SỐNG TỐT ƠN GỌI LINH MỤC TRONG BỐI CẢNH TÂN PHÚC ÂM HÓA

Written by xbvn on Tháng Ba 16th, 2015. Posted in Linh mục, Lm. Trần Minh Huy, Tâm linh

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS

  SỐNG TỐT ƠN GỌI LINH MỤC

TRONG BỐI CẢNH TÂN PHÚC ÂM HÓA

Tĩnh Tâm Năm ĐCV. Vinh Thanh

Ngày 1-6/3/2015

 

2015

                  

 

 MỤC LỤC

 BÀI KHAI MẠC.. 6

Phần Một

NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC SỐNG ƠN GỌI TRONG BỐI CẢNH                                   GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI HÔM NAY

I

BỐI CẢNH SỐNG CỦA CHÚNG TA TRƯỚC KHI VÀO CHỦNG VIỆN   13

II

TÌNH BẠN KHÁC PHÁI CỦA ỨNG SINH/LINH MỤC.. 25

III

KHỦNG HOẢNG LẠM DỤNG TÌNH DỤC VÀ HƯỚNG TỚI CÁC GIẢI PHÁP TRIỆT ĐỂ   44

IV

LỜI ĐÁP CHO CÁC THÁCH ĐỐ VÀ KHỦNG HOẢNG: TỰ NGUYỆN SỐNG LUẬT ĐỘC THÂN LINH MỤC.. 62

Phần Hai

CON ĐƯỜNG CHỦNG VIỆN NHẮM TỚI:  TIẾN TRÌNH ƠN GỌI NĂM BƯỚC

1. BƯỚC THỨ NHẤT: CHÚA GỌI. 71

2. BƯỚC THỨ HAI: CHÚNG TA ĐÁP TRẢ.. 78

3. BƯỚC THỨ BA: CHÚNG TA CAM KẾT THEO CHÍNH CHÚA KITÔ TOÀN THỂ   84

4. BƯỚC THỨ TƯ:  CHÚNG TA BIẾN ĐỔI VÀ ĐIỀU CHỈNH DẦN DẦN CUỘC SỐNG   89

5. BƯỚC THỨ NĂM: CHÚNG TA KIÊN TRÌ CHU TOÀN BỔN PHẬN HẰNG NGÀY   98

Phần Ba

QUÀ TẶNG CHÚA GIÊSU TRỐI LẠI CHO CHÚNG TA VỮNG TIẾN TRÊN ĐƯỜNG ƠN GỌI

1. Cử Hành và Sống Bí tích Thánh Thể. 113

2. Buông mình theo Chúa Thánh Thần. 118

3. Sống dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria. 124

4. Bí tích Giải tội hữu hiệu hóa cuộc biến đổi

5. Con đường Thập Giá. 128

NGHI THỨC SÁM HỐI CỘNG ĐỒNG………………………135

BÀI BẾ MẠC………………………………………………….145

(1)

BÀI KHAI MẠC

            Trọng kính Đức Cha Giám Đốc và Quý Cha,

Kính thưa Quý Thầy,

Trước hết, tuy hơi muộn, nhưng hy vọng không muộn quá, con xin kính mừng Năm Mới, Tuổi Mới Đức Cha, Quý Cha và Quý Thầy được dồi dào ơn Chúa, sức khỏe và mọi sự tốt đẹp theo ý Chúa và ước nguyện của chúng ta; cách riêng, xin chúc Quý Thầy một kỳ tĩnh tâm sốt sắng. Con xin chọn chủ đề cho kỳ tĩnh tâm năm này là Sống Tốt Ơn Gọi Linh Mục trong bối cảnh Tân Phúc Âm Hóa. Tân là mới, nhưng không phải mới về nội dung, vì Tin Mừng vẫn là một, Chúa Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi, song mới trong cách sống, mới trong nhiệt huyết, mới trong phương pháp, mới trong cách diễn tả, mới trong cách được đào tạo và tự đào tạo, tắt một lời là mới trong mọi lãnh vực, mọi ngóc ngách của hữu thể, mọi bình diện của cuộc sống, nhờ đặt Chúa Kitô ở trung tâm.

Một điểm thuận lợi là chúng ta đang sống trong thời đại Giáo Hoàng Phanxicô với Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm (Evangelii Gaudium)[1], thôi thúc chúng ta tái khám phá cội nguồn việc loan báo Tin Mừng, mời gọi phục hồi một tầm nhìn tiên tri và tích cực về thực tại mà không bỏ qua các thách thức hiện nay, can đảm nhìn về phía trước, bất chấp các cơn khủng hoảng, để thập giá và sự phục sinh của Chúa Kitô vẫn luôn là ngọn cờ chiến thắng[2]. Hơn thế nữa, trong Tông Thư cử hành Năm Đời Sống Thánh Hiến 2015[3], ĐTC Phanxicô nhắc nhở chúng ta thực hiện ba mục tiêu: nhìn về quá khứ với niềm tri ân và tạ tội, sống hiện tại cách say mê và nhắm đến tương lai với niềm hy vọng; cùng năm điều mong đợi: luôn luôn thể hiện niềm vui, sống tính ngôn sứ để đánh thức thế giới, trở nên những chuyên viên hiệp thông, ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại biên của cuộc đời và tự vấn về điều mà Thiên Chúa và nhân loại hiện đang đòi hỏi chúng ta.

Nhưng để làm được việc đó cách hữu hiệu, chúng ta cần đi sâu vào cốt lõi của việc đang bắt đầu: tĩnh tâm là mỗi người đích thân gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa, sống với Chúa, tự mình xây dựng và củng cố đời sống nội tâm thiêng liêng cá nhân sâu sắc, vì không ai khác có thể làm thay cho chúng ta được. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đặc biệt nhấn mạnh trong Pastores Dabo Vobis[4]: Nếu “thiếu đào tạo thiêng liêng thì việc đào tạo mục vụ sẽ không có nền tảng”. Và như chương trình Chủng viện đã đề ra (Trong những ngày tĩnh tâm: không chơi thể thao, không xem truyền hình, không gặp khách, không gọi và nghe điện thoại. Tuyệt đối giữ thinh lặng trong các giờ qui định, đặc biệt trong các giờ thinh lặng và suy niệm riêng), chúng ta sẽ cùng nhau tích cực hợp tác với ơn tác động của Chúa Thánh Thần, cố gắng tạo cho mình và cho anh em, không những cuộc sống thinh lặng, mà còn sự thinh lặng của cuộc sống nữa, là cái thiết yếu cho một cuộc tĩnh tâm hiệu quả, vì bầu khí tĩnh tâm quyết định chất lượng tĩnh tâm. Đúng vậy, ĐTC Phanxicô nhận định: “những ai tham dự tĩnh tâm một cách đúng nghĩa sẽ cảm nghiệm được sức thu hút và hấp dẫn của Thiên Chúa, để rồi khi trở về đời sống và các mối quan hệ hàng ngày sẽ có một tâm hồn được canh tân, biến đổi, và mang theo hương thơm của Đức Kitô[5].

Chúng ta cũng vừa bước vào Mùa Chay thánh, mà ĐTC Phanxicô định nghĩa là “một điểm ngoặt có thể tạo thuận lợi cho từng người trong chúng ta thay đổi, hoán cải: trở nên tốt lành hơn, thay đổi hướng lên cao, thay đổi cho sự thiện[6]; đặc biệt trong sứ điệp Mùa Chay 2015 này “Chúa không dửng dưng với chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều có chỗ trong lòng của Ngài, Ngài biết đích danh chúng ta, chăm sóc và đi tìm chúng ta mỗi khi chúng ta bỏ Ngài. Chúa quan tâm đến mỗi người chúng ta; tình yêu không cho phép Ngài dửng dưng với những gì xảy đến với chúng ta”, nên trong mấy ngày này, chúng ta sẽ dành nhiều thời giờ riêng tư hơn để ngắm nhìn ơn Chúa hoạt động, uốn nắn, đổi mới cuộc đời chúng ta; để chiêm ngưỡng lòng nhân hậu của Chúa hằng nâng chúng ta dậy; để lắng nghe Chúa thổ lộ tình yêu và lặp lại lời mời gọi chúng ta theo Ngài, tiến bước trên con đường hướng tới chức linh mục; để kiểm điểm và thẩm định cách chúng ta đáp trả khi Chúa ngỏ lời kêu gọi chúng ta sống mật thiết hơn với Ngài; để trái tim chúng ta hoà nhịp với Thánh Tâm Chúa, hầu đưa những mối tương quan và tình cảm của chúng ta vào trong quỹ đạo và bậc thang giá trị tình yêu đối với Chúa; để nhận diện và duyệt xét lại cuộc đời ơn gọi chúng ta với những hy vọng những thất vọng, những niềm vui những nỗi buồn, những kế hoạch thành công những kế hoạch thất bại, những thánh thiện và vấp ngã tội lỗi của chúng ta; để nhờ đó chúng ta được quay trở về, bắt đầu lại, canh tân, tiếp tục hành trình, và tiến bước quyết liệt hơn từ đây.

Chớ gì trong tuần tĩnh tâm năm này, chúng ta sẽ buông mình để ơn Chúa Thánh Thần làm việc trong chúng ta, bằng cách theo sát bước chân của Ngài và ngày nào trước khi nghỉ đêm cũng dành một giờ thánh bên nhau, phần lớn thời gian là thinh lặng cùng với Mẹ Maria, cầu nguyện riêng trước Chúa Giêsu Thánh Thể được đặt ra ngoài trong hào quang, trả lời câu hỏi của Ngài với ba môn đệ thân tín trong Vườn Giếtsêmani: “Các con không thể thức được với Thầy một giờ sao?[7] Mỗi người sẽ dùng tư thế cầu nguyện mà cơ thể cảm thấy thuận tiện thoải mái nhất cho mình và không gây phiền hà cho anh em.

ĐTC Phanxicô khuyên: “Hãy để mình được Chúa nhìn… Chắc chắn Người nhìn ngắm chúng ta! Điều này rất quan trọng, vì nó sưởi ấm tâm hồn chúng ta, giữ cho ngọn lửa tình bằng hữu với Chúa được cháy mãi, làm cho chúng ta cảm thấy Người thực sự gần gũi và yêu thương chúng ta… Lúc này mỗi người có thể tự hỏi: Tôi làm thế nào để sống với Chúa Giêsu? Tôi làm thế nào để “ở lại và nghỉ ngơi” trong Người? Tôi có những giây phút im lặng ở trong sự hiện diện của Người, hoặc để cho Người nhìn tôi không? Tôi có để cho lửa của Người sưởi ấm tâm hồn tôi không? Nếu trong tâm hồn chúng ta không có hơi ấm của Thiên Chúa, không có tình yêu và sự dịu dàng của Ngài, làm sao chúng ta, là những tội nhân nghèo hèn, lại có thể sưởi ấm tâm hồn những người khác được?[8]

ĐTC giải thích rằng cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cho chúng ta can đảm để đi theo Ngài. Cái nhìn của Chúa Giêsu luôn nâng chúng ta dậy, không bao giờ để chúng ta lại tại chỗ của mình. Cái nhìn của Chúa mời gọi chúng ta đứng dậy, làm chúng ta lớn lên, tiến về phía trước, một cái nhìn khích lệ chúng ta. Cái nhìn của Chúa Giêsu làm cho chúng ta cảm thấy Ngài yêu thương chúng ta, như những người thu thuế và tội lỗi đã trải nghiệm: “Họ cảm thấy rằng Chúa Giêsu đã nhìn họ và cái nhìn của Ngài trên họ giống như một hơi thở trên than hồng, và họ cảm thấy như có lửa trong bụng, làm cho họ đứng lên, trả lại cho họ phẩm giá… Chúa Giêsu biết rõ lòng họ: Bên dưới bùn đất đó có than hồng khao khát Thiên Chúa, than hồng giúp họ được cháy nóng trở lại[9]. Chớ gì tất cả chúng ta đều được cái nhìn đó của Chúa Giêsu biến đổi.

Trong thời khắc trầm lắng này, Chúa Giêsu Thánh Thể dường như thì thầm lặp lại lời mời gọi “Hỡi tất cả những ai vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho, và tâm hồn các con sẽ được bình an[10]. Chúng ta hãy trao trút cho Ngài, không chỉ gánh nặng trên thân xác, mà nhất là gánh nặng trên tâm hồn, trên lương tâm, để Ngài tha thứ và đỡ nâng chúng ta: “Con đừng để quá khứ làm mờ mịt hiện tại. Hãy đứng dậy, nhắm phía trước mà cất bước, tiến tới, không nuối tiếc, không rầu rĩ… Hãy nối gót theo sát Ta, vì Ta là Chúa của tương lai… Hãy cất bước,  hãy ra chỗ nước sâu, Ta sẽ dẫn con vượt xa những mong đợi của con… để rồi con càng theo Ta quyết liệt hơn nữa”.

Chúng ta sẽ không quá bận tâm đến thời gian, không nóng lòng xem đồng hồ. Chúng ta sẽ thư thả hỏi Chúa và lắng nghe Chúa, nhưng kỳ thực là tự hỏi lòng mình và trả lời cho chính mình, vì không phải lúc nào Chúa cũng nói điều chúng ta muốn nghe, mà là điều thực sự thiết yếu: “Lạy Chúa, con có yêu Chúa thật lòng và trên tất cả mọi người mọi vật trong bậc thang giá trị không? Chúa nghĩ gì về con và Chúa có bằng lòng về cách con sống ơn gọi không? Chúa muốn con phải biến đổi và điều chỉnh những gì cho cuộc đời và ơn gọi linh mục của con trong định hướng Tân Phúc Âm Hóa?

