CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM C: THIÊN CHÚA GIẢI THOÁT KHỎI CẢNH NÔ LỆ & ÁP BỨC

Written by xbvn on Tháng Hai 25th, 2013. Posted in Năm C, Nguyễn Văn Nội

 I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Câu nói bất hủ của Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục tiến sĩ Hội Thánh “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô” cũng có thể được hiểu rộng ra là “Không biết Thánh Kinh là không biết Thiên Chúa và không biết cả chính bản thân chúng ta nữa.”  Thật vậy những câu Lời Chúa trong Sách Xuất Hành mà Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta đọc hôm nay cho chúng ta biết rất nhiều về Thiên Chúa. Đồng thời cũng cho chúng ta biết về bản thân chúng ta là dân riêng của Người.

Nếu chúng ta đối chiếu hoàn cảnh chính trị xã hội của dân Ít-ra-en dưới chế độ nô lệ của Ai-cập với hoàn cảnh chính trị xã hội của nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay,  trong đó có Việt Nam, thì chúng ta sẽ thấy rõ tính thời sự và tầm quan trọng của mạc khải trong Sách Xuất Hành: Thiên Chúa là Đấng bênh vực và giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ và áp bức! Cũng có nghĩa là Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, chống lại những kẻ bóc lột, đàn áp và loại trừ họ khỏi cuộc sống và xã hội.

 II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong  bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15): Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.

1 Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. 3 Ông tự bảo: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? “4 Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: “Mô-sê! Mô-sê!” Ông thưa: “Dạ, tôi đây!” 5 Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh.” 6 Người lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.

 7 Đức Chúa phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. 8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật…  10 Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.” 11 Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập?” 12 Người phán: “Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.”

 2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12): Đời sống của dân Ít-ra-en với ông Mô-sê trong sa mạc đã được chép lại để răn dạy chúng ta.  1 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. 2 Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê. 3 Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, 4 tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô. 5 Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. 6 Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.

 10 Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. 11 Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. 12 Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.

 2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 13,1-9): Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.   1 Lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2 Đức Giê-su đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?  3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”

 6 Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: “Người  kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7 nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? 8 Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH

3.1 Chân dung của Thiên Chúa

3.1.1 Bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15) là một trong những đoạn văn hay nhất của Sách Xuất Hành, vì đoạn văn này tường thuật việc Thiên Chúa tự mạc khải mình cho nhân loại qua ông Mô-sê, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm:

Trước hết Thiên Chúa tỏ lộ Ngài là Đấng Thánh, Đấng Siêu Việt, Đấng Vô Hình, Đấng Tự Hũu mà con người không nhìn thấy, không thể tiếp cận trực tiếp (mà không phải chết!).

Thứ đến, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấng quan tâm đến cuộc sống của những người Ít-ra-en nên Người nghe thấy tiếng kêu than của họ.

Sau cùng Thiên Chúa mạc khải là Đấng không thể ngồi yên trước nỗi thống khổ của con dân Ít-ra-en nên nẩy ra sáng kiến cứu thoát, giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ Ai -cập, qua một chương trình và kế hoạch mà chính Người thực hiện qua trung gian và công cụ là ông Mô-sê, tôi tớ của Ngài.

 3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm khuyên nhủ các tín hữu Cô-rin-tô hãy biết rút ra bài học bổ ích từ lịch sử của dân Chúa, từ cách sống của những người Ít-ra-en trong thời Xuất Hành được xem là cha ông của họ trong dòng dõi những kẻ tin vào Thiên Chúa.

Trong đoạn 1 Cr 10,1-6.10-12 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa đã ân cần và rộng tay ban phát nhiều ơn huệ như thế nào cho những người Ít-ra-en: Người đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập, đã nuôi sống họ trong suốt 40 năm hành trình xuyên qua sa mạc về Đất Hứa, đã tỏ ra quyền năng và luôn hiện diện bên họ. Thế nhưng nhiều người trong số họ vẫn không tin vào tình thương và quyền năng của Người, vẫn lẩm bẩm than trách mỗi khi gặp khó khăn trở ngại, vẫn quay lưng lại với Người để đi tìm các tà thần…

