam Nhật Thương Khó, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Người.

Để Mẹ và Thánh Giuse lên đường về Galilê mà không nói với các ngài ý định ở lại Giêrusalem của mình, Chúa Giêsu đưa các ngài vào mầu nhiệm đau khổ dẫn đến niềm vui, tiên báo những gì Người sẽ hoàn tất sau này với các môn đệ của mình xuyên qua lời loan báo về sự Vượt Qua của Người.

Theo lời kể của Luca, trên hành trình trở về Nadaret, Đức Maria và Thánh Giuse sau một ngày đi đường đã hoang mang lo lắng cho số phận của trẻ Giêsu. Các ngài tìm kiếm Con mình trong vô vọng giữa những người bà con thân thuộc. Trở lại Giêrusalem và gặp thấy Người trong Đền thờ, các ngài ngạc nhiên khi thấy Người “ngồi giữa các thầy dạy, lắng nghe họ và hỏi họ những câu hỏi”. Cung cách của Người có vẻ rất khác thường. Chắc chắn đối với cha mẹ Người, việc tìm thấy Người vào ngày thứ ba ở đây đồng nghĩa với việc khám phá ra một khía cạnh khác về con người và sứ mệnh của Người.

Người nắm vai trò của một bậc thầy, như Người sẽ làm sau này trong cuộc sống công khai, nói những lời khiến người ta ngưỡng mộ: “Và tất cả những ai nghe Người đều kinh ngạc về sự hiểu biết và những câu trả lời của Người”. Cho thấy sự khôn ngoan khiến người nghe kinh ngạc, Người bắt đầu thực hành nghệ thuật đối thoại sẽ là đặc điểm của sứ mạng cứu rỗi của Người.

Mẹ Người hỏi: “Con ơi, sao con lại đối xử với cha mẹ như vậy? Này, cha con và mẹ đã lo lắng tìm con”. Ở đây, chúng ta có thể nhận ra âm vang của những câu hỏi “tại sao” mà rất nhiều bà mẹ thốt lên về nỗi đau khổ mà con cái gây ra cho họ, cũng như những câu hỏi dâng trào trong lòng mỗi người nam nữ trong thời điểm thử thách.

Chúa Giêsu trả lời trong hình thức một câu hỏi, rất ý nghĩa: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà của Cha con sao?”

Với câu trả lời này, Người vén mở mầu nhiệm về con người của mình cho Đức Maria và Thánh Giuse một cách bất ngờ, không lường trước được, mời gọi các ngài vượt qua những vẻ bề ngoài và mở ra trước mắt các ngài những chân trời mới cho tương lai của Người.

Trong câu trả lời cho người Mẹ khổ sở của mình, Chúa Con trực tiếp mặc khải lý do cho hành vi của Người. Đức Maria đã đề cập “cha của con”, ám chỉ Thánh Giuse; Chúa Giêsu trả lời: “Cha của con”, nghĩa là Cha trên trời.

Nhắc đến nguồn gốc thần linh của mình, Chúa Giêsu không muốn nói rằng Đền thờ, nhà của Cha Người, là “nơi” tự nhiên để Người hiện diện, mà đúng hơn Người phải quan tâm đến mọi điều liên quan đến Cha Người và kế hoạch của Cha. Người muốn nhấn mạnh rằng ý muốn của Cha Người là chuẩn mực duy nhất đòi hỏi Người phải vâng phục.

Đề cập này về sự toàn hiến của Người cho kế hoạch của Thiên Chúa được nêu bật trong bản văn Phúc Âm bằng những kiểu nói “Ta phải”, sau này sẽ xuất hiện trong lời báo trước về cuộc Khổ nạn.

Vì thế cha mẹ Người được yêu cầu để Người đi và thi hành sứ mạng của Người ở bất cứ nơi đâu mà Cha trên trời dẫn Người đến.

Tác giả Tin Mừng bình luận: “Và hai đấng không hiểu lời Người nói.” Maria và Giuse không nắm bắt được ý nghĩa câu trả lời của Người, cũng như không hiểu cách Người phản ứng đối với mối quan tâm của các ngài (đó rõ ràng là phản ứng từ chối!). Với thái độ này, Chúa Giêsu muốn mặc khải những khía cạnh bí ẩn về sự mật thiết của Người với Chúa Cha, những khía cạnh này Đức Maria trực giác được nhưng không biết cách liên kết chúng với thử thách mà Mẹ đang trải qua.

Những lời của Luca cho ta thấy cách mà Đức Maria sống giai đoạn thật khác thường này trong sâu thẳm tâm khảm mình. Mẹ “suy ngẫm tất cả những điều này trong lòng”. Mẹ Chúa Giêsu liên kết các sự kiện này với mầu nhiệm của Con mình, được mặc khải cho Mẹ trong sự kiện Truyền Tin, và thinh lặng chiêm ngắm, cống hiến sự cộng tác của mình trong tinh thần của một tiếng “xin vâng” mới.

Bằng cách này, mắt xích đầu tiên được hình thành trong một chuỗi các sự kiện sẽ dần đưa Đức Maria vượt quá vai trò tự nhiên của vị thế làm mẹ của mình, để dấn thân phục vụ cho sứ mạng của người Con thần linh.

Tại Đền thờ Giêrusalem, trong sự hé mở này cho sứ mạng cứu độ của mình, Chúa Giêsu liên kết Mẹ với chính Người; đó không còn chỉ là người mẹ đã sinh ra Người, mà là người Phụ Nữ, qua sự vâng phục của chính mình đối với kế hoạch của Chúa Cha, có thể cộng tác trong mầu nhiệm Cứu chuộc.

Ghi nhớ trong lòng mình một sự kiện đầy ý nghĩa như vậy, Đức Maria đạt được một chiều kích mới trong sự cộng tác của mình vào công cuộc cứu độ.

 

Phần Bốn: Các Mầu Nhiệm Thương Khó

Trích từ Tông thư Rosarium Virginis Mariae của Thánh Gioan Phaolô II:

Các sách Phúc Âm nâu bật những Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô. Ngay từ đầu, lòng đạo đức Kitô giáo, đặc biệt là việc đi Đàng Thánh Giá trong Mùa Chay, đã tập trung vào những khoảnh khắc khác nhau của Cuộc Khổ Nạn, thể hiện rằng chính đây là tột đỉnh của mặc khải về tình yêu của Thiên Chúa và nguồn ơn cứu rỗi chúng ta. Kinh Mân Côi chọn một số khoảnh khắc từ Cuộc Khổ Nạn, mời gọi các tín hữu chiêm ngắm trong lòng và sống lại các khoảnh khắc ấy. Loạt suy niệm bắt đầu với Vườn Ghết-sê-ma-ni, nơi Chúa Kitô trải qua một khoảnh khắc đau khổ tột cùng khi đứng trước ý muốn của Chúa Cha, mà sự yếu đuối của xác thịt sẽ bị cám dỗ để nổi loạn. Ở đó, Chúa Giêsu đương đầu với mọi cám dỗ và đối mặt với mọi tội lỗi của nhân loại, để nói với Chúa Cha: “Xin đừng theo ý con mà theo ý Cha.” Lời nói “Vâng” này của Chúa Kitô đảo ngược lời nói “Không” của tổ tiên chúng ta trong Vườn Địa Đàng. Và cái giá phải trả cho lòng trung thành với thánh ý Chúa Cha được thấy rõ trong những mầu nhiệm tiếp theo sau; qua việc chịu đánh đòn, đội mão gai, vác Thánh Giá và chết trên Thánh Giá, Chúa đã chịu đau khổ tột cùng: Ecce homo!

Nỗi đau khổ tột cùng này không chỉ mặc khải tình yêu của Thiên Chúa mà còn cho thấy ý nghĩa của chính con người.