Quả vậy, trước khi muốn nói về Chúa và đem Chúa cho người khác thì chúng ta phải nói với Chúa, có Chúa và để được Chúa chiếm hữu đã, vì không ai có thể cho cái mình không có. Làm được như thế, một giờ sẽ trôi qua rất nhanh. Chúng ta cùng ký thác cho lòng nhân hậu của Thánh Tâm Chúa Giêsu, ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, sự trợ lực hiền mẫu của Mẹ Maria, và gương sáng thúc đẩy của thánh quan thầy để tiếp tục lên đường, dấn bước theo sát Đấng đã kêu gọi mỗi người chúng ta từ bao thời gian xa trước, cho đến hôm nay và mãi mãi về sau, Ngài hằng ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Nhờ lời cầu bàu mạnh thế của Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến kiện toàn ơn tĩnh tâm mà Ngài đã thương khởi sự với chúng ta và cho chúng ta, để chúng ta có thể lắng nghe tiếng của Chúa Giêsu, chỉnh sửa lại rất nhiều khiếm khuyết của chúng ta, cũng như để chúng ta có thể đương đầu với các chước cám dỗ tấn công chúng ta hằng ngày. Amen.

GIỜ THÁNH KHAI MẠC TĨNH TÂM

CƠ HỘI SÁM HỐI NÊN THÁNH

 

1. Hát Kinh Chúa Thánh Thần

Đặt MTC lên hào quang

Hát một bài kính Thánh Thể

2. Thinh lặng vài phút

3. mp3 giờ thánh khai mạc

4. Hai Thầy thay phiên đọc:

    Mười Lời Khuyên Hữu Ích Khi Chầu Thánh Thể

a. Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện với chúng ta. Hãy mở tâm hồn ra cho Ngài vào tận trong miền sâu thẳm nhất của hữu thể chúng ta.

b. Hãy tạo cho tâm hồn mình thật yên lặng. Hãy làm cho mọi tiếng nói khác im lặng, đừng đuổi theo những tư tưởng vô bổ, đừng khư khư giữ chặt những vấn đề, những bận tâm, những lo âu. Hãy tin tưởng phó thác tất cả cho Chúa, Ngài hằng quan tâm chăm sóc chúng ta.

c. Hãy chăm chú hướng mắt nhìn vào Thánh Thể. Hãy để con tim lên tiếng nói và dục lòng yêu mến Ngài, Đấng đã yêu ta trước.

d. Đừng để miệng đọc mà tâm không suy. Hãy đi vào lời cầu nguyện của trái tim. Hãy chọn một lời nguyện tắt, âm thầm lặp đi lặp lại với tất cả tâm tình thiết tha, như “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” – “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa.” – “Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ở với con.” – “Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.”

e. Hãy cảm tạ Chúa với tất cả tâm tình biết ơn, về những gì đang có, đang là, thay vì cứ ray rứt về những thiếu sót, tội lụy, lầm lỗi. Hãy tạ ơn Chúa về cả những ơn Chúa sẽ ban cho sau này nữa.

f. Người mệt mỏi, chia trí, hãy can đảm lên, vừa chớm thấy mệt mỏi chia trí, hãy thầm thì lại lời kinh của trái tim, tức lời nguyện tắt. Xin Chúa Thánh Thần là người thầy nội tâm trợ giúp sự yếu đuối của ta.

g. Chúa Giêsu đang ở trên bàn thờ. Ngài muốn đến ở trong lòng ta. Hãy di chuyển từ ta sang Chúa, từ ý muốn thực hiện ý muốn và kế hoạch của ta sang khao khát đón nhận ý muốn và kế hoạch của Chúa.

h. Chúa Giêsu đang vinh hiển ngự trong hào quang. Hãy đón nhận ánh sáng phát ra từ Nhan thánh Ngài, để ánh sáng Ngài xuyên thủng bóng tối vây bọc hồn ta, phá tan mọi bóng u ám trong ta, như mặt trời sưởi ấm và làm tan băng giá.

i. Ngài ẩn mình dưới hình bánh đơn sơ nghèo nàn. Hãy học biết đón nhận sự nghèo nàn vật chất, tinh thần, thiêng liêng của ta, cũng như của anh em.

j. Mẹ Maria đang thinh lặng ở bên ta. Mẹ đưa dẫn ta vào thâm cung của lòng ta, nơi Chúa đang ngự trị. Mẹ sẽ giúp ta, khi thinh lặng nhìn ngắm Chúa Giêsu, sẽ khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, và có thể cảm nghiệm lời thánh vịnh: “Ai đưa mắt nhìn về Chúa sẽ chiếu sáng, khuôn mặt sẽ không vương tăm tối ưu phiền”[11].

            5. Thinh lặng cầu nguyện riêng 5 phút

6. Phép Lành MTC như thường lệ

7. Kinh Tối

 

(2)

Phần Một

NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ GIẢI PHÁP CHO  VIỆC SỐNG ƠN GỌI TRONG BỐI CẢNH
GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI HÔM NAY

 

Trọng kính Đức Cha và Quý Cha,

Kính thưa các Thầy,

ĐTC Phanxicô đã nói: “Đừng sợ hãi, đừng lừa dối cuộc sống, mà chấp nhận đời sống thực tại như đang xẩy ra và tìm biện pháp giải quyết, phải đương đầu ngay và Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Hãy đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, cả những lúc khó khăn tăm tối nhất của đời sống. Chúng ta có thể lầm lẫn, nhưng Chúa mãi ở bên chúng ta và nhắc cho chúng ta hãy trở lại bước đi cho đúng đường”[12]. Muốn Tân Phúc Âm hóa thật tốt đời sống ơn gọi trong bối cảnh Giáo Hội và xã hội hôm nay, chúng ta cần nhìn thẳng vào thực tại, bên cạnh những điểm son vẫn còn có những chấm đen, bên cạnh bao nhiêu điều tốt lành cũng có những khủng hoảng nhập nhằng trong cuộc sống được đào tạo và tự đào tạo của chúng ta, để từ đó vận dụng ơn tĩnh tâm mà kiểm điểm vượt lên và tái định hướng đời sống ơn gọi của chúng ta hôm nay trong Chủng viện, cũng như sứ vụ linh mục của chúng ta mai ngày trong các môi trường mục vụ dưỡng giáo và truyền giáo, mà Giáo Hội sẽ kỳ vọng trao phó cho chúng ta.

 

I

 BỐI CẢNH SỐNG CỦA CHÚNG TA
TRƯỚC KHI VÀO CHỦNG VIỆN

 1. Những thực trạng đáng lo ngại

Chúa kêu gọi và tuyển chọn một con người từ trong hoàn cảnh sống cụ thể của mình. Vậy môi trường sống cụ thể tại Việt Nam hôm nay của chúng ta từ khi muốn theo đuổi lý tưởng linh mục như thế nào? Nó có còn tiếp diễn và kéo dài cho đến bây giờ nữa không?

Có một cái gì đó gây sốc và đánh thức chúng ta khi đọc những kết luận giật mình được công bố trong cuộc Hội thảo “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta hiện nay” do Hội Khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam tổ chức[13]: Càng lên cao, người trẻ càng “hư”, như tỷ lệ quay cóp: có tới 8% học sinh tiểu học đã quay cóp, lên bậc THCS và THPT nhảy vọt tới 60% và đến bậc ĐH, CĐ thì đến 69%; tỷ lệ nói dối: có tới 22% học sinh Tiểu học nói dối cha mẹ, lên bậc THCS và THPT thì tới gần 64%, và ở bậc ĐH, CĐ có đến hơn 80% sinh viên sẵn sàng nói dối để qua mặt phụ huynh; Tỷ lệ thiếu niên phạm pháp cũng ngày một tăng cao; Nạn ma túy học đường ngày càng trở thành vấn đề nhức nhối.

Đáng lo hơn nữa là phong cách sống đạo đức của học sinh, sinh viên ngày càng “có vấn đề”: Kết quả cuộc điều tra khảo sát trên cho thấy 51,4% sinh viên cho rằng “sống thử trước hôn nhân là hiện tượng phổ biến” và được coi là “bình thường”[14]* [x. Hiện tượng “sinh viên tầm gửi”, “tình nhà trọ” và từ đó nạn phá thai ngày càng gia tăng, cả trong giới thiếu nữ vị thành niên, và thật đáng buồn là Việt Nam được xếp hạng nhất thế giới].

Tình trạng đen tối đó có những nguyên nhân như là: Nhà trường nặng về dạy chữ mà nhẹ về dạy người, chỉ lo truyền giảng kiến thức mà không chú trọng uốn nắn chỉnh sửa những sai trái của học trò, và đáng buồn là nhiều thầy cô đã không sống gương mẫu; gia đình buông lỏng việc quản lý giáo dục con cái, để trẻ ngày càng tách khỏi thế giới thực và bị cuốn hút vào thế giới ảo bởi những trò chơi bạo lực ly kì, phim ảnh nóng hấp dẫn trên mạng; việc giáo dục đạo đức trong nhà trường các cấp còn nhiều bất ổn: nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng sống, không tạo được dấu ấn và điều kiện thuận lợi để hình thành nhân cách cho học sinh; tác động của nền kinh tế thị trường và sự hấp dẫn của đời sống đô thị đã làm cho các giá trị đạo đức truyền thống bị xâm hại và mai một, nhiều yếu tố xấu tác động trực tiếp đến nhân cách đạo đức của con em, vì cha mẹ bận lo làm ăn kiếm sống, hoặc chạy theo đồng tiền ham làm giàu mà bỏ bê con cái.

Người trẻ càng lớn càng hư vì nhiều năm phải thụ hưởng một nền giáo dục nhồi nhét, áp đặt, giáo điều ý thức hệ, khô cứng, không tôn trọng thật sự, gian dối, giấu diếm, vốn là hệ quả của một xã hội thiếu vắng Thiên Chúa: cái gì không bắt được quả tang kể là vô tội, dù là dân sự hay hình sự. Những tiêu cực và gương xấu của những người có trách nhiệm trong xã hội càng làm băng hoại người trẻ, như sự xuống cấp đạo đức, tệ nạn sử dụng bằng giả tràn lan trong mọi lãnh vực xã hội, tình trạng bất công và tham nhủng trở thành một quốc nạn… Điều đáng quan ngại là hệ quả này cũng len lỏi vào cả trong đời sống tôn giáo. HĐGM Việt Nam đã nhận định: Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc không thể không quan tâm đến tình trạng này… Do đó, việc giáo dục đạo đức và lương tâm phải là trách nhiệm hàng đầu của toàn xã hội, và cần đến sự tham gia tích cực của người dân cũng như các tổ chức xã hội.[15]

Cuộc sống đức tin, nhất là đời sống ơn gọi, luôn là lối đi ngược dòng với xu hướng thời đại của nền văn minh sự chết, buông thả luân lý và hưởng thụ khoái lạc. Tuy nhiên, sống trong một bối cảnh xã hội như thế, chắc chắn các thanh thiếu niên nam nữ Công giáo, kể cả các dự tu nam nữ trong thời gian tìm hiểu ơn gọi và đi học ở ngoài xã hội, cũng không thể không chịu ảnh hưởng, như sẽ trình bày trong bài Tình bạn khác phái của ứng sinh/linh mục sau đây. Do đó, Huấn Thị “Những chỉ dẫn về việc huấn luyện…” của Bộ Tu sĩ nói rõ hơn và mạnh hơn rằng: “Thường có sự chênh lệch giữa những kiến thức đời, đôi khi rất chuyên môn, với sự tăng trưởng tâm lý và đời sống kitô. Họ chịu ảnh hưởng của một xã hội tiêu thụ cùng với những thất vọng của nó. Khi đạt tới một địa vị xã hội, đôi khi rất vất vả, một số đã bị băng hoại do bạo lực, ma túy và dâm ô… Trong số những ứng sinh vào đời tu, càng ngày càng có không ít thanh niên đã có những kinh nghiệm thương đau trong lãnh vực vừa kể trên, đòi phải được thanh lọc và uốn nắn lại[16]. Chắc một số người trong anh em chúng ta cũng có kinh nghiệm bản thân!

2. Đi tìm giải pháp thích đáng

Người có trách nhiệm trước nhất và cao nhất trong việc tuyển chọn và đào tạo linh mục là Giám Mục giáo phận. Nhưng trong chiều kích Giáo Hội tham gia, Ngài ủy nhiệm cho một số nhà đào tạo đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, làm thành Ban Giám Đốc và Ban Giảng huấn Đại Chủng viện, cộng tác với Ngài để đồng hành với các ứng sinh, tiệm tiến thẩm tra phẩm chất, giúp ứng sinh biện phân ý Chúa và thực thi ý Chúa, bảo đảm cho ứng sinh là anh được Thiên Chúa kêu gọi, mời gọi anh tham gia vào việc đào tạo chính anh bằng việc tự đào tạo chính mình, và sau cùng, do lời giới thiệu của Hội đồng Chủng viện, chính việc Giám Mục Bản Quyền gọi chịu chức xác nhận ơn gọi đích thực của Chúa đối với anh.