 3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 13,1-9) là tường thuật của Lu-ca về hai quan điểm khác nhau trước một sự kiện cụ thể vừa xẩy ra. Sự kiện đó là những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết chết khi họ đang tiến hành việc dâng của lễ cho Thiên Chúa. Theo quan điểm của những người Do-thái (tiêu biểu là các kinh sư và Pha-ri-sêu) thì những người Ga-li-lê kia bị giết là vì họ là những người tội lỗi, nên bị Thiên Chúa trừng phạt (bằng bàn tay của Phi-la-tô). Còn theo Chúa Giê-su thì sự việc không thể giải thích như thế. Chúa Giê-su không đưa ra một giải thích nào mà chỉ nhân đó lên tiếng cảnh cáo những người Do-thái là hãy coi chừng: đừng kiêu căng, tự phụ mà xem thường và kết án người khác; đừng suy diễn lung tung theo sự hiểu biết hẹp hòi của mình mà vi phạm đến quyền bá chủ lịch sử của Thiên Chúa. Điều quan trọng mà Thiên Chúa mong đợi ở họ là họ phải có đời sống tốt lành, thánh thiện như Giới Răn và Lề Luật đã dạy. Chúa Giê-su kể dụ ngôn cây vả để khéo léo và tế nhị nhắc nhở họ điều quan trọng ấy.

Qua đoạn Phúc Âm Lc 13,1-9 này, Chúa Giê-su cho thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người, nhất là của những kẻ tin, là sinh hoa kết trái tức sám hối, khiêm nhường và tin vào Tin Mừng. Cây vả không sinh trái thì sớm muộn gì cũng sẽ bị chặt đi và ném vào lửa, vì nó sống chỉ làm hại đất. Kẻ tin không sinh trái thì sớm muộn gì cũng bị loại trừ vì những người ấy chỉ làm uổng công tình thương và quyền năng và ơn huệ của Thiên Chúa mà thôi!

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa    

(1) Nếu chúng ta chú ý vào bài đọc 1 thì sứ điệp của Lời Chúa sẽ là: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật…  Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.”

(2) Còn nếu chúng ta chú ý vào bài Phúc Âm thì sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sinh hoa kết trái trong đời sống đức tin vì chính Chúa Giê-su đã cảnh cáo: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”

Hai sứ điệp trên không hề mâu thuẫn nhau, trái lại bổ sung cho nhau vì thật ra không hoa quả sám hối nào tốt đẹp cho bằng những hành động giải thoát cứu vớt những người bé nhỏ và chịu thiệt thòi trong xã hội loài người.

 IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa

Là Đấng gần gũi với con dân của Người là Ít-ra-en và tất cả chúng ta; Người quan tâm chăm sóc, cứu vớt con dân của Người là Ít-ra-en và tất cả chúng ta. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng đòi hỏi mỗi một người phải sinh hoa trái tốt lành thánh thiện trong đời sống đức tin là tham  gia vào việc giải thoát anh em đồng loại khỏi cảnh nô lệ.

 4.2 Thực thi sứ điệp của Lời Chúa 

Tôi xét mình xem

* Tôi có tuân phục thánh ý Chúa và thực thi sứ mệnh Chúa giao là bênh vực và giải thoát những người bị bất công và áp bức, như ông Mô-sê không?

* Tôi có biết rút ra bài học của lịch sử, của quá khứ mà sống biết ơn và gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô, như lời nhắn nhủ của Thánh Phao-lô không?

* Tôi có sống ăn năn sám hối, khiêm nhu và thánh thiện, như lời Chúa Giê-su nhắc nhở các kinh sư và Pha-ri-sêu trong Phúc Âm không?

 V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI

5.1 «Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng! Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi dân, mọi nước trong thế giới hôm nay để ai nấy đều nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng luôn bênh vực những người nghèo khổ, bệnh tật, bị bất công và áp bức trong xã hội loài người!

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con! 

 5.2 «Dạ, tôi đây!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để các ngài noi gương bắt chước ông Mô-sê mà mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi và chu toàn sứ mạng giải cứu con người khỏi mọi cảnh áp bức, bóc lột, bất công!

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con! 

 5.3 «Bây giờ, ngươi hãy đi!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết sử dụng tài năng, của cải và thời giờ Chúa ban cho mình, để giải thoát những người đang phải sống trong cảnh nô lệ hay ngục tù vì bất công xã hội.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con! 

 5.4 «Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả những người bênh vực công lý, xây dựng hòa bình và yêu thương giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia, để họ được ơn hăng say tích cực trong sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa đã giao cho.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!   

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.              

Tags:

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Mười Một 2024
H B T N S B C
« Th10    
  1 2 3
4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17
18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30