Ecce homo: ý nghĩa, nguồn gốc và sự viên mãn của con người được tìm thấy nơi Chúa Kitô, vị Thiên Chúa đã hạ mình vì tình yêu “cho đến chết, chết trên thập giá”. Các Mầu Nhiệm Thương giúp người tín hữu sống lại cái chết của Chúa Giêsu, đứng dưới chân Thánh giá bên cạnh Đức Maria, cùng với Mẹ bước vào chiều sâu tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người và kinh nghiệm tất cả năng lực trao ban sự sống của tình yêu đó.

Chương 1: Hấp hối trong Vườn Cây Dầu

Diễn từ của Thánh Gioan Phaolô II vào thứ Tư, ngày 11 tháng 4 năm 1979 trong Buổi Tiếp kiến ​​Chung:

Việc loan báo Tin Mừng được thực hiện với sự trợ giúp của lời nói. Và ngay chỉ những lời Chúa Kitô nói trong cuộc Thương khó của Người cũng có năng lực diễn tả lớn lao. Cũng có thể nói rằng đó là nơi gặp gỡ đặc biệt với mọi người; là cơ hội và lý do để thể hiện sự liên đới mạnh mẽ. Chúng ta có thường trở lại với những điều các tác giả Tin Mừng ghi lại, đó những lời cầu nguyện đầy cảm kích của Chúa Kitô trong Vườn Cây Dầu? “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này lìa khỏi con.” Chẳng phải mọi người đều nói như vậy đó sao? Chẳng phải mọi người đều cảm thấy như vậy trong đau khổ, trong gian truân, trước thập giá đó sao?: “Xin cất chén này khỏi con…” Câu này chứa đựng sự thật sâu xa của con người biết bao! Chúa Kitô, trong tư cách một con người thực sự, cảm thấy dị ứng với đau khổ: “Người bắt đầu buồn phiền xao xuyến và nói: “Xin cất chén này khỏi con…”; xin cho nó đừng xảy đến với con! Cần phải chấp nhận tất cả sự diễn đạt của con người, toàn bộ sự thật của con người trong những lời này, để có thể kết hợp chúng với những lời của Chúa Kitô: “Nếu có thể được, xin cất chén này khỏi con; nhưng đừng theo ý con, mà theo ý Cha!” Mọi ​​người, khi đứng trước đau khổ, đều đối mặt với một thách thức… Phải chăng đây chỉ là một thách thức của số phận? Chúa Kitô trả lời cho điều này, khi nói: “Hãy theo ý Cha.” Người không nói đến số phận, một “số phận mù quáng”. Người nói với Thiên Chúa, nói với Cha. Đôi khi câu trả lời này không đủ đối với chúng ta, vì nó không phải là lời cuối cùng, mà là lời đầu tiên. Chúng ta không thể hiểu được Vườn Ghết-sê-ma-ni hay Đồi Can-vê trừ khi đặt trong bối cảnh của toàn bộ biến cố Vượt qua, của toàn bộ mầu nhiệm.

Trong những lời về cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô, có một cuộc gặp gỡ đặc biệt mạnh mẽ giữa “con người” và “thần linh”. Những lời trong Vườn Ghết-sê-ma-ni đã cho thấy điều này. Về sau, Chúa Kitô sẽ chọn im lặng. Ngài sẽ nói đến bản án cho Giu-đa. Rồi Người  nói với những người được Giu-đa đưa đến Vườn Ghết-sê-ma-ni để bắt Người. Rồi, một lần nữa Người nói với Phêrô. Trước Thượng Hội đồng, Người không tự bào chữa cho mình, nhưng làm chứng. Và cũng vậy khi đứng trước Philatô. Thế nhưng khi đứng trước Hê-rốt, “Người không trả lời”. Trong suốt cuộc tuyên án, những lời của Isaia đã ứng nghiệm: “Như chiên con bị dẫn đến lò sát sinh, như con cừu nín thinh không mở miệng trước kẻ xén lông, Người không hé môi một lời.” Những lời cuối cùng của Người sẽ vọng xuống từ thập giá.

Chúng có thể được giải thích trong toàn thể bằng diễn biến của sự kiện, bằng sự tra tấn khủng khiếp, và đồng thời, thông qua chúng, mặc dù ngắn gọn và hàm súc, vẫn tỏ lộ tính “thần linh” và “cứu rỗi”. Chúng ta cảm nhận ý nghĩa “cứu rỗi” trong những lời Người nói với Mẹ, với Gioan, với người trộm lành, cũng như những lời Người nói về những kẻ đóng đinh Người. Những lời cuối cùng nói với Chúa Cha thật dâng trào: âm vọng cuối cùng và đồng thời gần như là sự tiếp nối của lời cầu nguyện ở Vườn Ghết-sê-ma-ni. Chúa Kitô nói: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Chúa bỏ con?” nhắc lại lời Thánh vịnh. Tại Vườn Ghết-sê-ma-ni, Người đã nói: “Nếu có thể được, xin cất chén này khỏi con.” Và giờ đây, từ trên thập giá, Người đã công khai xác nhận rằng “chén” vẫn chưa được cất đi, rằng Người phải uống cạn chén ấy. Đó là ý muốn của Chúa Cha. Thật vậy, câu nói “Mọi sự đã hoàn tất” là một tiếng dội lại của lời cầu nguyện ở Vườn Cây Dầu. Và rốt cuộc, không gì khác hơn là: “Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong tay Cha.”

Cơn hấp hối của Chúa Kitô. Trước hết là nỗi thống khổ tâm can trong Vườn Cây Dầu. Sau đó là nỗi đau cả tâm can lẫn thể xác trên thập giá. Không ai diễn tả sâu sắc như Chúa Kitô về sự giày vò của con người trong cơn hấp hối, chỉ vì Người là Con Thiên Chúa; bởi vì trong Người, những gì là “nhân loại” và những gì là “thần linh” đã tạo nên một sự kết hợp huyền nhiệm. Do đó, những lời của Chúa Kitô khổ nạn, rất thấm thía về tính con người, sẽ mãi mãi là sự mặc khải về “thần tính” vốn gắn chặt với nhân tính nơi Chúa Kitô, trong sự hợp nhất con người trọn vẹn. Có thể nói rằng: cái chết của vị ‘Người-Chúa’ là điều cần thiết, để chúng ta, những người thừa kế tội nguyên tổ, có thể hiểu được cái chết của con người là bi kịch như thế nào.

Chương 2: Bị đánh đòn trong dinh Philatô

Sau cuộc đánh đòn trong dinh, Phongxiô Philatô đưa Chúa Giêsu đã bị đánh đòn mình mẩy đẫm máu ra trước đám đông, và nói rằng “Ecce homol Này là Người!”

Diễn từ của Thánh Gioan Phaolô II “Với các Giáo sư Đại học của Mọi Quốc gia” vào thứ Bảy, ngày 9 tháng 9 năm 2000:

Quí vị không ngừng tìm hiểu về giá trị của nhân vị con người. Mỗi người trong quí vị có thể nói, giống như triết gia cổ đại: “Tôi đang tìm kiếm con người!”.

Trong số nhiều câu trả lời được đưa ra cho cuộc tìm hiểu nền tảng này, quí vị đã chấp nhận câu trả lời do chính Chúa Kitô, một câu trả lời bộc lộ từ những lời của Người, nhưng được nhìn thấy thậm chí trước khi tỏa sáng trên khuôn mặt Người. Ecce homo: Này là Người! Khi cho đám đông điên cuồng thấy khuôn mặt bị đánh bầm dập của Chúa Kitô, Philatô không ý thức rằng, theo một nghĩa nào đó, ông sẽ thốt lên một lời mặc khải. Vô tình, ông chỉ ra cho thế giới thấy Đấng mà nơi Ngài mọi con người có thể nhận ra nguồn gốc của mình, và nơi Ngài mọi con người đều có thể hy vọng tìm thấy sự cứu rỗi. Redemptor hominis: đây là hình ảnh của Chúa Kitô mà, từ Thông điệp đầu tiên của mình, tôi đã tìm cách ” hét vang” cho thế giới, và Năm Thánh này muốn nêu lại cho lòng trí mọi người.