Nhưng trên con đường đi đến đích điểm đó, mọi thành phần Dân Chúa, biệt là các cha xứ, cũng có trách nhiệm như Giáo Luật dạy: “Toàn thể cộng đồng kitô giáo có bổn phận phải cổ động các ơn gọi để đáp ứng đủ những nhu cầu thừa tác vụ thánh trong toàn thể Giáo Hội. Bổn phận này bó buộc cách riêng các gia đình, các nhà đào tạo, đặc biệt là các giáo sĩ, nhất là các cha sở, trong việc chuẩn bị thích đáng cho những người nam đứng tuổi cảm thấy mình được gọi vào thừa tác vụ thánh.[17]

Chính các ứng sinh chúng ta cũng phải quan tâm đến các mối liên hệ xã hội và đời sống độc thân thanh khiết trước khi vào Chủng viện[18], cũng như cân nhắc thái độ của chúng ta đối với giới tính và khả năng sống độc thân thánh hiến[19], nhận ra lý tưởng cao cả của chức linh mục cùng những yêu sách tất nhiên của nó ở trong Giáo Hội, hầu kiên trì sử dụng mọi phương thế tự nhiên và siêu nhiên để gìn giữ và tự bảo vệ trong mọi mối tương quan nhân loại, nhất là tương quan khác phái, hầu được xứng hợp theo đuổi lý tưởng ơn gọi cho đến cùng; đồng thời cũng phải xem mình có ngăn trở Giáo luật nào không.[20]

Người trẻ ngày nay trưởng thành sớm về mặt sinh học,[21] nên chuyện tình cảm yêu đương không thể tránh. Chúng ta cần hiểu và sống tốt nguyên vẹn cuộc đời mình trước khi đi vào lựa chọn đời sống hôn nhân hay đời sống linh mục đúng như Chúa muốn và Giáo Hội dạy. Đồng thời cũng phải thẳng thắn nhìn nhận những cản trở và chiến đấu không thể vượt qua được để lượng sức mình mà đổi hướng sớm, không cần đợi đến lúc bị phát hiện hay bị tố cáo, vì con đường linh mục không phù hợp cho mình[22].

Đối với người Việt Nam chúng ta, lãnh vực tính dục rất tế nhị, các nhà đào tạo cần dành nhiều thời giờ nhẫn nại lắng nghe và khả tín, hầu ứng sinh dễ dàng bộc lộ đến tầng sâu của lòng mình đúng sự thật, không lo sợ và co mình lại hoặc nói dối, kẻo một lần đã nói dối thì họ sẽ có khuynh hướng nói dối mãi, dù biết rằng sẽ phải trả giá rất đắt khi lời nói dối bị vạch trần. Vì thế, chúng ta cần đối mặt với những gì đã xảy ra cho mình và giải quyết chúng, với sự giúp đỡ của các nhà đào tạo, nhất là vị linh hướng. Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài, kể cả khi Hội đồng Chủng viện họp nhận xét để cất nhắc hay loại bỏ. Tương quan linh hướng là tương quan tương tác khép kín tay ba giữa Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng. Việc này vừa bảo vệ người thụ hướng, vừa cống hiến cho anh sự an toàn và tín nhiệm. Chính niềm tín nhiệm và bảo đảm này mang lại sự chữa lành tận gốc. Có thế thì sự chọn lựa đời sống linh mục có hướng dứt khoát ngay từ đầu, để tiến trình được đào tạo và tự đào tạo được thanh thản và hiệu quả. Ngay trong tai họa lạm dụng tình dục trẻ em khiến lập trường Giáo Hội trở nên cứng rắn hơn và yêu cầu tích cực hợp tác với thẩm quyền dân sự thì ấn tòa giải tội vẫn phải được tuyệt đối tuân giữ, cha giải tội không được tố cáo người đến xưng thú phạm tội ấu dâm.[23]

Nếu chỉ là chuyện tình cảm và tình yêu thì chúng ta nên dần dần chấm dứt đi, một khi đã chọn lựa đời tu. Nếu lỡ có chi hơn thế mà không đến đỗi mắc ngăn trở Giáo Luật thì càng phải cương quyết chấm dứt, triệt để biến đổi lật sang trang đời mới, không nuôi dưỡng đèo bồng du dưa nữa. Kể cả hai bên đều cùng đi tu thì phải biến đổi và thăng hoa nó lên, để tránh những hệ lụy “người xưa cảnh cũ” sau này, khi đã có quyền, có khu vực riêng bất khả xâm phạm, chẳng ai trông thấy hay kiểm soát. Tốt nhất là không nên tìm cơ hội gặp gỡ riêng tư với người tình cũ, vì không thể là bạn bình thường sau chia tay bạn tình, vì cảm giác thuộc về nhau còn chưa mất đi, và điều đó khiến người ta khó lòng bỏ được nhiều thói quen “ngựa theo đường cũ”. Có phải thế không thưa anh em? Xin nhớ tiến trình con cóc tiến hóa “đứt đuôi nòng nọc[24]. Giáo Hội đã quá đau khổ, bị thiệt hại vì chuyện này và đang nỗ lực nghiêm khắc chấn chỉnh ngay từ bước tuyển lựa và đào tạo đầu tiên.[25] Tiếc là nhiều khi người ta quá chú trọng đến thi về kiến thức mà không có tuyển kỹ càng về phẩm chất đạo đức, thanh danh và những vấn đề thuộc tâm sinh lý tính dục, cũng như những cản trở Giáo luật có thể có.

Đã là con người thì ai cũng có những nhu cầu và ham muốn tự nhiên cần phải chiến đấu, nhưng tội nghiệp cho những ai “bén mùi chùi chẳng sạch” sẽ phải chiến đấu nặng nề hơn. Tuy nhiên, nếu cứ phải chiến đấu quá nặng nề và quá dai dẳng thì không nên tiếp tục, vì sẽ khổ cho mình và cho nhiều người khác sau này, thiệt hại cho công cuộc dưỡng giáo và truyền giáo của Giáo Hội. Mỗi ứng sinh chúng ta phải tự hỏi và trả lời cho chính mình: “Chúa có muốn con làm linh mục không? Nếu con làm linh mục, có gì nguy hại cho con, cho người khác và cho Giáo Hội không?

Chuyện gì làm riêng tư một mình thì có Chúa biết. Nhưng chuyện gì làm giữa hai người thì rồi ra người khác cũng sẽ biết, không biết được hôm nay thì mai kia cũng sẽ biết. Có thể vì nhân đạo, họ không nói hoặc chưa nói đó thôi. Ứng sinh chúng ta nên nhớ rằng những người thương mình và bảo vệ Giáo Hội sẽ không chấp nhận thái độ nước đôi đó đâu, họ sẽ can thiệp để ngăn chặn. Những người ghét mình hay gia đình mình sớm muộn gì cũng sẽ tố cáo, vì Giáo Luật buộc tín hữu phải trình báo với Đấng Bản quyền về người có những ngăn trở để nhận lãnh chức thánh.[26] Và ngay chính người con gái ấy cũng sẽ không giữ kín mãi đâu. Nàng có thể chấp nhận mất người yêu cho Chúa và Giáo Hội, chứ không chịu mất trong tay một hay nhiều cô gái khác, và rồi chính nàng sẽ làm ra chuyện, vì muốn dành lại cho mình hoặc “không ăn được thì đạp đổ!” Nếu cả đôi bên đều cùng đi tu thì tới một lúc nào đó lương tâm thức tỉnh bên nữ sẽ bộc bạch hết với người có trách nhiệm, dù có dặn nhau “sống để dạ thác mang theo,” hoặc biểu lộ ra qua thái độ muốn chiếm hữu – ghen tuông – độc quyền.

3. Con đường ứng sinh chọn đi

Như trên đã nói, tình yêu có thể đến trong tương quan nam nữ và có thể phát triển đi đến hôn nhân là lẽ bình thường. Nhưng nếu khám phá rằng đó không phải là lối sống và ơn gọi của mình thì chúng ta có thể chia tay để đi đúng định hướng và ơn gọi của cuộc đời mình như Chúa đã an bài. Có nhiều lối chia tay:

Cả hai đồng thuận: Cả hai đồng thuận chia tay, không ai bỏ ai, không ai níu kéo ai. Cuộc chia tay diễn ra khi hai người hoàn toàn thông cảm với nhau: hoặc vì phải trải qua một bước ngoặt trong đời như vì lý tưởng, hoặc cảm thấy không thể duy trì một mối tình “ngõ cụt” như thế. Đừng tưởng khi quyết định đường ai nấy đi, người trong cuộc không cảm nhận đau khổ, mất mát, tùy mức độ và thời gian gắn bó… Lời khuyên cho người trong cuộc là hãy để thời gian giúp chữa lành.

Tan vỡ vì lạm dụng: Một mối quan hệ trong đó có lạm dụng hay lợi dụng tự nó đã mang dấu hiệu dự báo về cuộc chia tay sẽ xảy ra. Nhưng khi điều đó xảy ra, dù là cần thiết, người trong cuộc vẫn cảm thấy đau đớn. Nguời khác có thể không hiểu nổi tại sao bạn vẫn yêu và nhớ nhung kẻ đã xử tệ với bạn. Có lúc bạn muốn gọi điện hay gặp lại, nhưng xin đừng, vì làm vậy chỉ thua thiệt cho bạn thôi, không nên tiếp tục sự tự mâu thuẫn đó.

Người ta bỏ bạn: Rơi vào kiểu chia tay này, ngoài đau đớn ra còn bị sốc, thậm chí ôm một vết thương rất lâu mới có thể lành. Hãy xóa số điện thoại của người ấy để ngăn bạn gọi điện. Cố gắng giải tỏa tâm trí, thanh thản vượt lên cho một khởi  đầu mới.

Bạn bỏ người ta: Bạn đã mất thời gian cân nhắc và quyết định nói lời chia tay, nhưng một khi nói ra rồi lại thấy mất mát và tiếc nuối. Cần biết rằng rất nhiều người tiếc nuối ngay sau khi chia tay, nhưng đó chỉ là một giai đoạn nhất thời. Hãy để quá khứ ngủ yên.

Không gây hiểu lầm cho người yêu cũ: Sau khi chia tay, cả hai đều nói “coi nhau như là bạn bình thường.” Điều đó không luôn luôn dễ dàng, và thậm chí không thể, vì “tình cũ không rủ cũng tới” và “bén mùi chùi chẳng sạch.” Nếu không muốn “người xưa” hiểu lầm mà nghĩ rằng mình còn tình cảm và muốn quay lại với người ta thì đừng có liên lạc nữa. Làm như vậy sẽ gây hại cho cả đôi bên. Tình yêu có thể đến sau tình bạn, nhưng tình bạn không thể có sau tình yêu, vì thuốc uống chỉ hữu ích trước khi chết chứ không thể sau khi chết. Thật khôi hài, ảo tưởng và ngụy biện thay những kẻ đã quan hệ thân xác rồi phải chia tay mà còn du dưa lui tới, lại bảo rằng chúng tôi coi nhau như là “bạn bình thường”! Không thể có thứ tình bạn đơn thuần trong trường hợp này, vì như trên đã nói, cảm giác thuộc về nhau còn chưa mất đi, cùng với những thói quen cũ. Nếu đã có cái gì đó rất sâu đậm với nhau, thì nên tự động rút lui, đừng để Bề Trên phải can thiệp sa thải[27].

Cũng đừng giữ quan hệ và tiếc nuối mở đường cho sự ngoại tình có thể khi có dịp như kiểu: “Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân, nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, em có chồng anh tiếc lắm thay! – Ba đồng một mớ trầu cay, sao anh không hỏi những ngày còn không, bây giờ em đã có chồng, như chim vào lồng như cá cắn câu, cá căn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết chỗ nào hở mà ra?!” Nếu anh không dứt khoát mà vẫn còn rất trân trọng kỷ niệm giữa hai người như vẫn đang trông chờ một điều gì đó nối lại là đang đi nước đôi, rất nguy hiểm: những người thương anh và lo cho Giáo Hội sẽ không chấp nhận cảnh anh chân trong chân ngoài đó; còn những người ghét anh và bảo vệ Giáo Hội sẽ tố cáo anh; và có khi chính “người ấy” sẽ tìm cách đòi lại anh (vì thái độ mập mờ của anh dường như bảo người ta chờ đợi). Cần phải dứt khoát để tự trắc nghiệm bản thân anh, và người khác cũng yên tâm là anh đã đứng lên được, hoàn toàn thay đổi và kiên trì trên con đường mới: “Đường anh anh đi, đường em em đi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi, đã quyết không mong sum họp nữa, bận lòng chi nữa lúc chia phôi[28].

Hãy để “đứt đuôi nòng nọc”: Cóc đẻ trứng dưới nước, nở ra nòng nọc. Khi nòng nọc biến thái, đứt đuôi thành cóc thì lên sống trên khô. Cóc không xuống sống dưới nước, nếu lỡ bị rơi hay bị ném xuống nước, cóc sẽ vội vã tìm cách lên khô. Sự dứt khoát đoạn tuyệt với các tình huống tình cũ cũng phải như thế. Tuy nhiên, khi tình cờ gặp lại, hãy cư xử cách tao nhã có văn hóa và cao thượng, cứ tự nhiên chào hỏi chân tình, nhưng hãy lịch sự từ chối, không nể mất lòng, yếu mềm thương hại mà nhận lời hay rủ rê người ấy đi riêng với nhau tới những nơi trước đây đã từng tới, không chuyện vãn lâu giờ, không nhắc lại những kỷ niệm và những việc đã qua. Hãy để quá khứ qua đi, và mỗi người vun đắp cho cuộc sống hiện tại của mình.

Nếu thiếu tính tự giác tự nguyện đổi hướng về phía ứng sinh, thì người nào bị phát hiện là không thích hợp, có ngăn trở Giáo luật hoặc thiếu tinh thần phục thiện và cố tình dối trá, nên mạnh dạn và nhanh chóng đưa ra khỏi con đường theo đuổi ơn gọi. Cả các nhà đào tạo lẫn ứng sinh không được phép nuôi dưỡng những hy vọng hảo huyền và những ảo tưởng nguy hiểm. Cũng đừng ai được tự phụ rằng ơn thánh sẽ thay thế cho những khiếm khuyết tự nhiên.

ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh các đặc tính của một nền đào tạo tốt cho chủng sinh: toàn diện, ý thức bổn phận, khổ chế, bền bỉ và trung thành anh dũng, thiết lập trên một đời sống thiêng liêng được kích hoạt bởi tương quan mật thiết với Chúa, ở bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn, quan tâm đặc biệt việc cử hành phụng vụ và năng lãnh nhận các bí tích, vì đời sống linh mục đòi hỏi một ý chí nên thánh ngày càng tăng trưởng, một ý thức trong sáng về Giáo Hội, một sự rộng mở với tình huynh đệ, không loại trừ mà cũng không phe cánh. Với sự trợ giúp của Chúa, linh mục tương lai phải xây dựng sự hiểu biết và dấn thân, cũng như một nền văn hoá cá nhân vững chắc, là kết quả của một sự học hỏi say mến và bền bỉ, vì đức tin có một chiều kích lý trí và hiểu biết thiết yếu.[29]

Tóm lại, việc chuẩn bị các ứng sinh thích hợp là nhiệm vụ hàng đầu của cộng đoàn Giáo phận, mà trên hết là của Giám Mục Bản Quyền và những người Ngài tin tưởng ủy thác cho công cuộc tối quan trọng này. Sự chuẩn bị nhắm đến việc tiếp nhận các ứng sinh vào chủng viện, qua việc đào tạo, phân định, nhận xét, đánh giá, tuyển chọn và thúc đẩy một sự tự nguyện cam kết cho tiến trình tự biến đổi và dấn thân cho sứ vụ.[30] Việc đào tạo ở chủng viện tùy thuộc vào phẩm chất của các ứng sinh đã được nhận vào. Phẩm chất của đầu vào quyết định phẩm chất của đầu ra. Chúng ta hãy ý thức điều đó và cống hiến sự cộng tác hữu hiệu của chúng ta.

 

(3)

II

 TÌNH BẠN KHÁC PHÁI
CỦA ỨNG SINH/LINH MỤC

 1. Đặt vấn đề

Do hoàn cảnh cuộc sống, bên cạnh các bạn đồng giới, các ứng sinh có nhiều bạn là con gái, thậm chí có một số ứng sinh có bạn gái nữa. Vậy chủng sinh/linh mục có thể có tình bạn khác phái không? Nếu Chúa Kitô đã đón nhận một số phụ nữ, cho họ cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ nhân loại, thì tương quan đó đã được Thiên Chúa phê chuẩn, và Chúa Giêsu trở thành mẫu gương hoàn hảo của tình bạn khác phái của người sống đời độc thân thánh hiến. Mẫu gương sống động về tình bạn của Chúa Giêsu với phụ nữ được họa lại rõ nét trong đời sống của nhiều vị thánh[31]. Và mẫu gương của Chúa Giêsu vẫn còn có giá trị cho những người theo Ngài, trong tất cả mọi chiều kích nhân bản và thiêng liêng của đời sống và sứ vụ ơn gọi. Như vậy, chúng ta có thể có bạn khác phái, nhưng phải khôn ngoan và cẩn trọng rất nhiều, phù hợp với phong cách và bối cảnh đời tu. Vì một điều rất rõ ràng là sự yếu đuối và những nguy hiểm đã không đe dọa Chúa Giêsu, lại có thể đe dọa những người nam và người nữ sống đời thánh hiến trong những liên hệ như vậy.

Chúng ta đừng bao giờ quên rằng mọi thân xác đều mang giới tính và bất cứ tương quan nam nữ nào cũng có yếu tố phái tính, thậm chí cả trong tương quan máu mủ và thiêng liêng mà thánh Phaolô khuyến cáo là ‘khởi đầu trong tinh thần nhưng lại kết thúc trong xác thịt’, và không ai được cả dám tự phụ cho rằng mình mạnh và sẽ không bao giờ bị vấp ngã! Quà tặng độc thân thánh hiến có thể bị nguy hiểm, nhất là trong quan hệ độc hữu, khi mà một người nam đơn độc ở với một người nữ đơn độc hay ngược lại, lâu giờ trong một nơi kín đáo cửa khóa then cài, chẳng ai biết chẳng ai trông thấy, mà không có bất cứ khoảng cách nào về thể lý, tâm lý và thiêng liêng, nhất là ý thức về sự hiện diện thường hằng của Chúa[32].

Người đi tu không có sự quân bình tự nhiên của người sống đời đôi bạn theo nguyên lý bổ túc âm dương, nên phải thiết lập và sống cho được thế quân bình siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện, mật thiết với Chúa, thắm tình huynh đệ, tận tụy với sứ vụ, cảnh giác toàn bộ cách ứng xử và cảm xúc của mình, ý thức rằng mình “gìn giữ kho tàng ấy trong những chiếc bình sành” dễ vỡ.[33] Sự thiếu quân bình cộng với những khó khăn thử thách đau khổ, sự yếu đuối nhân loại bên trong và những cám dỗ lôi cuốn từ bên ngoài, khiến người ta có khi đi tìm sự quân bình tự nhiên kia mà vấp ngã. Kinh nghiệm cho thấy những người thất bại trong sứ vụ, gặp thử thách buồn phiền, chán nản thất vọng, lại bỏ đời sống cầu nguyện, thiếu tình huynh đệ cộng đoàn và bỏ bê bổn phận, sớm muộn gì cũng sẽ sa ngã, bỏ cuộc, vì mất hướng.

Do đó, cần phải thiết lập mối tương quan trưởng thành, hài hòa và quân bình giữa cả hai phái. Người ta nên tốt hay không đều do các mối tương quan của họ. Ngoài ra, đừng để mình rơi vào những hoàn cảnh bi đát, và cũng đừng làm cho ai phải buồn phiền quá đỗi. ĐTC Biển Đức XVI khuyên “Hãy mạnh mẽ củng cố tình bạn của chúng ta với Chúa, nhất là qua lời cầu nguyện thường ngày, chăm chú trung thành và tích cực tham dự Thánh Lễ.” “Thánh Thể là một hồng ân tình yêu phi thường mà Thiên Chúa liên tục canh tân trong chúng ta, để dưỡng nuôi cuộc hành trình đức tin của chúng ta, tiếp thêm sức mạnh cho niềm hy vọng của chúng ta là khơi dậy tình bác ái của chúng ta để ngày càng trở nên giống Người hơn.”[34]

2. Tương quan với người nữ[35]

a. Với người nữ nói chung: Trợ Lực hay là Vấn Đề?

Theo sách Sáng Thế[36] và quan niệm Á Đông về Âm-Dương, người nam và người nữ rất hấp dẫn nhau, gắn bó với nhau, cần nhau và bổ túc cho nhau đến như không thể thiếu nhau. Người nam không thể là một con người nếu không có người nữ và ngược lại. Điều này đã khởi sự tự nhiên ở trong gia đình, ngay từ thời niên thiếu, và sự sống quân bình cả nhân bản và thiêng liêng vẫn tiếp tục trải ra và phát triển. Chúng ta thấy điều đó trong câu chuyện hư cấu của Huguette về Truyền thuyết tạo dựng người nữ:Vào thuở tạo thiên lập địa, khi Thiên Chúa quyết định sáng tạo người nữ, Người thấy rằng Người đã tận dụng tất cả các chất liệu cứng chắc để tạo người nam, nên Người chẳng còn gì nữa. Trước tình thế lưỡng nan này và sau khi ngẫm nghĩ dài lâu, đây là điều Người đã làm: Người lấy dáng đầy đặn của mặt trăng, những đường cong mềm mại của các làn sóng, sức gắn bó dịu dàng của dây bìm bìm, chuyển động rung rinh nhè nhẹ của các cành lá, dáng vẻ thanh nhã của thân cây dừa, màu sắc tinh tế của các bông hoa, ánh mắt si mê của con nai vàng, dáng e ấp của con chim gáy, vẻ kiêu kỳ của con công, sự mượt mà của bộ lông thiên nga, tính rắn chắc của kim cương, nét dịu dàng của con bồ câu, tính tàn bạo của con hổ, sức nóng cháy của lửa, sự giá buốt của tuyết, và Người pha trộn các chất liệu rất khác nhau đó lại mà tạo ra NGƯỜI NỮ. Rồi Người đưa nàng đến tặng cho người nam. Một tuần sau, người nam đến thưa với Người: Lạy Chúa, thọ tạo Ngài đã ban cho con làm con rất khổ. Nàng cứ bắt con phải quan tâm đến nàng, nàng không chịu rời con ra, nói thì huyên thuyên mà hơi chút là khóc, nàng cứ thích hành hạ con, nên con xin trả nàng lại cho Ngài, vì con không thể sống chung với nàng. Thiên Chúa trả lời “Được”, rồi Người lấy người nữ lại. Một tuần sau nữa, người nam trở lại thưa với Người: Chúa ơi, con cảm thấy cô đơn quá, kể từ ngày con trả lại cho Ngài thọ tạo Ngài đã làm cho con. Nàng đã ca hát và vui đùa bên con, nàng đã từng nhìn con thật âu yếm, ánh mắt nàng như mơn trớn vuốt ve, nàng đã cười và tiếng cười của nàng nghe như tiếng nhạc, nhìn nàng thấy nàng đẹp quá, mà vuốt ve nàng thì thật êm ái. Xin trả nàng lại cho con, vì con không thể sống không có nàng”.

Sự việc cũng như thế với chúng ta và người nữ, nữ tu hay nữ giáo dân. Trong những mối tương quan này, có nhiều phương diện của cuộc sống thật ý nghĩa, đẹp đẽ và có nhiều công việc thật tuyệt vời. Tuy nhiên, họ không luôn luôn là trợ lực, nhưng lắm khi cũng là vấn đề và sa lầy không lối thoát cho một số ứng sinh linh mục, ngay cả cho một số linh mục. Có khi vì một người đàn bà mà một số linh mục đã từ bỏ thừa tác vụ, nhất là trong bối cảnh tục hóa, vật chất, hưởng thụ khoái lạc, phim sex và nhục dục, lấy cái tôi cá nhân chủ nghĩa làm trọng tâm, thay vì Chúa Kitô. Vì thế, đời sống độc thân khiết tịnh cần được bảo vệ cách ý thức bằng việc đặc biệt giữ cảnh giác cảm xúc và toàn bộ cách cư xử. Một lối sống phù hợp với chức linh mục không thể được phát triển, nếu ứng sinh dấn thân vào một mối quan hệ độc hữu với một phụ nữ.

b. Tương quan với nữ tu: cần khôn ngoan và tỉnh thức

Chúng ta hãy giữ trong trí óc và tâm hồn sự lệ thuộc của chính mình, cũng như sự lệ thuộc của các nữ tu đối với Chúa, và luôn ý thức phải “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”[37]: Cái đã cho rồi, không lấy lại mà cho người khác! Một lần đã quảng đại dâng hiến thì hãy cố gắng quảng đại cho đến cùng. Nhưng do lý tưởng hiến dâng và môi trường mục vụ chung, chúng ta và các nữ tu có thể có mối tương quan thân mật, bằng sự cởi mở, hiểu nhau và chia sẻ sứ vụ, những thành công cũng như những khó khăn thất bại, tin tưởng nhau, cảm thông nhau, quan tâm đến nhau. Và chính từ sự thân mật này, một cảm nhận “yêu thương” có thể dễ dàng phát sinh và phát triển, rồi tình trạng có thể trở nên nguy hiểm hơn, với những hình thức được bộc lộ ra theo tiến trình muốn chiếm hữu – ghen tuông – và độc quyền, là những cái gây ra rất nhiều phiền hà và tai tiếng. Nhiều trường hợp còn đi xa hơn trong chiều hướng tiêu cực. Những hình thức này càng dễ nhìn thấy bộc lộ nơi các cô bếp hay những nữ tu trẻ đẹp phục vụ và ở luôn trong nhà xứ. Và cũng phải kể đến những người nữ cùng làm việc tông đồ trong ca đoàn, các đoàn hội, hay ân nhân, bảo trợ, mạnh thường quân, với dữ kiện tâm sinh lý hấp dẫn tính dục: Không ai cho cái gì mà cho không cả, và nhiều khi ân đòi được trả bằng tình! Đừng quên nhận định bao đời của tiền nhân “lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy”! Không ai trách lửa tại sao đốt cháy rơm, và cũng không ai trách rơm tại sao để bị lửa đốt cháy, mà trách người đã để rơm gần lửa.

Chúng ta hãy nhớ lời khuyên tỉnh thức và cầu nguyện của Chúa Giêsu, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh nhưng xác thịt lại nặng nề yếu đuối[38]: là những con người thánh hiến, chúng ta vẫn không thôi là những con người với những ham muốn tự nhiên và những yếu đuối nhân loại. Thánh Phaolô chia sẻ: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối, có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt?”

Chúng ta cũng phải ý thức rằng sự thân mật là nhu cầu của con người, nhưng sự thân mật trong đời sống độc thân thánh hiến không cần và không được biểu lộ có tính cách thể lý phái tính với những đòi hỏi tự nhiên cùng với hoạt động truyền sinh. Sự thân mật độc thân thánh hiến có mức độ riêng biệt thích hợp của nó. Chính mức độ này cung ứng đủ tự do để người sống đời thánh hiến yêu thương nhau và yêu thương mọi người mà không vượt qua các giới hạn.

Chúng ta cũng hãy khuôn đúc các mối tương quan khác phái của mình theo gương mẫu đời sống của Chúa Ba Ngôi và kêu xin ơn can đảm để thăng tiến, vượt thắng và thánh hoá “tiếng gọi nhân loại” có thể chợt nghe vào một lúc nào đó, ngõ hầu giúp nhau sống và chu toàn những gì đã cam kết trong ơn gọi và sứ vụ của mỗi người, vì tình yêu nhiều khi không có tuổi và giờ hẹn[39]. Trong trường hợp ấy, phải biết tôn trọng năm yếu tố này: nơi chốn gặp gỡ – thời gian và thời lượng – khoảng cách thể lý và tâm lý – sự có mặt của những người thứ ba – nhất là ý thức sự hiện diện thấu suốt mọi bí ẩn của Thiên Chúa.

 Chúng ta cũng cần phải rõ ràng và thành thật với chính mình, với người khác và với Chúa, bởi vì lắm khi được che giấu dưới những cớ hợp pháp và chính đáng của các công tác và hoạt động tông đồ mục vụ, nhưng thực tế đó là cái bình phong che chắn những nghiêng chiều nguy hiểm của con tim. Và chớ gì đừng vì thế mà dại dột can thiệp giữ lại hay cản trở việc thuyên chuyển chính đáng của Nhà Dòng, nhất là khi họ muốn rút về các nữ tu vì một lý do đặc biệt nào đó để bảo vệ người của họ, mà có khi chính chúng ta là nguyên nhân.

Mỗi người đều hãy nhớ rằng người đi tu vẫn không thôi là con người: Chúng ta có thể làm cớ cho người khác vấp phạm, và người khác cũng có thể làm cớ cho chúng ta vấp phạm. Trong hoàn cảnh tế nhị này, sự hiện diện yêu thương và đời sống huynh đệ cộng đoàn sẽ mang lại sự trợ giúp cần thiết. Nói về tình bạn của thánh Phanxicô Assidi và Clara, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI dạy: “Tình bạn của hai đấng là một sức mạnh giúp theo đuổi con đường nên thánh. Cả hai vị thánh bổ túc cho nhau trong việc tìm kiếm Thiên Chúa. Cả hai đều xây dựng đời mình trên sự đòi hỏi tận căn của Tin Mừng. Tình bạn là một trong những tình cảm nhân loại cao quý nhất mà ân sủng của Thiên Chúa thanh tẩy và biến đổi.” Đức Thánh Cha cũng nói: “các vị thánh khác cũng đã sống một tình bạn sâu xa trên con đường tiến tới sự hoàn thiện thiêng liêng, như thánh Phanxicô Salê và thánh Jeanne-Françoise de Chantal”. Chính thánh Phanxicô Salê đã viết: ‘Thật đẹp thay có thể yêu mến trên trần gian như ta yêu mến trên trời, và học biết yêu thương nhau trong thế giới này như chúng ta sẽ yêu thương nhau trong thế giới vĩnh hằng. Ở đây, tôi không đơn giản nói về tình yêu đức ái, vì chúng ta phải có tình yêu này đối với hết mọi người; tôi nói về tình bạn thiêng liêng, trong khuôn khổ đó, hai, ba hay nhiều người trao đổi cho nhau những lòng sùng mộ, những tình cảm thiêng liêng và thực sự trở nên một tâm trí duy nhất’. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “Các thánh nam nữ là những ân nhân của nhân loại. Họ canh tân thế giới  bằng cách tỏa lan tình yêu được Tin Mừng gợi hứng. Như các ngài, ước gì chúng ta cũng có thể để mình được chỉ dẫn bởi ‘sự nghèo khó diễm phúc, sự khiêm tốn thánh thiện và đức ái khôn tả’ của Chúa Kitô[40]. Nhờ tình bạn dâng hiến và nhiệt tình, mỗi người có thể là sự trợ giúp lớn lao cho người khác trong việc soi sáng, chỉ bảo và khích lệ lẫn nhau, khi phải chịu đựng những hoàn cảnh nguy hại, cũng như sự lây nhiễm một thứ tinh thần thế tục nào đó. Hơn nữa, cũng đừng cả dám tự phụ quên đi cái nghịch lý mà thánh Phaolô đã trăn trở: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn…” Và ngài quả quyết “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước”[41].

Ngoài ra, chúng ta không được quên nhu cầu cầu nguyện, khổ chế, ăn chay và chiêm niệm. Chúng ta không thể đi theo con đường khó ấy nếu không có một thứ khổ chế nào. Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha cho các tông đồ ngày xưa và cho chúng ta hôm nay: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ còn ở trong thế gian… Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hóa họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”[42].

 Nhưng trên hết, mỗi người phải tin rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tình yêu nhân loại (một tình yêu lớn hơn vượt thắng tình yêu nhỏ hơn và những hấp dẫn của nó); rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm thoả mãn được con tim chúng ta và chúng ta thế nào thì Ngài yêu thương chúng ta thế ấy, và Ngài yêu thương chúng ta cho đến tận cùng; và rằng chúng ta cũng phải yêu thương Ngài đến tận cùng như vậy, với sự chung thủy của giao ước nhiệm hôn. Chúng ta cảm tạ Chúa và vui mừng vì tuy sự yếu đuối của con người luôn vẫn có đó, nhưng tuyệt đại đa số linh mục và tu sĩ đã luôn kiên trì giữ vững được đời sống và sứ vụ thánh thiện của mình. Chính họ thực sự là muối/men sự thánh thiện của Chúa giữa trần gian và là chứng tá hùng hồn cho đời sống cánh chung mai hậu, là lúc mọi người sẽ sống như con cái sự sáng của Thiên Chúa.

c. Tương quan với bạn khác phái đời thường

Đối diện với những vấn đề này, chúng ta được thúc đẩy thiết lập một mối tương quan trưởng thành, lành mạnh, hài hoà và quân bình. Xin phân biệt hai trường hợp bạn là con gái và bạn gái Công giáo hay không công giáo. Nếu những lưu ý về nơi chốn gặp gỡ, thời gian và thời lượng, khoảng cách thể lý và tâm lý, sự có mặt của những người thứ ba và ý thức sống sự hiện diện của Chúa đã được nhắc đến trên kia với giới nhà tu vì những yếu đuối của con người, thì ở đây càng được nhấn mạnh hơn nữa, nhất là đừng bao giờ mời hay nhận lời đi riêng một mình mình với một mình họ đến khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, hay những nơi tương tự, vì bất cứ lý do gì[43]. Nhiều trường hợp đã gặp phải những hậu quả thê thảm, hỏng mất lý tưởng và cả đời người, đặc biệt khi uống quá nhiều chất kích thích [say rượu làm mù quáng lý trí, nhưng kích thích bản năng tình dục mạnh hơn].

Đối với các bạn là con gái hay bạn gái Công giáo

Đối với các bạn là con gái hay bạn gái Công giáo thì dù gì cũng có một mẫu số chung là đức tin, luân lý và giáo lý công giáo. Chính mẫu số chung này với quan niệm và lập trường về nhân đức hay tội lỗi tạo nên một môi trường tăng trưởng lành mạnh, được bảo vệ hữu hiệu và an toàn hơn. Tâm thức sợ tội và yêu mến sự thánh thiện được coi trọng, đề cao và chăm sóc gìn giữ bởi các thẩm quyền hữu trách trong Giáo hội, trong Dòng Tu, trong gia đình, trong cộng đồng giáo xứ và đoàn thể. Nếu người nào “xem ra có cái gì đó” thì sẽ có những can thiệp kịp thời và thích đáng. Thậm chí nếu ai thực sự “có vấn đề” thì cũng có mẫu số chung của Đạo để giải quyết. Tuy nhiên, “đừng đùa với lửa”, vì nhiều lúc trong tình trạng xem ra an toàn lại gặp phải nguy hiểm nhất. Chúng ta cũng đừng quên giữ luật giao tiếp: Ai giữ luật thì sẽ được luật gìn giữ cho.

Bạn là con gái hay bạn gái không công giáo

Trái lại, nếu bạn là con gái hay bạn gái không công giáo thì vấn đề sẽ khác hẳn. Việc không có được mẫu số chung về đức tin và luân lý, về nhân đức và tội lỗi, về các qui tắc của Giáo Hội sẽ làm cho các mối tương quan trở nên phức tạp vì sự khác biệt căn bản về Đạo, mà sự thua thiệt chắc chắn sẽ về phía mình. Các bạn ấy chỉ biết yêu là cho và cho để chinh phục người mình yêu, thậm chí gài bẫy cho “có kết quả” rồi có muốn lui cũng chẳng được nữa. Đời có quá nhiều mánh lới và cạm bẫy không thể lường trước được, nhiều người đã chết vì không biết đủ. Dĩ nhiên đời cũng có rất nhiều người tốt, nhưng cũng có những cái tốt tự nhiên lại không phù hợp cho người sống đời thánh hiến, mà còn trở nên xấu và tác hại cho đời tu, chỉ vì cách nhìn, cách hiểu, cách suy nghĩ không chung hướng đạo đức tôn giáo.

Hy vọng nói ít nhưng anh em hiểu được nhiều. Và nếu được phép khuyên thì xin khuyên rằng ai chưa có những liên hệ như thế thì đừng nên thiết lập, và ai đã có rồi thì cố gắng cởi bỏ dần dần đi, cho tâm hồn được thanh thản, đường đời khỏi vướng bận, nhớ câu thơ của Xuân Diệu: “Đường êm quá ta đi mà quên ngó, đến khi hay thì gai nhọn đã vào thấu xương!” Mong mỗi người sẽ biết ứng xử thích đáng, sống và giữ đúng cương vị của mình, đừng làm cho họ hiểu sai và đánh giá sai về đời tu và về linh mục, tu sĩ Công giáo. Đó là một gương xấu gây cản trở lớn lao cho chứng tá Tin Mừng và truyền giáo của Giáo Hội. Nếu mối quan hệ đã vượt giới hạn quá xa thì đòi hỏi đương sự phải cất đi thiệt hại cho Giáo Hội bằng cách tự ý rút lui và người có trách nhiệm cũng cần cương quyết trong việc này: Vâng lời Chúa hơn là vị nể con người. Chúng ta phải nhớ đến sứ mệnh và nỗ lực truyền giáo là làm cho Chúa Kitô được nhận biết và yêu mến, mà vẫn không quên nỗi lo sợ bị hư mất của thánh Phaolô: “Sợ sau khi rao giảng cho người khác được cứu độ mà chính tôi lại bị hư mất[44].

d. Đối với các góa phụ

Cái gì cũng có mặt phải và mặt trái của nó. Chúng ta cần cẩn trọng trong tương quan đối với các goá phụ: Một mặt có những góa phụ trưởng thành giàu có sẵn lòng giúp đỡ nơi ăn chốn ở, tiền bạc, xe cộ, máy móc cá nhân, cũng như quảng đại giúp đỡ trong các công việc chung tông đồ, từ thiện; nhưng mặt khác họ cũng rất đáng thương vì thiếu thốn các nhu cầu tự nhiên về tình cảm và tình ái hôn nhân gia đình. Nhiều người trong họ được một số ứng sinh/linh mục nhận làm bà cố, làm chị em hay anh em kết nghĩa, để nhận được sự giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần, thường xuyên lui tới thăm viếng, ăn uống, ở lại nhà hay cùng nhau đi nơi nọ nơi kia cách quá tự nhiên như người nhà (cha nhà, thầy nhà), và rồi đến một lúc nào đó vượt quá giới hạn không ngờ. Nhớ cuộc điều tra về “sinh viên tầm gửi” của những chàng trai có sự hấp dẫn tính dục. Trái lại, có những góa phụ trẻ đẹp mẹ dại con thơ gặp khó khăn cần giúp đỡ, lòng trắc ẩn chăm sóc lo lắng của chúng ta đối với con cái họ hay chính bản thân họ, cùng với lòng biết ơn và muốn đền ơn của họ sẽ là bẫy ngầm không ngờ đó! Để cho lòng bác ái trắc ẩn ấy khỏi bị hiểu lầm, thì chúng ta nên giúp đỡ qua người khác hoặc cơ quan bác ái xã hội của giáo xứ, đừng thường xuyên đến nhà họ và cũng đừng để họ thường xuyên đến nhà mình.

e. Sự hấp dẫn tính dục

Chúng ta cũng cần quan tâm đến dữ kiện tâm sinh lý này là sự hấp dẫn tính dục. Có sức hấp dẫn tính dục [như Giuse Ai cập với vợ ông quan] hay bị hấp dẫn tính dục [như Đavít với vợ của Uria] đều là nguy hiểm đối với một con người, dù là người đời thường, độc thân hay có gia đình, và cả người tu hành, coi chừng kẻo bị tấn công hoặc tấn công mà vấp ngã. Ngoài ra, nên nhớ không chỉ các phụ nữ độc thân hay các góa phụ có thể bị nhu cầu sinh lý đòi hỏi, mà một số phụ nữ dù đang có gia đình vì không thỏa mãn được đòi hỏi tính dục cũng không thể cưỡng lại những người đàn ông có sức hấp dẫn tính dục, hoặc không thể cưỡng lại dục vọng của chính họ mà muốn đi tìm thỏa mãn ở ngoài hôn nhân, đưa tới tình trạng ngoại tình hoặc mua dâm nơi đám “sở khanh, đĩ đực.”

f. Cạm bẫy mỹ nhân kế

Chúng ta cũng cần tỉnh táo với cạm bẫy mỹ nhân kế: Có những cạm bẫy tự đến với thân phận con người yếu đuối “trai tài gái sắc”; có những cạm bẫy được dàn dựng vì tiền, vì công ăn việc làm, và cả về hôn nhân nữa; có những cạm bẫy được sắp đặt vì thù oán; có những cạm bẫy được dàn dựng cài đặt vì vấn đề chính trị, quyền lực; có những cạm bẫy được tổ chức để phá hại tôn giáo, Giáo Hội.