Chương 3: Đội mão gai

Thánh Gioan Phaolô II có Diễn từ sau đây trong buổi Kinh Truyền Tin vào Chúa nhật, ngày 26 tháng 11 năm 1978:

Hôm nay là ngày lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

Trong khi suy nghĩ nên nói gì với anh chị em rất thân mến tụ họp cho buổi “Kinh Truyền Tin” hôm nay, tôi chợt thấy rằng trước hết phải làm âm vang những lời của Phúc âm Thánh Gioan ở đây – vâng, ngay tại nơi này, trước tiền đường của Đền thờ Thánh Phêrô, ngay giữa lòng thành phố Rôma.

Philatô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?” Chúa Giêsu trả lời: “Ông tự ý nói điều này, hay những người khác đã nói với ông về tôi?” Philatô trả lời: “Tôi đâu phải là người Do Thái! Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi; ông đã làm gì?” Chúa Giêsu trả lời: “Nước của tôi không thuộc về thế gian này”.

Những lời này nhắc chúng ta nhớ các sự kiện trong quá khứ, diễn ra ở vùng ngoài rìa xa xôi của Đế quốc La mã vĩ đại. Tuy nhiên, chúng không phải là không có ý nghĩa. Có lẽ ngày nay những vấn đề thời sự vẫn âm vang trong các lời đó. Trong cuộc đối thoại này, ít nhất từ một số quan điểm, có lẽ có thể tìm thấy những cuộc thảo luận tương tự đang diễn ra ngày nay.

Chúa Kitô trả lời câu hỏi của quan tòa và cho thấy rằng lời tố cáo chống lại Người là vô căn cứ. Người không nhắm đến quyền lực thế tục.

Ngay sau đó, Người sẽ bị đánh đòn và đội mão gai. Người sẽ bị chế giễu và sỉ nhục, với những lời: “Tâu Vua dân Do Thái!”

Nhưng Chúa Giêsu im lặng, như thể bằng sự im lặng của mình Người mong muốn diễn đạt đến cùng điều Người đã trả lời Philatô. Nhưng đây vẫn chưa phải là câu trả lời đầy đủ. Và Philatô cảm thấy điều đó. Vì lý do này, ông hỏi lần thứ hai: “Vậy ông là vua sao?”

Một câu hỏi kỳ lạ, kỳ lạ sau tất cả những gì Chúa Kitô đã tuyên bố một cách chắc chắn như vậy. Nhưng Philatô cảm thấy rằng lời phủ nhận của người bị tố cáo không giải tỏa hết mọi thứ: trong sâu thẳm của lời phủ nhận này có ẩn giấu một khẳng định. Cái gì vậy? Và ở đây Chúa Kitô giúp quan tòa Philatô tìm ra điều đó:

“Ông nói tôi là vua. Vì điều này mà tôi đã sinh ra, và vì điều này mà tôi đã đến thế gian, đó là để làm chứng cho sự thật. Ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi.”

Tất cả chúng ta phải suy ngẫm kỹ về điều Chúa Kitô phủ nhận và điều mà Người khẳng định.

Điều Chúa Giêsu khẳng định không thuộc về phiên tòa từng diễn ra ấy ở vùng đất xa xôi của Đế quốc La mã, mà luôn nằm ở trung tâm của đời sống chúng ta. Nó vẫn rất thời sự hôm nay. Những người ban hành luật pháp, những người cai trị các quốc gia, và những người làm quan tòa đều phải suy nghĩ về khẳng định đó.

Mọi Kitô hữu, mọi người, những người là công dân, và vì thế thuộc về một cộng đồng chính trị, kinh tế, quốc gia và quốc tế nhất định nào đó, phải suy ngẫm về khẳng định này.

“Ta đã sinh ra và đã đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật.” Vua Kitô nói điều này trước tòa án của vị quan tòa là tổng trấn, trong khi chờ đợi bản án sẽ được đưa ra ngay sau đó.

Liên quan đến vấn đề này, chúng ta hãy lắng nghe lại những gì Công đồng Vatican II đã nói: “Giáo hội, vì vai trò và thẩm quyền của mình, không đồng nhất với bất kỳ cộng đồng chính trị nào, cũng không bị ràng buộc với bất kỳ hệ thống chính trị nào. Giáo hội vừa là dấu chỉ vừa là sự bảo vệ cho chiều kích siêu việt của con người.”

Đây là cách Giáo hội thời nay suy nghĩ và tuyên bố.

Giáo hội muốn trung thành với những gì Chúa Kitô đã nói.

Đó là lý do hiện hữu của Giáo hội.

Liên quan đến vấn đề này, chúng ta nghĩ đến những người anh em của chúng ta, những người bị xét xử và có lẽ bị kết án tử hình – nếu không phải tử hình về mặt thể xác, thì ít nhất là tử hình về tư cách công dân – bởi vì họ tuyên xưng đức tin của mình, vì họ trung thành với sự thật, vì họ bảo vệ công lý đích thực.

Phải nhìn nhận rằng thật không may, những tình huống tương tự cũng không thiếu trong thế giới ngày nay. Vì thế, vào ngày lễ Chúa Kitô Vua này, cần phải nhấn mạnh rằng nhiều người đang chịu tình cảnh tương tự với Chúa Kitô, Đấng đã bị xét xử và kết án trước tòa án Philatô.

Chúng ta hãy cầu xin mỗi ngày cho Nước Chúa trị đến.

 Chương 4: Vác Thánh Giá

Suy Niệm và Cầu Nguyện của Thánh Gioan Phaolô II ở Chặng Đàng Thánh Giá Thứ Năm tại Colosseum vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2000:

V/. Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Giêsu Kitô.

R/. Vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc thiên hạ.

Ông Simon thành Xirênê giúp Chúa Giêsu vác Thánh Giá

Họ ép buộc Simon. Những người lính La mã đã làm như vậy vì sợ rằng Người Bị Kết Án sẽ không thể vác thập giá đến tận đồi Golgotha do đã kiệt sức. Như thế họ sẽ không thể thi hành bản án đóng đinh.

Họ nhìn quanh tìm người giúp vác thập giá.

Nhìn thấy Simon, họ ép buộc ông phải kê vai vác gánh nặng đó. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng Simon không muốn làm điều này và phản đối. Vác thập giá cùng với một người bị kết án có thể bị coi là hành động tổn hại đến phẩm giá của một người tự do.

Mặc dù không muốn, Simon đã vác ​​thập giá giúp Chúa Giêsu.

Trong một bài thánh ca Mùa Chay, chúng ta nghe những lời này: “Dưới sức nặng của Thập giá, Chúa Giêsu chào đón người Xirênê.” Những lời này cho phép chúng ta nhận ra một sự thay đổi hoàn toàn về quan điểm: theo một nghĩa nào đó, vị Thiên Chúa bị kết án là người đã trao thập giá của mình “như một món quà”.

Chẳng phải chính Người đã nói “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không xứng đáng với Ta” đó sao?

Simon nhận được một món quà.

Ông đã trở nên “xứng đáng” với nó.

Điều mà đám đông có thể coi là sự tổn hại đến phẩm giá của ông, thì theo quan điểm cứu chuộc, đã mang lại cho ông một phẩm giá mới.

Theo một cách độc đáo, Con Thiên Chúa đã làm cho ông trở thành người chia sẻ công trình cứu rỗi của Người.

Simon có nhận thức được điều này không?

Thánh Mác-cô tác giả Tin Mừng nhận diện Simon xứ Xirênê là “cha của Alexander và Rufus”.