3. Các giải pháp ứng xử tốt đẹp

a. Tương quan với mẹ và chị em ruột của mình

Mối tương quan đầu tiên và cơ bản nhất của chúng ta với người nữ phải kể cụ thể là mối tương quan với chính mẹ và chị em ruột thịt của mình. Mẹ của chúng ta là người nữ mà chúng ta đã nhận được sự sống, và nhờ mẹ mà chúng ta có được đức tin và ơn kêu gọi như hôm nay. Sự dịu dàng và chăm sóc yêu thương của tình mẹ nâng đỡ và bảo vệ chúng ta, giúp chúng ta lớn lên trong đời sống nhân bản làm người cũng như đời sống thiêng liêng làm tông đồ của Chúa. Mẹ và chị em ruột thịt luôn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta, bằng tình yêu thương, lời cầu nguyện, sự chăm sóc canh phòng đầy khôn ngoan, an toàn và kính trọng. Một linh mục tốt luôn giữ mối liên hệ mật thiết với mẹ và các chị em ruột thịt của mình, đặc biệt trong thời gian gặp thử thách, thất bại, bị hiểu lầm, đau ốm bệnh hoạn, buồn phiền chán nản, lại bị dao động tình cảm, bị cám dỗ và cả khi bị yếu đuối vấp ngã nữa.

b. Coi Cụ Bà như mẹ và thiếu nữ như chị em 

Để sống hồng ân quí giá là đời sống độc thân linh mục vì Nước Trời trong con đường trưởng thành và trong sáng, điều xem ra đặc biệt quan trọng là chúng ta phải phát triển cách sâu xa trong chính mình hình ảnh của các phụ nữ như mẹ và chị em mình, với cùng một lòng yêu thương và kính trọng như đối với mẹ và chị em của mình, mà thánh Phaolô đã khuyên nhủ Timôtê: “Con hãy coi các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng hoàn toàn trong sạch.”[45]

Trong thời đại hôm nay, chúng ta phải biết khám phá ra phẩm giá và ơn gọi của phụ nữ trong Giáo Hội và trong thế giới. Hơn bao giờ cả, ngày nay người ta nói nhiều đến giải phóng, bảo vệ và thăng tiến phụ nữ, và xem ra ngoài xã hội nhiều hơn trong Giáo Hội! Thật ra không phải thế, vì ngay từ thời của Ngài, Chúa Giêsu đã ân cần đón nhận sự cộng tác của nhiều phụ nữ theo giúp Ngài và cho họ một vị trí đặc biệt quan trọng, nhất là vai trò của Mẹ Maria và Maria Madalêna dưới chân thập giá, trong biến cố Phục sinh và thời kỳ đầu của Giáo Hội sơ khai, với Lễ Ngũ Tuần, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đầu tiên.

Có thể nói Giáo Hội dần dần lấy lại cái đã đánh mất hay lãng quên từ hai mươi thế kỷ nay.[46] Mới đây trong cuộc viếng thăm Philippines, ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi người hãy tư duy, cảm nhận và hành động: “Đàn ông chúng ta vẫn chưa tạo không gian cho phụ nữ. Phụ nữ có thể nhìn nhận vấn đề một cách khác biệt và có thể đưa ra những câu hỏi mà đàn ông không hiểu nổi”. Sự thăng tiến này làm cho người nam và người nữ cảm thấy bình đẳng và biết tôn trọng nhau trong mọi khía cạnh cuộc đời. Trong buổi Kinh Truyền Tin Chúa Nhật 8/3/2015, ĐTC Phanxicô vinh danh phụ nữ: “Phụ nữ không những chỉ cưu mang sự sống, phụ nữ truyền cho chúng ta khả năng nhìn xa hơn, vượt khỏi chính họ. Phụ nữ giúp chúng ta nhìn với nhiều cặp mắt khác nhau. Cám ơn các phụ nữ, qua tình tương trợ, các phụ nữ đã thể hiện cả ngàn cách để làm chứng cho Phúc Âm trong Giáo hội. Mỗi ngày, họ tìm cách để xây dựng một xã hội nhân bản hơn và thân tình hơn.

Một biến cố chứng minh điều vừa nói là ngày 21/1/2010, ĐTC Biển Đức XVI đã bổ nhiệm Cô Flaminia Giovanelli là người phụ nữ đầu tiên nắm giữ vị trí Phó Thư Ký của Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình.[47] Một nữ giáo dân người Úc, Rosemary Goldie, cũng đã ở vị trí tương đương tại Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân từ 1966 đến 1976. Một nữ tu người Ý, Soeur Enrica Rosanna, hiện đang giữ cùng chức vụ tại Thánh Bộ Tu Sĩ[48].

ĐTC Phanxicô đang có những động thái nâng vai trò nữ giới lên một tầm cao mới: Sau khi nhắc đến giáo huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò quan trọng của phụ nữ, Ngài khẳng định: “Cả tôi cũng đã từng nhắc đến sự đóng góp không thể thiếu được của phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là với sự nhạy cảm và trực giác của phụ nữ đối với tha nhân, người yếu thế và người vô phương thế tự vệ; tôi vui mừng khi thấy nhiều phụ nữ chia sẻ một số trách nhiệm mục vụ với các linh mục qua việc tháp tùng các cá nhân, gia đình và nhóm, cũng như trong việc suy tư thần học. Và tôi cầu mong không gian dành cho sự hiện diện của phụ nữ được nới rộng một cách sâu rộng và quan trọng hơn trong Giáo Hội… Những năng khiếu tế nhị, đặc biệt nhạy cảm và dịu dàng mà tâm hồn phụ nữ vốn rất phong phú, không những là một sức mạnh chân thực cho đời sống gia đình, làm lan tỏa bầu không khí thanh thản và hòa hợp, nhưng còn là một thực tại mà nếu không có thì ơn gọi của con người không thể thực hiện được[49].

Ngài còn nói mạnh mẽ hơn: “Chúng ta có thể nào hình dung một Giáo hội không có họ không? Không, chúng ta không thể nào hình dung được; đó là món quà của lòng thương xót của Chúa, là men bột để cho sự tăng trưởng của xã hội được công chính hơn, cho tình huynh đệ được thắt chặt hơn, họ đã mang ánh sáng của Chúa Kitô đến những nơi còn tăm tối, để gieo hy vọng cho những quả tim đã tuyệt vọng, họ đã chia sẻ cuộc sống của họ cho những người nhỏ bé, cho những người nghèo. Các nữ tu của chúng ta thật cao cả, họ đã tận hiến cuộc sống của họ, họ đã mang Lời Chúa đến với thế gian!”[50].

Ngược lại, Đức Phaolô VI cũng nhắc Dân Chúa trách nhiệm của họ là cầu nguyện và chân thành trợ giúp các linh mục vượt qua mọi nỗi khó khăn, tận tình yêu thương các ngài với tình con thảo và sẵn sàng cộng tác với các ngài, với kính trọng và tế nhị dè giữ, khích lệ và an ủi, vì các ngài là những người hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô và Giáo Hội.

c. Nhìn cách ứng xử và mối tương quan hài hoà của Chúa Giêsu đối với phụ nữ 

Phúc Âm cho chúng ta biết rằng thái độ ứng xử của Chúa Giêsu mang lại tự do và hòa điệu giữa Ngài và các phụ nữ. Chúng ta cần học từ Chúa Giêsu, là Thầy và là Chủ của chúng ta, cách thức tương quan và ứng xử thế nào cho đúng mực với các phụ nữ. Chúng ta hãy xem vài khuôn mặt chính:

  • Mẹ Maria, người mà Chúa Giêsu đã tỏ lòng yêu thương của một người con và hết lòng kính trọng vâng phục và Mẹ đã trở nên bản đối chiếu mật thiết của Ngài trong việc lắng nghe và thực thi ý Thiên Chúa;
  • Matta và Maria ở Bêtania, nơi mà Chúa thường ghé qua trong cuộc hành trình truyền giáo và Ngài đã trở nên rất gần gũi với họ;
  • Người phụ nữ xứ Samaria, được hoán cải và đổi mới, đã giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng vốn không biết đến căn tính đích thực của Ngài;
  • Maria Madalêna, người được cứu sống và hoàn toàn biến đổi nhờ Chúa Giêsu, cô đã được gặp Chúa Sống Lại và nhận lãnh trực tiếp từ Ngài sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ;
  • Người phụ nữ vô danh đã lên tiếng ca tụng hạnh phúc của Mẹ Chúa và nhân đó Chúa đã dạy cho biết hạnh phúc lớn lao hơn là lắng nghe và thực hành lời Chúa;
  • Các con gái thành Giêrusalem đã theo khóc thương Chúa Giêsu trên con đường khổ nạn là cơ hội để Ngài nhắc nhở mỗi người chúng ta phải khóc cho tội lỗi của mình.

Tóm lại, trong các mối tương quan của tình bạn khác phái, dù với người tu hay người ở giữa thế gian, chúng ta phải luôn qui hướng về Chúa Kitô, khiêm tốn nhìn nhận những điều kiện con người yếu đuối của mình, lắng nghe sự khôn ngoan và kinh nghiệm từng trải của kẻ khác, đừng bao giờ dám tự phụ cho mình là mạnh,[51] trái lại nhớ luôn rằng “con chim nhát là con chim sống” hay “tam thập lục kế, vi tẩu thượng sách.” Chúng ta phải luôn khiêm tốn và bền bỉ cầu xin ơn trung thành: những cây đại thụ trong Giáo Hội còn ngã huống gì là nhỏ bé dòn mỏng như chúng ta! Hãy xem câu chuyện Samson-Dalila trong sách Thủ Lãnh và lấy đó làm gương răn mình.[52]

Ngoài ra, phải phát huy tình huynh đệ bí tích linh mục. Khi anh em linh mục thực sự yêu thương nhau, ai cũng thỏa mãn được nhu cầu tâm lý căn bản yêu và được yêu của con người, thì chẳng ai thèm đi tìm bù trừ hay đón nhận một tình cảm nào khác, dù là rất ngọt ngào của người khác phái hợp nhãn và vừa ý. Thế nhưng trong bất cứ cuộc chiến đấu nào cũng có chiến thắng và chiến bại. Nếu gặp phải trường hợp chiến bại, hãy cư xử theo lòng nhân hậu của Chúa Kitô, giúp nhau chuyển bại thành thắng, chỗi dậy đứng lên tiếp tục hành trình với bài học kinh nghiệm và tâm hồn đổi mới. Hãy coi lầm lỗi như một lúc con tàu bị trật bánh ra khỏi đường ray. Nếu khéo léo điều chỉnh, bánh xe sẽ lại trở về đúng vị trí để con tàu tiếp tục vận hành. Câu chuyện ông Samson vẫn giữ luôn ý nghĩa này là ngay cả khi con người sa ngã vì lầm lỗi mà biết ăn năn, thì Thiên Chúa vẫn có thể ban ân nghĩa như trước.[53]Người lầm lỗi được chân thành thương yêu, quảng đại tha thứ và nhân từ nâng đỡ sẽ đủ nghị lực kiên trì biến đổi nên tốt, với sự trợ giúp của ơn thánh Chúa: Tội thì tha lỗi thì sửa; mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai.

 Tâm lý chung của những người cầu toàn khi phát hiện một lầm lỗi là muốn làm om sòm lên. Nhưng liệu sự om sòm ấy có làm thay đổi được tình hình, hay nó lại càng “vạch áo cho người xem lưng” về tình trạng thiếu yêu thương của mình. Trước hết nên bình tĩnh, nhìn lại chính mình. Ai cũng có thể bị “vi-rút” tình cảm và tình dục tấn công. Vấn đề là cần có sức đề kháng tốt để tránh được bệnh. Sức đề kháng đó nằm ở chính sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và tình huynh đệ bí tích của linh mục với nhau, vốn là nhân tố làm thỏa mãn nhu cầu yêu và được yêu trong bối cảnh của đời sống ơn gọi, được đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, và kiên trì chu toàn bổn phận theo đấng bậc của mình cho các linh hồn được giao phó.

Ngày trước, khi còn dâng lễ bằng tiếng Latinh, cần có lời dẫn giải để giáo dân hiểu ý nghĩa của các cử chỉ, nghi thức và lời đọc để tham dự thánh lễ sốt sắng và hữu ích, tôi rất thích lời dẫn khi linh mục rửa tay sau dâng của lễ: “Khi linh mục rửa tay, chúng ta phải nguyện rằng ở giữa thế gian mà giữ linh hồn vẹn sạch thì rất khó.” Ấy vậy mà Thiên Chúa vẫn giúp thực hiện được điều khó ấy cho hàng hàng lớp lớp giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân hằng kiên tâm thực thi giới răn của Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Cảm tạ Chúa và ước gì mỗi người chúng ta đều được nằm trong số ấy.

(4)

III

 KHỦNG HOẢNG LẠM DỤNG TÌNH DỤC
VÀ HƯỚNG TỚI CÁC GIẢI PHÁP TRIỆT ĐỂ

 1. Khủng hoảng tính dục và lạm dụng tính dục

Xét về mặt thể lý, mọi tế bào trong cơ thể cứ từng 7 năm một lần đều được thay thế để tăng trưởng. Vấn đề sinh lý và tính dục cũng thế với các tuyến nội tiết và các loại hooc-môn đặc trưng qua từng giai đoạn của tuổi đời “không ai dạy cho khỉ mà khỉ vẫn biết leo cây”. Và ngày nay trẻ trưởng thành sinh học sớm hơn, lại có những cách giáo dục giới tính vội vàng không thích hợp, cộng với các phim ảnh xấu và các mối liên hện không lành mạnh táo bạo, khiến có những cơn sóng ngầm nguy hiểm kích thích nạn lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, cũng như những người lớn yếu thế không thể tự vệ. Chúng ta cũng cần hiểu biết những xúc cảm bản thân hơn để sống giới tính của mình với tâm hồn bình an thanh thản trong đời tu, thoát khỏi những áp lực căng thẳng của cám dỗ và ham muốn tự nhiên gây nên mặc cảm sợ hãi về sự yếu đuối con người của mình, đôi khi tự đặt vấn đề không biết liệu có tu bền đỗ được không?

Chúng ta đi tu nhưng vẫn không thôi là con người vốn có những ham muốn sinh lý tính dục tự nhiên. Nguyên khởi cảm nhận những ham muốn tự nhiên ấy không tội lỗi gì hết, vì đấy là sự phát huy chức năng của các cơ quan thể xác mà Chúa đã an bài để tiếp tục thực hiện công trình sáng tạo, hãy hiểu biết điều đó để tâm hồn bằng an thanh thoát. Chỉ thứ phát dừng lại ở những ham muốn đó và tìm cách thỏa mãn trái qui trình bậc sống mới là tội. Để vận dụng tốt các qui trình tự nhiên ấy, chúng ta cần cẩn thận trong những giao tiếp gần gũi thân mật với người khác giới. Cần phải triệt để lưu ý và thực hiện năm yếu tố cần giữ gìn trong các mối tương quan khác phái: – nơi chốn gặp gỡ, – thời gian và thời lượng, – khoảng cách thể lý và tâm lý, – sự có mặt của những người thứ ba – và sống ý thức sự hiện diện khuất ẩn nhưng rất thật của Chúa.