Nếu những người con trai của Simon xứ Xirênê được cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên biết đến, thì có thể tin rằng Simon cũng thế, trong khi vác thập giá, ông đã tin vào Chúa Kitô. Từ tình trạng bị ép buộc, ông đã tự do chấp nhận, như thể được đánh động sâu xa bởi những lời này: “Ai không vác thập giá mình với Ta thì không xứng đáng với Ta”.

Nhờ việc vác Thập giá, Simon đã được đưa đến hiểu biết Tin Mừng về Thập giá.

Kể từ đó, Tin Mừng này đã nói với nhiều, rất nhiều người Xirênê, là những người được kêu gọi vác thập giá với Chúa Giêsu trong suốt dòng lịch sử.

Lời cầu nguyện

Lạy Chúa Kitô, Chúa đã ban cho Simon thành Xirênê

phẩm giá được vác Thánh giá của Chúa.

Xin cũng chào đón chúng con dưới sức nặng của Thánh giá,

xin chào đón mọi người nam nữ

và ban cho mọi người ơn sẵn sàng phục vụ.

Xin đừng để chúng con quay lưng lại với những người

bị đè bẹp bởi thập giá của bệnh tật,

cô đơn, đói khát hoặc bất công.

Khi chúng con mang gánh nặng của nhau,

xin giúp chúng con trở thành những chứng nhân cho Tin Mừng thập giá và là chứng nhân cho Chúa,

là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

Mẹ Đứng Đó:

Có ai không khóc,

khi nhìn Mẹ yêu dấu của Chúa Kitô

bị nhấn chìm trong những khổ đau sâu thẳm?

Chương 5: Chúa Kitô chết trên Thánh Giá

Suy niệm và cầu nguyện của Đức Gioan Phaolô II ở Chặng Đàng Thánh Giá thứ mười hai tại Colosseum vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2000:

V/. Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Giêsu Kitô.

R/. Vì Chúa đã dùng Thánh giá mà cứu chuộc thiên hạ.

Chúa Giêsu chết trên Thánh giá

“Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”

Ở cao trào của Cuộc Khổ Nạn, Chúa Kitô không quên con người, đặc biệt những ai trực tiếp chịu trách nhiệm về nỗi đau khổ của Người. Chúa Giêsu biết rằng hơn bất cứ điều gì khác, con người cần tình yêu; con người cần lòng thương xót đang đổ tràn trên thế giới vào chính khoảnh khắc này.

“Quả thật, Ta bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.”

Đây là cách Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của phạm nhân treo bên hữu Người: “Lạy ông Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài vào vương quốc của Ngài.”

Đó là lời hứa về một đời sống mới. Đây là hoa trái đầu mùa của Cuộc Khổ nạn và cái Chết đang đến gần của Chúa Kitô. Đó là một lời hy vọng cho con người.

Đức Maria đứng dưới chân Thánh Giá, và bên cạnh là người môn đệ, Thánh Gioan Tác giả sách Tin Mừng. Chúa Giêsu nói: “Thưa bà, đây là con bà!” và nói với người môn đệ: “Đây là mẹ của anh!”

“Và từ lúc đó, người môn đệ đã đưa bà về nhà mình.”

Đây là di sản của Chúa Giêsu để lại cho những người thân yêu nhất của Người.

Di sản của Chúa dành cho Giáo hội.

Mong muốn của Chúa Giêsu khi Người chết, đó là tình yêu từ mẫu của Đức Maria sẽ ôm trọn tất cả những ai mà Người hiến mạng sống mình cho họ, nghĩa là toàn thể nhân loại.

Ngay sau đó, Chúa Giêsu kêu lên: “Ta khát.” Lời này mô tả cơn thiêu đốt khủng khiếp toàn thân thể Người.

Đây là lời duy nhất ám chỉ trực tiếp đến nỗi đau thể xác của Người.

Rồi Chúa Giêsu nói thêm: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Chúa bỏ rơi con?” Những lời Thánh vịnh này là lời cầu nguyện của Người. Bất chấp âm giọng của nó, những lời này cho thấy chiều sâu sự kết hợp của Người với Chúa Cha.

Trong khoảnh khắc cuối cùng cuộc đời của Người trên trần gian, Chúa Giêsu nghĩ về Chúa Cha. Từ giây phút này trở đi, cuộc đối thoại sẽ chỉ diễn ra giữa Người Con hấp hối và Chúa Cha, Đấng chấp nhận hy lễ tình yêu của Người.

Đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lên: “Mọi sự đã hoàn tất!”

Giờ đây công trình cứu chuộc đã hoàn tất.

Sứ mệnh mà Người đến để đảm nhận trên trái đất đã đạt được mục tiêu của nó.

Phần còn lại thuộc về Chúa Cha:

“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha.”

Nói xong, Người trút hơi thở cuối cùng.

“Bức màn trong Đền thờ bị xé làm đôi…”

“Nơi Cực Thánh” của Đền thờ Giêrusalem được mở ra vào lúc vị Thượng tế của Giao Ước Mới và Vĩnh Cửu bước vào.

Lời cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

trong giây phút hấp hối, Chúa đã không thờ ơ với số phận của nhân loại,

và với hơi thở cuối cùng,

Chúa đã trao phó cho lòng thương xót của Chúa Cha

những con người nam nữ ở mọi thời đại, với tất cả những yếu đuối và tội lỗi của họ.

Xin đổ đầy Thánh Thần tình yêu của Chúa vào chúng con và các thế hệ tương lai,

để sự thờ ơ của chúng con

sẽ không làm cho những hoa trái cái chết của Chúa trở nên vô ích.

Lạy Chúa Giêsu chịu đóng đinh, là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa,

vinh quang và danh dự là của Chúa đến muôn đời. Amen.

Mẹ Đứng Đó:

Mẹ nhìn lên Người Con dịu hiền của mình,

thấy Người bị treo chơ vơ,

cho đến khi Người trút linh hồn.

 

Phần Năm: Các Mầu Nhiệm Ánh Sáng

Trích Tông thư Rosarium Virginis Mariae của Thánh Gioan Phaolô II:

Nối tiếp thời thơ ấu và cuộc sống ẩn dật ở Nadaret, bước sang cuộc sống công khai của Chúa Giêsu, sự chiêm niệm đưa chúng ta đến những mầu nhiệm có thể được gọi cách đặc biệt là “các mầu nhiệm ánh sáng”. Chắc chắn toàn bộ mầu nhiệm Chúa Kitô là một mầu nhiệm ánh sáng. Người là “ánh sáng thế gian”. Tuy nhiên, chân lý này biểu lộ theo một cách đặc biệt trong những năm đời sống công khai của Người, khi Người rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Nhằm đề nghị với cộng đoàn Kitô hữu năm khoảnh khắc quan trọng là những mầu nhiệm “sáng ngời” trong giai đoạn này của cuộc đời Chúa Kitô, tôi nghĩ rằng những điều sau đây có thể được nêu ra một cách phù hợp: (1) Phép Rửa của Người tại sông Gio-đan, (2) Sự tự biểu lộ của Người tại tiệc cưới Cana, (3) Lời rao giảng Nước Thiên Chúa, cùng với lời kêu gọi hoán cải, (4) Sự kiện Biến hình của Người, và cuối cùng là (5) việc Người thiết lập Bí tích Thánh Thể, như diễn tả có tính bí tích của Mầu nhiệm Vượt qua.

Mỗi mầu nhiệm này là một sự mặc khải về Nước Trời hiện diện nơi chính con người của Chúa Giêsu. Phép Rửa ở sông Giođan tiên vàn là một mầu nhiệm ánh sáng. Ở đây, khi Chúa Kitô xuống nước, Đấng vô tội đã trở nên “tội lỗi” vì chúng ta, các tầng trời mở ra và tiếng Chúa Cha tuyên bố Người là Con yêu dấu, trong khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người để trao sứ mạng mà Người phải thi hành. Một mầu nhiệm ánh sáng khác là dấu chỉ đầu tiên, được thực hiện tại Cana, khi Chúa Kitô biến nước thành rượu và mở lòng các môn đệ đón nhận đức tin, nhờ sự can thiệp của Đức Maria, người đầu tiên trong số các tín hữu.

Một mầu nhiệm ánh sáng khác là việc rao giảng trong đó Chúa Giêsu công bố Nước Thiên Chúa đang đến, kêu gọi hoán cải, và công bố sự tha thứ tội lỗi cho tất cả những ai đến với Người trong khiêm nhường và tin tưởng: đây là sự khai mạc sứ vụ thương xót mà Người tiếp tục thực hiện cho đến tận thế, đặc biệt qua Bí tích Hòa giải mà Người trao phó cho Giáo hội của Người. Mầu nhiệm ánh sáng tuyệt đỉnh là Biến hình, theo truyền thống được cho là đã diễn ra trên Núi Tabor. Vinh quang thần linh tỏa sáng trên khuôn mặt của Chúa Kitô khi Chúa Cha truyền cho các Tông đồ đang kinh ngạc rằng “hãy lắng nghe Người”, và chuẩn bị trải nghiệm cùng Người nỗi thống khổ của Cuộc Khổ nạn, để cùng Người đến với niềm vui Phục sinh và một đời sống được biến đổi bởi Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm ánh sáng cuối cùng là việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa Kitô hiến dâng thân mình và máu của Người làm lương thực dưới hình bánh và rượu, và chứng thực tình yêu “cho đến cùng” của Người dành cho nhân loại, theo đó Người sẽ hiến dâng chính mình trong lễ hy sinh để cứu rỗi nhân loại.

Trong những mầu nhiệm này, ngoài phép lạ ở Cana, sự hiện diện của Đức Maria nằm ở hậu trường. Các sách Phúc Âm chỉ đề cập ngắn gọn đến sự hiện diện lúc này lúc khác của Mẹ trong công cuộc rao giảng của Chúa Giêsu, và Phúc Âm không đề cập rằng Mẹ đã có mặt tại Bữa Tiệc Ly và việc thiết lập Bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, vai trò mà Mẹ đảm nhận tại Cana cách nào đó vẫn đồng hành cùng Chúa Kitô xuyên suốt sứ vụ của Người. Sự mặc khải trực tiếp bởi Chúa Cha tại Phép Rửa ở sông Gio-đan và được vọng lại bởi Gioan Tẩy Giả đã được đặt trên môi của Đức Maria tại Cana, và trở thành lời khuyên dạy từ mẫu mà Đức Maria nói với Giáo hội qua mọi thời đại: “Người bảo gì, hãy làm theo”. Lời khuyên này là một giới thiệu thích hợp cho những lời nói và dấu chỉ trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô, và nó hình thành nền tảng Thánh mẫu học của tất cả các “mầu nhiệm ánh sáng”.

Chương 1: Chúa Giêsu chịu Phép Rửa

Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II tại Wadi Al-Kharrar ở Sông Gio-đan trong Chuyến hành hương Năm Thánh của ngài đến Đất Thánh vào Thứ Ba, ngày 21 tháng 3 năm 2000:

Trong Phúc Âm thánh Luca, chúng ta đọc thấy “lời Thiên Chúa đã nói với Gioan, con trai của Dacaria trong sa mạc; và ông đã đi khắp vùng xung quanh sông Gio-đan, rao giảng phép rửa sám hối để được tha tội. ” Ở đây, tại sông Gio-đan, nơi cả hai bờ đều có những đoàn người hành hương đến thăm để tôn vinh Phép Rửa của Chúa, tôi cũng nâng hồn lên cầu nguyện:

Vinh danh Cha là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Gia-cóp! Cha đã sai các tôi tớ của Cha là các Ngôn sứ đến để rao giảng lời yêu thương trung thành của Cha và kêu gọi dân Cha sám hối. Trên bờ sông Gio-đan, Cha đã đặt Gioan Tẩy Giả lên, như một tiếng kêu trong hoang địa, được sai đi khắp vùng sông Gio-đan để dọn đường cho Chúa, để loan báo sự xuất hiện của Chúa Giêsu.

Vinh danh Chúa Kitô, Con Thiên Chúa! Chúa đã đến vùng nước sông Gio-đan để được Gioan làm phép rửa. Chúa đã được Thánh Thần ngự xuống trên mình như chim bồ câu. Và phía trên, các tầng trời mở ra, với tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta!” Từ dòng sông được chúc phúc bởi sự hiện diện của Chúa, Cha đã lên đường để làm Phép Rửa không chỉ bằng nước mà còn bằng lửa và Thánh Thần.

Vinh danh Chúa Thánh Thần, là Chúa và là Đấng ban sự sống! Nhờ quyền năng của Chúa, Hội Thánh được lãnh Phép Rửa, dìm mình trong cái chết cùng với Chúa Kitô, và cùng Người trỗi dậy trong sự sống mới. Nhờ quyền năng của Chúa, chúng con được giải thoát khỏi tội lỗi để trở thành con cái của Thiên Chúa, trở thành Thân thể vinh quang của Chúa Kitô. Nhờ quyền năng của Chúa, mọi sợ hãi đều tan biến, và Tin Mừng tình yêu được rao giảng khắp nơi trên trái đất, để tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Chúa đáng được chúc tụng trong Năm Thánh này và cho đến muôn đời. Amen.

Chương 2: Tiệc cưới tại Cana

Bài phát biểu của Thánh Gioan Phaolô II vào thứ Tư, ngày 26 tháng 2 năm 1997 trong Buổi Tiếp kiến ​​Chung của ngài:

Chúa Giêsu làm phép lạ theo yêu cầu của Đức Maria trong bối cảnh đám cưới tại Cana, thánh Gioan trình bày sự can thiệp đầu tiên của Đức Maria trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu và nhấn mạnh sự hợp tác của Mẹ trong sứ mạng của Con mình. Ở đầu trình thuật, thánh sử kể cho chúng ta rằng “Mẹ của Chúa Giêsu có mặt ở đó”, và như thể muốn ám chỉ rằng sự hiện diện của Mẹ là lý do khiến đôi vợ chồng mời Chúa Giêsu và các môn đệ của Người, trình thuật nói thêm “Chúa Giêsu cũng được mời đến dự tiệc cưới, cùng với các môn đệ “. Với những ghi nhận này, Gioan dường như chỉ ra rằng tại Cana, cũng giống như trong câu chuyện Nhập thể, chính Đức Maria là người giới thiệu Đấng Cứu Thế.

Ý nghĩa và vai trò của sự hiện diện của Đức Trinh Nữ trở nên rõ ràng khi hết rượu. Là một người nội trợ khéo léo và khôn ngoan, Maria ngay lập tức nhận ra và can thiệp để không làm hỏng niềm vui của mọi người, và trên hết là giúp đỡ đôi tân hôn đang gặp khó khăn. Quay sang nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi”, Đức Maria bày tỏ với Người mối quan tâm của mình về tình huống này, mong đợi Người giải quyết nó. Chính xác hơn, theo một số nhà chú giải, Mẹ của Chúa Giêsu đang mong đợi một dấu hiệu phi thường, vì Chúa Giêsu không có sẵn rượu ở đó. Sự lựa chọn ấy của Đức Maria, trong khi có lẽ kiếm được rượu cần thiết ở nơi khác, cho thấy lòng can đảm của đức tin của Mẹ, vì cho đến thời điểm đó, Chúa Giêsu chưa làm phép lạ nào, cả ở Nadaret lẫn trong cuộc sống công khai của Người.