Ai ai cũng đều biết rõ rằng mọi thân xác đều có tính dục và mọi tương quan đều có tính cách phái tính. Có những hoàn cảnh khiến các hấp dẫn và khao khát tự nhiên về tình cảm và tính dục bộc lộ mãnh liệt hơn. Phân tâm học nhấn mạnh đến năng lực tình dục mà Freud gọi là Libido, tức năng lực thúc đẩy dục tính bên trong. Năng lực này có ở trong mỗi con người: nếu được cân bằng, nó sẽ thúc đẩy con người hướng đến tình yêu và lý tưởng; còn nếu bị mất cân bằng hay bị cản trở thì nó sẽ trở thành xung động rối loạn tận đáy nội tâm, như khối lửa âm ỷ trong lòng đất chờ thời cơ để phun trào. Xung động rối loạn này khi chưa bộc phát ra sẽ ở dạng dồn nén, nhưng nó không bao giờ ngồi yên, mà luôn thúc đẩy nội tâm con người tìm cho nó một lối thoát. Nó sẽ được thoát ra theo hai dạng, hoặc là thăng hoa hướng thượng đạo đức, hoặc là méo mó có tính cách bản năng suy thoái. Như vậy, việc cho nó thoát ra theo dạng nào phụ thuộc vào ý chí và sự trưởng thành nhân bản, cũng như thiêng liêng của con người.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần lưu ý dữ kiện tâm sinh lý hấp dẫn tính dục. Trong lãnh vực này không ai được phép cho rằng mình mạnh cả. Thánh Phaolô thú nhận: “Có ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối; có ai trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt[54] và Ngài nhắc nhở “ai tưởng rằng mình đang đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã[55]. Gương vua Salomon vào cuối đời cũng là một bài học nhắc nhở quý báu[56]. Chúa Kitô dạy phải dùng đến hợp lực của sức Chúa và sức con người chúng ta: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh nhưng xác thịt thì nặng nề yếu đuối[57]. ĐHY Carlo Maria Martini nói: “Mọi người, tín hữu, Giám mục, linh mục phải xác tín rằng không ai chắc chắn bền đỗ được; mối nguy lớn nhất là tưởng rằng mình đã đạt đến một mức ổn định đến nỗi không cần thận trọng nữa”[58].

Quả thật, ngày nay đời sống đạo đức của một số giáo sĩ đang thay đổi rất nhiều và xuống cấp vì tình trạng lạm dụng tình dục, không phải chỉ với trẻ em, mà còn lén lút với người lớn, cả nữ tu và người có gia đình nữa, mà mỗi bên đều có thể vừa là nạn nhân vừa là nguyên nhân, như người Miền Trung thường nói “tại cả anh tại cả ả, tại cả và hai”. Chỉ trong vòng 2 năm 2011-2012, ĐGH Biển Đức XVI đã sa thải gần 400 linh mục vì xâm hại tình dục trẻ em. Theo số liệu thống kê mới nhất của Giáo Hội năm 2012, có khoảng 414.000 linh mục Công giáo Rôma trên toàn thế giới, trong đó khoảng 2% là những kẻ lạm dụng tình dục’. Chính ĐTC Phanxicô tuyên bố: “Nhiều người trong số cộng tác viên của tôi đã cùng tôi chiến đấu chống lại tội ấu dâm trấn an tôi với số liệu thống kê đáng tin cậy về mức độ ấu dâm trong Giáo Hội là khoảng 2%’. Và đó là một thứ ‘phung hủi trong nhà của chúng tôi[59].

Đáng buồn hơn là không chỉ một số đáng kể linh mục lạm dụng tình dục và có con cái nơi này nơi kia, mà cả một số ít Giám mục cũng mắc phải tệ nạn này nữa. Rõ rệt là Giám mục Phụ tá của TGP. Los Angeles, Gabino Zavala, đã thú nhận có hai đứa con ở một tiểu bang khác, buộc phải từ chức[60]; TGM. Milingo đã kết hôn với bà Maria Sung trong một nghi thức kết hôn tập thể của giáo phái Moon, tại New York, ngày 27/5/2001. Cao cấp hơn nữa là TGM. Josef Wesolowski, Khâm sứ Tòa Thánh tại Cộng Hòa Dominica, bị cáo buộc dụ dỗ và lạm dụng tính dục các trẻ em đường phố, bị ĐTC triệu về Roma và bãi nhiệm theo Giáo luật, sau đó bị Hiến binh Vatican bắt giam và có nguy cơ chịu án hình luật phạt 35 năm tù giam.

            2. Các biện pháp giải quyết

Người Việt Nam chúng ta thường nói: “Nói người hãy nghĩ đến ta, thử sờ lên gáy xem xa hay gần”. Vậy về phía bản thân mỗi người chúng ta, nếu nhỡ yếu đuối mà sa ngã, thì hãy khiêm tốn cầu xin ơn mau mắn chỗi dậy, sám hối dứt khoát lật sang trang đời mới, đứt đuôi nòng nọc, đứng hẳn về phía Chúa và Giáo Hội[61]. Nói nguyên tắc là vậy, nhưng không dễ đâu, bản thân mình đã rồi mà còn phía kia nữa, “cây muốn lặng mà gió không ngừng”. Do vậy cần phải có quyết tâm bản thân cao và sự giúp đỡ của người khác, nhất là với ơn Chúa. Thế gian không chỉ ghi nhận mọi sơ hở, mà còn gài bẫy để mặc cả, đặt điều kiện ép buộc có lợi cho họ, bất chấp thiệt hại của Giáo Hội, của các linh hồn và của chính bản thân chúng ta. Nếu chẳng may vấp phải, hãy khiêm tốn thành thật trình bày với Bề trên Giáo Hội, các ngài sẽ có cách giúp đỡ giải quyết, càng muốn che đậy giấu diếm càng bị kẹt vì phải chấp nhận hết điều kiện nọ đến điều kiện kia, luôn sống trong bất an và sợ hãi[62]. Nỗ lực sống trong sáng và triệt để những đòi hỏi của đời tu, thông cảm nâng đỡ anh em và khiêm tốn cầu xin, vì nếu Chúa không thương che chở thì có khi mình lại sa ngã nặng nề hơn. Ngoài ra, nhớ thực hiện năm phương thế sống lành mạnh các mối tương quan vừa nhắc ở trên: Nơi chốn gặp gỡ – Thời gian và thời lượng – Khoảng cách thể lý và tâm lý – Sự có mặt của những người thứ ba – Sống ý thức sự hiện diện khuất ẩn nhưng rất thực của Chúa.

Trong lãnh vực này, chúng ta đừng quên có ba thứ tội tối kỵ đối với linh mục kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm. Chúng ta hãy biết điều đó để tránh khỏi cái vạ rắc rối kia, sau này ai có lỡ mà sa ngã thì đừng giải tội cho người đồng phạm, dù có sợ bị lộ phải xấu hổ, hầu khỏi nguy cơ tội chồng chất thêm tội phạm thánh, sống bất an suốt đời, và khi chết biết đi đâu !? Nhớ khi học Giáo luật và Bí tích Giải tội thì đừng có chia trí hay bỏ giờ lớp để rồi biện minh là không có biết vạ ấy đâu nhé!

Chúng ta cũng nên xem qua các biện pháp giải quyết của Giáo hội, cũng như những đòi hỏi của xã hội, của các nạn nhân và gia đình của họ. Những đòi hỏi và biện pháp ấy cũng là những dấu hiệu cảnh báo về hiểm nguy, những biển chỉ đường hướng dẫn và bảo vệ chúng ta an toàn trên con đường và sứ vụ ơn gọi, vì những tổn thương lạm dụng tình dục đã và đang xảy ra đó đây do hàng giáo sĩ khiến Giáo Hội đang nỗ lực siết chặt kỷ luật và tìm kiếm các biện pháp thích ứng để sửa chữa, uốn nắn và thanh lọc một cách rốt ráo.

Lập trường của ĐTC Biển Đức XVI ‘tuyệt đối không khoan nhượng đối với tội ác đó’. Ngài nhắc trong thư gửi người công giáo Ái Nhĩ Lan: “Những tệ hại đó do các thủ tục thiếu sót trong việc ấn định ra tư cách xứng đáng của các ứng viên chức linh mục và cuộc sống tu trì; thiếu sót trong việc đào tạo nhân bản, luân lý, tri thức và thiêng liêng trong các chủng viện và tập viện.” Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trước đó, vào năm 2002, cũng đã nói: “Không có chỗ đứng trong hàng linh mục và trong đời tu trì cho những kẻ làm hại người trẻ… Cần phải giáo dục cho các ứng sinh linh mục và tu sĩ biết quí chuộng đức khiết tịnh và sự độc thân cũng như trách nhiệm làm cha tinh thần, và cần giúp họ đào sâu kiến thức về kỷ luật Giáo Hội liên quan đến những vấn đề này”.

 Bộ Giáo Lý Đức Tin đã ra một Thư Luân Lưu[63] nhằm giúp các HĐGM trên khắp thế giới soạn thảo các đường hướng chỉ đạo xử lý nghiêm khắc những vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục. Bộ yêu cầu mỗi HĐGM gửi về Bộ trước cuối tháng 5/2012 một bản sao những đường hướng và các biện pháp nghiêm khắc vừa nói. Trong các cách xử lý có bao hàm việc áp đặt một hình phạt chung thân như việc rút khỏi bậc giáo sĩ.[64]

ĐTC Phanxicô tái khẳng định tiếp tục đường hướng mà ĐTC Biển Đức XVI đã vạch ra để hành động kiên quyết liên quan đến các trường hợp lạm dụng tình dục. Ngài nói: “không thể ở địa vị có quyền thế để rồi hủy hoại đời một người khác… phải lấy lại “bài sai”, không cho phép người đó thi hành chức linh mục nữa, và nên khởi sự một phiên tòa theo Giáo luật. Tôi nghĩ đó là việc phải làm ngay. Tôi không tin vào việc chủ trương rằng cần phải duy trì một tinh thần hợp đoàn để tránh gây thiệt hại cho hình ảnh của định chế… Tôi ngưỡng mộ sự can đảm và chính trực của Đức Bênêđictô về vấn đề này. Nếu linh mục nào đến cho tôi hay đã làm cho một phụ nữ có thai, tôi sẵn sàng lắng nghe, rồi từ từ giúp ông hiểu ra rằng luật tự nhiên đã lấn át chức linh mục của ông. Ông phải rời bỏ thừa tác vụ để chăm sóc đứa trẻ kia, dù ông quyết định không kết hôn với người phụ nữ đó đi nữa, vì đứa trẻ có quyền có một người mẹ thế nào, thì nó cũng có quyền có một người cha như thế. Tôi cam kết sẽ dàn xếp mọi giấy tờ cho ông ở Rôma, nhưng ông phải rời bỏ mọi sự. Linh mục nào cho tôi hay đã sa ngã, nhưng muốn ăn năn, tôi sẵn sàng giúp ông chỗi dậy. Có linh mục chỗi dậy được, có linh mục không. Thậm chí có những linh mục không chịu nói chi với Giám mục của mình[65]. Chỗi dậy là làm việc đền tội, duy trì việc độc thân của mình. Sống hai mặt là điều chẳng tốt đẹp gì cho ai cả. Tôi không thích lối sống ấy vì nó giả dối, bởi thế tôi thường nói: ‘nếu không thắng vượt được, thì nên quyết định ra đi[66].

ĐTC Phanxicô đã chấp nhận đề nghị của Hội Đồng Hồng Y quyết định thành lập một ủy ban đặc biệt tư vấn cho ĐTC để bảo vệ trẻ em. Các lãnh đạo HĐGM Mỹ mau mắn tuyên bố hỗ trợ Uỷ ban này của Tòa Thánh. Đức TGM Joseph E. Kurtz, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ giải thích rằng các Giám mục Hoa Kỳ đã học được nhiều biện pháp quan trọng (sau khi đã mất 2,2 tỷ mỹ kim đền bù, một số giáo phẩm phải từ chức và sáu giáo phận phải tuyên bố phá sản vì không đủ tiền bồi thường do nạn giáo sĩ lạm dụng) để giúp ngăn chặn tình trạng lạm dụng, bao gồm cả kiểm tra lý lịch, giáo dục trẻ em và người lớn về an toàn trẻ em, loại bỏ nhanh chóng người phạm tội, và sự cần thiết các cơ quan Giáo Hội và chính quyền dân sự làm việc cùng nhau[67].

Trong cuộc gặp gỡ 120 Bề trên Tổng Quyền Dòng Nam ngày 29/11/2013, ĐTC Phanxicô nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chọn lọc các ứng viên vào đời sống tu trì, để loại bỏ những người có những lầm lỗi không thể chữa trị được. Ngài nói: “Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng không phải tất cả chúng ta đều là những người ung thối hư hỏng. Người tội lỗi được chấp nhận, nhưng không thể chấp nhận những người ung thối, hư hỏng[68].