Tại Cana, Đức Trinh Nữ một lần nữa cho thấy sự sẵn sàng hoàn toàn của mình với Thiên Chúa. Trong biến cố Truyền Tin, Mẹ đã góp phần vào phép lạ thụ thai đồng trinh bằng cách tin vào Chúa Giêsu trước khi nhìn thấy Người; ở đây, lòng tin của Mẹ vào quyền năng chưa được tỏ lộ của Chúa Giêsu khiến Người thực hiện “dấu chỉ đầu tiên” của mình, là phép lạ biến nước thành rượu. Như thế, Mẹ đi trước các môn đệ trong đức tin, bởi như Gioan nói, các môn đệ sẽ tin sau phép lạ: Chúa Giêsu “đã bày tỏ vinh quang của Người; và các môn đệ đã tin vào Người”.

Như vậy, Đức Maria đã củng cố đức tin của các môn đệ bằng việc thúc đẩy dấu hiệu kỳ diệu này. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Đức Maria: “Hỡi Bà, tôi với Bà có liên quan gì? Giờ của tôi chưa đến”, dường như bày tỏ sự từ chối, như thể đang thử thách đức tin của Mẹ mình. Theo một cách diễn giải, ngay từ khi bắt đầu sứ mạng, Chúa Giêsu dường như đặt câu hỏi về mối dây mẹ-con tự nhiên mà Mẹ Người nhắc đến. Câu này, theo cách nói địa phương, nhằm nhấn mạnh một khoảng cách giữa hai người, bằng cách loại trừ sự hiệp thông của cuộc sống. Khoảng cách này không làm mất sự tôn kính; thuật ngữ “Bà” mà Người dùng để gọi Mẹ của mình được sử dụng với một sắc thái sẽ xuất hiện lại trong các cuộc trò chuyện với người phụ nữ Canaan, người phụ nữ Samari, người đàn bà ngoại tình, và Maria Madalêna, trong các bối cảnh cho thấy mối quan hệ tích cực của Chúa Giêsu với những người nữ đang đối thoại.

Với câu nói: “Hỡi Bà, tôi với Bà có liên quan gì?”, Chúa Giêsu muốn đặt sự hợp tác của Mẹ lên mức độ cứu rỗi, bằng cách nối kết đến đức tin và hy vọng của Mẹ, đòi hỏi Mẹ phải vượt ra ngoài vai trò tự nhiên của người mẹ. Điều quan trọng hơn nhiều, đó là lý do Chúa Giêsu đưa ra: “Giờ của tôi chưa đến.” Một số học giả nghiên cứu bản văn này, ủng hộ cách giải thích của thánh Augustin, hiểu “giờ” ở đây là biến cố Khổ nạn. Một số người khác thì cho rằng nó ám chỉ phép lạ đầu tiên trong đó quyền năng Mêsia của vị ngôn sứ ở Nadaret sẽ được tiết lộ. Tuy nhiên, một số khác nữa lại cho rằng câu này là câu hỏi và là phần mở rộng của câu hỏi trước đó: “Tôi với Bà có liên can gì? Giờ của tôi chưa đến phải không?” Chúa Giêsu cho Đức Maria hiểu rằng từ nay Người không còn phụ thuộc vào Mẹ nữa, mà phải chủ động làm công việc của Cha Người.

Rồi Đức Maria không cố nài nỉ Chúa Giêsu nữa mà quay sang các gia nhân, bảo họ vâng lời Người. Sau tất cả, lòng tin của Mẹ vào Con mình đã được đền đáp. Chúa Giêsu, người mà Mẹ để hoàn toàn tự do hành động, đã làm phép lạ, khi nhận ra lòng can đảm và sự đơn sơ phó thác của Mẹ Người: “Đức Giêsu bảo họ: ‘Hãy đổ nước đầy các chum’. Và họ đổ đầy tới miệng chum”. Như thế, sự vâng lời của họ cũng giúp họ có được rượu dồi dào. Lời yêu cầu của Đức Maria: “Người bảo gì, các anh hãy làm theo”, vẫn luôn có giá trị thời sự đối với các Kitô hữu ở mọi thời đại, và luôn có hiệu lực làm mới lại hiệu quả kỳ diệu của nó trong cuộc sống của mọi người. Đó là một khuyến dụ hãy tin tưởng mà không do dự, nhất là khi người ta không hiểu ý nghĩa hoặc lợi ích của những gì Chúa Kitô yêu cầu. Giống như trong câu chuyện về người phụ nữ Canaan, sự từ chối rõ ràng của Chúa Giêsu làm nổi bật đức tin của người phụ nữ, vì vậy lời của Con Mẹ, “Giờ của tôi chưa đến”, cùng với việc thực hiện phép lạ đầu tiên, chứng minh đức tin lớn lao và sức mạnh lời cầu nguyện của Mẹ. Câu chuyện tiệc cưới Cana thúc giục chúng ta phải can đảm trong đức tin và cảm nghiệm trong cuộc sống mình chân lý của những lời Phúc Âm: “Hãy xin thì sẽ nhận được”.

Chương 3: Rao giảng Nước Trời

Bài giảng của thánh Gioan Phaolô II vào Lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Nhật, ngày 23 tháng 11 năm 1997:

Chúa Giêsu chỉ ra vương quyền thực sự của Người: “Ta là vua. Ta đã sinh ra và đến thế gian này để làm chứng cho sự thật. Ai thuộc về sự thật đều nghe tiếng Ta”.

Người không phải là vua như những thành viên của Thượng Hội Đồng hiểu: thực vậy, Người không khao khát bất kỳ quyền lực chính trị nào ở Israel. Ngược lại, vương quốc của Người vượt xa các biên giới Palestine. Ai thuộc về sự thật đều nghe tiếng Người và nhìn nhận Người là vua.

Đây là tầm vóc phổ quát của vương quốc Chúa Kitô và chiều kích thiêng liêng của vương quốc này.

“Làm chứng cho sự thật.” Bài đọc từ Sách Khải Huyền nói rằng Chúa Giêsu Kitô là “chứng nhân trung thành.” Người là chứng nhân trung thành vì Người mặc khải mầu nhiệm của Thiên Chúa và công bố vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc đang có mặt. Người là người Tôi tớ đầu tiên của vương quốc này. Bằng cách trở nên “vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập giá,” Người sẽ làm chứng về quyền năng của Chúa Cha đối với mọi thụ tạo và thế giới. Và nơi để thực thi vương quyền của Người là Thập giá mà Người đảm nhận trên đồi Golgotha. Cái chết của Người là một cái chết nhục nhã, nhưng nó cho thấy sự xác nhận lời Phúc Âm công bố về vương quốc của Thiên Chúa. Trong mắt kẻ thù của Người, cái chết đó hẳn là bằng chứng rằng mọi điều Người đã nói và làm đều sai: “Ông là Vua của Israel; hãy xuống khỏi thập giá đi nào, và chúng ta sẽ tin.”

Người đã không xuống khỏi thập giá, nhưng như Mục tử Tốt lành, Người đã hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên. Tuy nhiên, sự xác nhận vương quyền của Người đã đến sau đó một chút khi vào ngày thứ ba, Người sống lại từ cõi chết, cho thấy Người là “người đầu tiên từ cõi chết sống lại”. Là người Tôi Trung, Người là Vua vì nắm “chìa khóa của sự chết và Âm phủ”. Và vì Người là Đấng chiến thắng sự chết, địa ngục và Satan, nên Người là “vua của các vua trên trái đất”. Thật vậy, mọi sự trên đời đều phải nhận chịu sự chết. Ngược lại, Đấng có quyền năng trên sự chết mở ra viễn cảnh về sự sống bất tử cho toàn thể nhân loại. Người là Alpha và Omega, là khởi đầu và là sự hoàn thành của toàn thể công trình tạo dựng, để mọi thế hệ có thể lặp lại: Chúc tụng vương quốc của Người đang đến.

Anh chị em thân mến, […] sự thật về Chúa Kitô Vua là sự ứng nghiệm của các lời tiên tri trong Cựu Ước. Tiên tri Đanien loan báo sự xuất hiện của Con Người, Đấng đã được trao “uy lực, vinh quang và vương quyền”. Người đến và được phụng sự bởi “các dân tộc, các quốc gia và ngôn ngữ”, và “quyền cai trị của Người vững bền mãi mãi, không bao giờ qua đi, vương quốc của Người là vương quốc không bao giờ bị hủy diệt”. Chúng ta biết rõ rằng tất cả những điều này đã được ứng nghiệm trọn vẹn nơi Chúa Kitô, trong cuộc Vượt Qua cái Chết và Sống lại của Người.

Lễ trọng Chúa Kitô Vua Vũ trụ mời gọi chúng ta lặp lại trong đức tin lời Kinh Lạy Cha, mà chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Xin cho Nước Cha trị đến”.

Lạy Chúa, xin cho Nước Chúa trị đến! – “Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, vương quốc của công lý, tình yêu và hòa bình”. Amen.

Chương 4: Biến Hình

Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô II vào Lễ Chúa Hiển Dung và kỷ niệm 21 năm ngày mất của thánh Giáo Hoàng Phaolô VI vào thứ Sáu, ngày 6 tháng 8 năm 1999:

Thánh lễ mà chúng ta đang cử hành đưa tâm trí chúng ta đến Núi Tabor cùng với các Tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, để say mê chiêm ngưỡng vẻ huy hoàng của Chúa biến hình. Trong sự kiện Biến Hình, chúng ta chiêm ngắm cuộc gặp gỡ mầu nhiệm giữa lịch sử, vốn đang được xây dựng mỗi ngày, và gia sản ân phúc đang chờ đợi chúng ta trên thiên đàng, trong sự kết hợp trọn vẹn với Chúa Kitô, là Alpha và Omega, nguyên thủy và cùng đích.

Chúng ta, những người hành hương trên mặt đất, được ban cho niềm vui trong sự đồng hành của Chúa biến hình khi chúng ta đắm mình vào những điều trên trời qua lời cầu nguyện và việc cử hành các mầu nhiệm thần linh. Nhưng, giống như các Tông đồ, chúng ta cũng phải xuống núi Tabor để đi vào cuộc sống hàng ngày, nơi những biến cố của con người thách thức đức tin chúng ta. Trên núi, chúng ta đã nhìn thấy; còn trên những nẻo đường đời sống, chúng ta được yêu cầu kiên trì công bố Tin Mừng có sức soi sáng bước chân của những người tin. Niềm xác tín tâm linh sâu sắc này đã hướng dẫn toàn bộ sứ mạng trong Giáo hội của Vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, [Thánh] Phaolô VI, người đã trở về nhà Cha đúng vào Lễ Chúa Biến Hình, cách đây 21 năm.

Trong bài suy niệm mà ngài đã dự tính chia sẻ tại buổi đọc Kinh Truyền Tin vào ngày hôm đó, ngày 6 tháng 8 năm 1978, ngài đã nói: “Sự Biến Hình của Chúa, được nhắc lại trong Phụng vụ long trọng hôm nay, chiếu một ánh sáng rực rỡ vào cuộc sống thường ngày của chúng ta, khiến chúng ta hướng tâm trí đến vận mệnh bất tử mà sự kiện đó báo trước”. Vâng! Đức Phaolô VI nhắc nhở: chúng ta được dựng nên cho vĩnh cửu, và vĩnh cửu bắt đầu ngay tại khoảnh khắc này, vì Chúa ở giữa chúng ta, Người sống với và sống trong Giáo hội của Người.

Khi chúng ta tưởng niệm vị Tiền Nhiệm đáng nhớ của tôi trên ngai tòa Phêrô với cảm xúc sâu sắc, chúng ta hãy cầu nguyện để mọi Kitô hữu biết kín múc lòng can đảm và sự kiên trì khi chiêm ngắm Chúa Kitô, Đấng “phản ánh vinh quang của Thiên Chúa và mang dấu ấn bản tính Thiên Chúa”, để công bố và làm chứng một cách trung thành qua lời nói và việc làm của Người.

Xin Đức Maria, Người Mẹ dịu dàng và ân cần quan tâm của chúng ta, giúp chúng ta trở thành những tia sáng rực rỡ của ánh sáng cứu độ là Chúa Giêsu, Con của Mẹ.

 Chương 5: Lập Bí tích Thánh Thể

Thánh Gioan Phaolô II viết trong Chương 6, Thông điệp Ecclesia de Eucharista (Về Bí tích Thánh Thể trong mối Tương Quan với Giáo hội):

Tại Trường học của Đức Maria, “Người Phụ nữ của Thánh Thể”

Nếu muốn khám phá lại mối tương quan sâu sắc giữa Giáo hội và Thánh Thể trong tất cả sự phong phú của nó, chúng ta không thể bỏ qua Đức Maria, là Mẹ và là hình mẫu của Giáo hội. Trong Tông thư Rosarium Virginis Mariae, tôi đã chỉ ra Đức Trinh Nữ Maria là thầy dạy của chúng ta trong việc chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Kitô, và tôi đã đưa việc thiết lập Bí tích Thánh Thể vào trong số các Mầu nhiệm Ánh sáng.

Đức Maria có thể hướng dẫn chúng ta đến với bí tích cực thánh này, bởi vì chính Mẹ có mối tương quan sâu sắc với Thánh Thể. Thoạt nhìn, Phúc Âm không đề cập đến chủ đề này. Câu chuyện về việc thiết lập Bí tích Thánh Thể vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh không đề cập đến Đức Maria. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Mẹ đã hiện diện giữa các Tông đồ đang “đồng tâm nhất trí” cầu nguyện trong cộng đoàn đầu tiên tụ họp sau khi Chúa Lên Trời để chờ đợi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Chắc chắn Đức Maria đã có mặt trong các buổi cử hành Thánh Thể của thế hệ Kitô hữu đầu tiên, những người rất sốt sắng với “cử hành bẻ bánh”.

Nhưng ngoài việc tham dự tiệc Thánh Thể, có thể có một bức tranh gián tiếp về mối tương quan của Đức Maria với Bí tích Thánh Thể, bắt đầu từ thái độ nội tâm của Mẹ. Đức Maria là “người phụ nữ của Thánh Thể” trong suốt cuộc đời của Mẹ. Giáo hội, vốn coi Đức Maria là mẫu gương, cũng được kêu gọi bắt chước Mẹ trong mối tương quan của Mẹ với mầu nhiệm cực thánh này. Mysterium fidei! Nếu Bí tích Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin vượt quá sự hiểu biết của chúng ta đến mức đòi hỏi phải hoàn toàn phó thác vào lời Chúa, thì không ai có thể giống như Đức Maria trong vai trò là người hỗ trợ và hướng dẫn chúng ta đạt được thái độ này.

Khi lặp lại những gì Chúa Kitô đã làm trong Bữa Tiệc Ly để vâng theo lệnh truyền của Người: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta!”, chúng ta cũng chấp nhận lời mời gọi của Đức Maria là vâng lời Người mà không do dự: “Người bảo gì, anh em hãy làm theo”. Với cùng một sự quan tâm từ mẫu thể hiện tại tiệc cưới Cana, Đức Maria dường như nói với chúng ta: “Đừng dao động; hãy tin tưởng vào lời Con của Mẹ. Nếu Người có thể biến nước thành rượu, Người cũng có thể biến bánh và rượu thành Mình và Máu Người, và qua mầu nhiệm này, Người ban cho các tín hữu ký ức sống động về cuộc Vượt Qua của Người, trong đó Người trở thành “bánh sự sống”.

Theo một nghĩa nào đó, Đức Maria đã sống đức tin Thánh Thể của mình ngay cả trước khi Bí tích này được thiết lập, bằng chính việc Mẹ đã dâng hiến cung lòng trinh nguyên của mình cho Sự Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong khi tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự phục sinh, Bí tích Thánh Thể cũng là sự tiếp nối cuộc nhập thể. Vào lúc Truyền Tin, Đức Maria đã thụ thai Con Thiên Chúa trong thực tại chất thể là Mình và Máu Người, do đó, Mẹ đã báo trước nơi chính mình mức nào đó điều xảy ra theo tính bí tích nơi mỗi tín hữu, những người đón nhận Mình và Máu Chúa dưới dấu chỉ của bánh và rượu. Như thế, có một sự tương tự sâu sắc giữa tiếng Fiat mà Đức Maria trả lời cho thiên thần, và lời Amen mà mọi tín hữu nói khi đón nhận Thánh Thể. Đức Maria được yêu cầu tin rằng Đấng mà Mẹ thụ thai “bởi Chúa Thánh Thần” là “Con Thiên Chúa”.

Tiếp nối đức tin của Đức Trinh Nữ, trong mầu nhiệm Thánh Thể, chúng ta được yêu cầu tin rằng chính Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và Con của Đức Maria, hiện diện trong nhân tính và thiên tính trọn vẹn của Người dưới hình bánh và rượu. “Phúc cho bà là kẻ đã tin”. Trong mầu nhiệm Nhập thể, Đức Maria cũng báo trước đức tin của Giáo hội vào Thánh Thể. Trong cuộc Thăm viếng, khi Mẹ đã mang trong lòng mình Ngôi Lời thành xác phàm, thì một cách nào đó, Mẹ đã trở thành “nhà tạm”, “nhà tạm” đầu tiên trong lịch sử, trong đó Con Thiên Chúa, vẫn vô hình đối với con mắt loài người của chúng ta, đã cho phép bà Êlisabét tôn thờ, chiếu tỏa ánh sáng của Người qua đôi mắt và tiếng nói của Đức Maria.

Há không phải ánh nhìn đăm chiêu của Đức Maria khi Mẹ chiêm ngưỡng khuôn mặt của Chúa Kitô mới sinh và ôm Người trong vòng tay của mình chính là mẫu mực tình yêu vô song nên truyền cảm hứng cho chúng ta mỗi khi chúng ta rước Thánh Thể đó sao? Đức Maria, trong suốt cuộc đời bên cạnh Chúa Kitô chứ không chỉ trên đồi Canvê, đã biến chiều kích hy tế của Thánh Thể thành hy tế của chính mình. Khi Mẹ mang Hài Nhi Giêsu đến Đền Thờ Giêrusalem “để dâng Người cho Thiên Chúa”, Mẹ đã nghe cụ già Simêon báo trước rằng đứa trẻ sẽ là “dấu chỉ cho người ta chống đối” và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu trái tim Mẹ.

Thảm kịch về cuộc đóng đinh Con của Mẹ đã được báo trước như thế, và theo một nghĩa nào đó, Stabat Mater, việc Mẹ đứng đó dưới chân Thập giá đã được báo trước. Trong quá trình chuẩn bị hàng ngày cho sự kiện Canvê, Đức Maria đã kinh nghiệm một loại “Thánh Thể được báo trước” mà người ta có thể nói là “sự hiệp thông thiêng liêng” của lòng khao khát và sự dâng hiến, sẽ lên đến đỉnh điểm trong sự kết hợp của Mẹ với Con mình trong cuộc Khổ nạn của Người, và sau đó được biểu hiện sau Phục sinh bằng việc Mẹ tham gia vào cử hành Thánh thể của các Tông đồ, như là sự tưởng niệm cuộc Khổ nạn ấy.

Đức Maria chắc hẳn đã cảm thấy gì khi nghe từ miệng của Phêrô, Gioan, Giacôbê và các Tông đồ khác những lời được nói ra trong Bữa Tiệc Ly: “Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”?Thân thể bị nộp vì chúng ta và trở nên hiện diện dưới các dấu chỉ bí tích là thân thể mà Mẹ đã cưu mang trong lòng mình! Đối với Đức Maria, cách nào đó việc đón nhận Thánh thể có nghĩa là một lần nữa đón nhận vào lòng mình trái tim đã đập cùng nhịp với trái tim Mẹ, và sống lại những gì Mẹ đã trải qua dưới chân Thập giá.

“Hãy làm việc này để tưởng nhớ Ta.” Trong “lễ tưởng niệm” Canvê, tất cả những gì Chúa Kitô đã thực hiện qua cuộc Khổ nạn và cái chết của Người đều hiện diện. Do đó, tất cả những gì Chúa Kitô đã làm liên quan với Mẹ Người vì ích lợi của chúng ta cũng hiện diện. Người đã trao người môn đệ yêu dấu cho Mẹ, và qua người môn đệ ấy, Người trao mỗi người chúng ta: “Đây là Con của Bà!” Với mỗi người chúng ta, Người cũng nói: “Đây là Mẹ của con!” Tưởng niệm cái chết của Chúa Kitô trong Thánh lễ cũng có nghĩa là không ngừng đón nhận món quà này. Nó chính là việc đón nhận, như Gioan, người Mẹ lại được trao để làm Mẹ chúng ta.

Điều đó cũng có nghĩa là cam kết trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, đặt mình vào trường học của Mẹ Người và để Mẹ đồng hành với chúng ta. Đức Maria hiện diện, với Giáo hội và trong tư cách là Mẹ của Giáo hội, trong mỗi lần chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể. Nếu Giáo hội và Bí tích Thánh Thể không thể tách rời, thì điều tương tự cũng phải được nói về Đức Maria và Bí tích Thánh Thể. Đây là một lý do tại sao, từ thời xa xưa, việc tưởng nhớ Đức Maria luôn là một phần trong các cử hành Thánh Thể của các Giáo hội Đông phương và Tây phương. Trong Thánh Thể, Giáo hội hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô và hy tế của Người, và làm cho tinh thần của Đức Maria trở thành của Giáo hội. Sự thật này có thể được nhận hiểu sâu sắc hơn khi đọc lại lời kinh Magnificat từ nhãn giới Thánh lễ.

Thánh lễ, giống như Bài ca của Đức Maria, trước hết và trên hết là lời ngợi khen và tạ ơn. Khi Đức Maria thốt lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa và thần trí tôi vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”, thì Mẹ đã mang Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Mẹ ngợi khen Thiên Chúa “qua” Chúa Giêsu, nhưng Mẹ cũng ngợi khen Ngài “trong” Chúa Giêsu và “với” Chúa Giêsu. Đây chính là “tâm tình Thánh Thể” đích thực. Đồng thời, Đức Maria nhớ lại những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ để hoàn thành lời hứa với các tổ phụ, và công bố điều kỳ diệu vượt trên tất cả, đó là mầu nhiệm Nhập thể cứu chuộc. Cuối cùng, Magnificat phản ánh sức căng của Thánh Thể hướng về cánh chung.

Mỗi lần Con Thiên Chúa lại đến với chúng ta trong “sự đơn nghèo ” của các dấu chỉ bí tích là bánh và rượu, những hạt giống của lịch sử mới trong đó những kẻ quyền thế bị “hạ bệ khỏi ngai vàng” và “những kẻ thấp hèn được tôn vinh”, sẽ bén rễ trong thế giới. Đức Maria hát về “trời mới” và “đất mới” vốn tìm thấy trong Thánh Thể sự báo trước, cũng như tìm thấy chương trình và kế hoạch cho ‘trời mới đất mới’ ấy. Bài ca Magnificat diễn tả linh đạo của Đức Maria, và không có gì vĩ đại hơn linh đạo này trong việc giúp chúng ta kinh nghiệm mầu nhiệm Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể đã được ban cho chúng ta để cuộc sống của chúng ta, giống như cuộc sống của Đức Maria, có thể trở thành một bài ca Magnificat trọn vẹn!

(Scott L. Smith biên tập – Lm. Lê Công Đức dịch)

Tags:

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Tư 2025
H B T N S B C
« Th3    
  1 2 3 4 5 6
7 8 9 10 11 12 13
14 15 16 17 18 19 20
21 22 23 24 25 26 27
28 29 30