Trong bài giảng lễ ngày 16/1/2014 tại nhà Martha, ĐTC Phanxicô mạnh mẽ đặt câu hỏi: “Chúng ta xấu hổ vì những xì căng đan, những chiến bại của các linh mục, giám mục, giáo dân? Lời Chúa trong những xì căng đan ấy thật là hiếm hoi! Họ không có quan hệ với Thiên Chúa! Họ có một địa vị trong Giáo Hội, một địa vị quyền lực và thoải mái. Nhưng lời Chúa thì họ không có… Tội nghiệp dân! Chúng ta không cho họ bánh sự sống để ăn, chúng ta không cho họ chân lý! Thậm chí chúng ta cho họ ăn bánh bị nhiễm độc bao nhiêu lần! Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta đừng bao giờ quên Lời Chúa, xin cho Lời Chúa đi vào tâm hồn chúng ta và không bao giờ quên dân thánh trung thành của Chúa đang xin chúng ta bánh mạnh mẽ![69]

Thế mà thật đáng tiếc là ngày 5/2/2014, Ủy ban về quyền trẻ em của LHQ gay gắt cáo buộc Tòa Thánh để mặc nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục và thúc giục mở hồ sơ về các người phạm tội ấu dâm cũng như các Giáo phẩm che đậy các tội ác của họ, trong khi đó Giáo Hội luôn nhận trách nhiệm đối với các linh mục và giám mục từng góp phần vào việc lạm dụng này, và đã đưa ra nhiều biện pháp quyết liệt và hữu hiệu để xử lý các vấn đề này. Ngoài ra Ủy ban này của LHQ còn chỉ trích Tòa Thánh về các thái độ đối với đồng tính luyến ái, ngừa thai và phá thai, đồng thời yêu cầu Tòa Thánh nên duyệt lại các chính sách của mình. Họ dùng tệ nạn này làm cớ để tấn công Giáo Hội, mưu toan can thiệp vào giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về phẩm giá con người và việc thi hành tự do tôn giáo, chứ thật khó mà tìm được các định chế quốc tế hay quốc gia nào khác đã làm được nhiều như thế một cách chuyên biệt để bảo vệ trẻ em, như Giáo Hội Công Giáo. Chính ĐTC Phanxicô đã nói: “Giáo Hội đã làm rất nhiều trên con đường này. Có lẽ nhiều hơn bất cứ ai. Các thống kê về hiện tượng bạo lực đối với trẻ em gây sốc, nhưng chúng cũng cho thấy rõ ràng rằng phần lớn các vụ lạm dụng diễn ra trong môi trường gia đình và xung quanh gia đình. Giáo Hội Công Giáo có lẽ là cơ cấu công cộng duy nhất đã hành động với tính minh bạch và trách nhiệm. Không có cơ cấu nào khác đã làm được hơn. Thế mà Giáo Hội là người duy nhất bị tấn công[70].

Và qua những mưu tính thù nghịch cách bất công đó mà đã có những thế lực vận động tẩy chay Tòa Thánh ra khỏi LHQ để Tòa Thánh không có tiếng nói ở LHQ nữa. Thế giới Công giáo cũng có những nỗ lực ngược lại ký thỉnh nguyện thư bảo vệ sự hiện diện của Tòa Thánh tại LHQ. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện và nỗ lực hết mình cho tiếng nói của Chân Lý luôn được vang lên.

Trong bài giảng lễ cầu cho nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục ngày 7/7/2014 tại Nhà Matta, ĐTC Phanxicô nói lên nỗi buồn đau của mình: “Tôi cảm thấy buồn khổ và đau đớn trước sự kiện có một số linh mục và giám mục, bằng việc lạm dụng tình dục các em vị thành niên, đã phạm đến tính chất ngây thơ vô tội của họ cũng như đến ơn gọi linh mục của mình, vượt trên cả những hành động đáng khinh ghét. Nó như là một thứ tôn sùng phạm thánh, vì những em trai em gái ấy được trao phó cho linh mục để được mang đến cùng Thiên Chúa, thì họ đã hiến tế cho ngẫu tượng tình dục của mình. Họ tục hóa chính hình ảnh Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên chúng ta giống như Ngài”. Giáo Hội xin được ơn khóc lóc trước những hành vi lạm dụng cực kỳ xấu xa đã lưu lại các vết sẹo cả đời. Tôi biết rằng những vết thương này là nguồn đau đớn da diết sâu xa và thường xuyên về cảm xúc cũng như thiêng liêng, thậm chí đến thất vọng chán chường. Nhiều người đã chịu đựng như thế cũng đã tìm vơi đi trong nghiện ngập. Những người khác đã trải qua những khó khăn khổ đau trong mối liên hệ với cha mẹ, vợ chồng và con cái. Một số người thậm chí đã phải đương đầu với thảm họa kinh hoàng tự tử. Các cái chết của những con cái rất yêu dấu của Thiên Chúa này đã đè nặng trên tâm can và lương tâm của tôi cũng như của toàn thể Giáo Hội… Tội lỗi lạm dụng tình dục của giáo sĩ phạm đến những em vị thành niên có một tác dụng độc hại trên đức tin và đức cậy vào Thiên Chúa. Một số đã giữ vững đức tin, trong khi đó có những người cảm nghiệm bị lừa đảo và bỏ rơi nên đã mất niềm tin tưởng vào Thiên Chúa’.

 Thế rồi Ngài bày tỏ lập trường và kế hoạch hành động trong tương lai: “Không có chỗ đứng trong thừa tác vụ của Giáo Hội cho những ai phạm đến những thứ lạm dụng ấy, và tôi tự hứa rằng sẽ không dung nhượng cho bất cứ tác hại nào gây ra cho một em nhỏ bởi bất cứ cá nhân nào, dù là giáo sĩ hay không. Tất cả mọi vị Giám Mục cần phải thi hành thừa tác mục vụ của mình một cách hết sức cẩn thận để giúp bảo trì việc bảo vệ vị thành niên, và các vị sẽ bị trả lẽ về vấn đề này… Chúng tôi sẽ tiếp tục tỉnh táo trong vấn đề huấn luyện linh mục. Tôi tin tưởng vào các phần tử thuộc Ủy Ban Tòa Thánh Bảo Vệ Trẻ Em. Tôi xin được sự nâng đỡ này để bảo đảm rằng chúng ta phác họa những qui chế cùng với những phương sách tốt đẹp hơn trong Giáo Hội hoàn vũ để bảo vệ vị thành niên cũng như để huấn luyện nhân viên của Giáo Hội áp dụng những qui chế và phương sách ấy. Chúng ta cần phải làm hết sức có thể để bảo đảm rằng những tội lỗi này không còn chỗ đứng nữa trong Giáo Hội”. 

 Sau cùng, ĐTC xin lỗi và xin cầu nguyện cho Ngài: “Trước nhan Thiên Chúa và dân của Ngài, tôi xin bày tỏ niềm sầu thương của tôi về tội lỗi và các tội ác trầm trọng lạm dụng tình dục của giáo sĩ đã phạm đến anh chị em. Và tôi khiêm tốn xin anh chị em tha thứ. Tôi cũng xin anh chị em tha thứ cả các tội lỗi không chịu ra tay giải quyết về phía các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, những vị không đáp ứng một cách thích đáng trước việc tường trình lạm dụng do gia đình nạn nhân, cũng như bởi chính nạn nhân. Điều ấy lại càng gây ra khổ đau hơn nữa nơi những ai bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho các trẻ em vị thành niên có thể bị nguy cơ lạm dụng… Xin cầu nguyện cho tôi, để đôi mắt của lòng tôi thấy được một cách rõ ràng con đường của tình yêu nhân hậu, và để Thiên Chúa ban cho tôi lòng can đảm kiên trì trên con đường này vì thiện ích của tất cả mọi trẻ em và giới trẻ”[71].

 Và khi gặp gỡ sáu nạn nhân bị các giáo sĩ lạm dụng tình dục gồm ba người đàn ông và ba phụ nữ từ Anh, Ái Nhĩ Lan và Đức, ĐTC Phanxicô đã cam kết: “Chúng ta cần phải tiến lên phía trước trong chuyện này với chính sách Zero tolerance” (tức là hoàn toàn không khoan nhượng)… Một linh mục gây ra điều này là phản bội lại Nhiệm Thể Chúa, bởi vì các linh mục cần phải dẫn cậu bé này, cô gái này, người thanh niên này, người phụ nữ trẻ này, nên thánh. Và cậu bé này, cô gái này tin tưởng nơi vị linh mục, thế mà thay vì đưa họ đến sự thánh thiện, lại lạm dụng họ. Thật là một tội lỗi rất nghiêm trọng”.

3. Giải pháp tốt của một thời

Trong thân phận yếu đuối của con người, ai cũng có thể bị sa ngã phạm tội giới răn thứ sáu và cả thứ chín nữa. Đúng vậy, khi điều tra, người ta phát hiện ra rằng việc lạm dụng trẻ em chỉ là một phần của một vấn đề lớn hơn, vì trong thực tế có nhiều phụ nữ thuộc nhiều bậc sống đã bị lạm dụng tình dục. Nhưng khi giáo sĩ vấp phạm thì trước đây, các lãnh đạo Giáo hội địa phương thường giải quyết cách kín đáo trong phạm vi nhỏ hẹp, công chúng không hay biết gì: linh mục mắc sai phạm hoặc bị cáo buộc được đổi đi nơi khác, hoặc cho đi tĩnh tâm sửa mình dài ngày trong một tu viện chiêm niệm, thậm chí cho ra nước ngoài. Nếp suy nghĩ ẩn chứa trong giới giáo sĩ nhằm lý do bảo vệ tổ chức Giáo Hội bằng cách che đậy các vụ bê bối. Người ta có thể nói rằng tính gia trưởng trong giới giáo sĩ và các nhà lãnh đạo của Giáo Hội có khuynh hướng quan tâm bảo vệ hình ảnh và quyền lực, định chế là gốc rễ của tình trạng lạm dụng và sự che đậy[72].

Thật ra, lạm dụng tình dục được định nghĩa như là sự quấy nhiễu hay ép buộc khơi dậy chức năng tính dục nơi người khác, dù nam hay nữ, đã trưởng thành hay trẻ con. Bệnh ấu dâm không phải là căn bệnh của riêng giới độc thân, mà cả nơi những người đã lập gia đình. Căn bệnh này không chọn lựa đối tượng đặc thù, nhưng khi có điều kiện môi trường hay do bất trắc tâm lý từ thời ấu thơ, nó sẽ bộc lộ ra trong suy nghĩ hay qua hành vi. Nạn nhân thông thường là muốn bảo vệ hay phớt lờ kẻ đã gây ra cho mình, đặc biệt người gây ra ấy là một thành viên trong gia đình hay những người thân cận, những người đang dưỡng nuôi dạy dỗ hay trao ban sự an toàn mà họ đang rất cần. Hầu hết các nạn nhân nói ra kẻ đã lạm dụng mình chủ yếu là những người không mấy thân thiết với kẻ lạm dụng. Như thế, nếu kẻ lạm dụng đã “nắm thóp” nạn nhân thì nạn nhân không dám đối diện và tiết lộ[73]. Điều này cũng là một lời giải thích cho việc các lãnh đạo Giáo Hội không thể biết hết các trường hợp lạm dụng để giải quyết, chứ không phải che đậy.

Nhưng vấn đề lạm dụng trẻ em là một chấn thương khủng khiếp vẫn còn rớm máu, thế giới đòi được giải quyết rốt ráo, không những các người phạm tội ấu dâm mà còn các giáo phẩm che đậy các tội ác của họ nữa. Và thực tế kể cả Giáo Hội Công giáo ngày nay cũng không còn chịu đựng bất kỳ sự che đậy nào. Chính ĐTC Phanxicô bày tỏ lập trường: “Tôi không tin vào việc chủ trương rằng cần phải duy trì một tinh thần hợp đoàn để tránh gây thiệt hại cho hình ảnh của định chế…”. Ngài đòi hỏi các Giám mục: “Tất cả mọi vị Giám Mục cần phải thi hành thừa tác mục vụ của mình một cách hết sức cẩn thận để giúp bảo trì việc bảo vệ vị thành niên, và các vị sẽ bị trả lẽ về vấn đề này…”.

Các nạn nhân còn đòi hỏi mạnh mẽ hơn nữa, như bà Marie Kane nói: “thật là tai tiếng nếu cứ để những người che giấu tội ác vẫn còn giữ chức vụ trong phẩm trật Giáo hội và Giáo hội sẽ chẳng thay đổi gì nếu những người này vẫn giữ chức vụ của họ”; hay ông Saunders “Tôi cầu nguyện để ĐTC  gởi sứ điệp cho từng giám mục và từng địa phận trên toàn thế giới để họ sẽ không bao giờ che giấu những chuyện như thế này nữa”. Đức Phanxicô đã đồng ý: “Về vấn đề này thì không có chuyện cha che cho con[74]. Và nhiều Giám mục bị cáo giác là đã bao che cho những hành động do các linh mục của các Vị đã bị bó buộc từ chức hoặc sa thải, mà nổi bật nhất là trường hợp của ĐHY Bernard Law Giáo phận Boston, từ chức vào tháng 12/2002 ở tuổi 71.

ĐTC Phanxicô đau lòng nói: “Và tôi khiêm tốn xin anh chị em tha thứ. Tôi cũng xin anh chị em tha thứ cả các tội lỗi không chịu ra tay giải quyết về phía các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, những vị không đáp ứng một cách thích đáng trước việc tường trình lạm dụng do gia đình nạn nhân, cũng như bởi chính nạn nhân. Điều ấy lại càng gây ra khổ đau hơn nữa nơi những ai bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho các trẻ em vị thành niên có thể bị nguy cơ lạm dụng”.

Mới đây nhất, ngày 2/2/2015, ĐTC đã gửi thư đến các HĐGM và các Bề trên dòng tu để giới thiệu Ủy ban Tòa Thánh bảo vệ trẻ vị thành niên, gồm 17 người mà 8 là phụ nữ, trong đó có một nam một nữ đã từng là nạn nhân khi còn nhỏ, đồng thời kêu gọi cộng tác với cơ quan này. Ủy ban này mới được thành lập hồi tháng 3 năm 2014, với mục đích đưa ra những đề nghị và sáng kiến nhắm cải tiến các qui luật và thủ tục bảo vệ tất cả các trẻ thành viên và những người lớn dễ bị tổn thương. ĐTC nhắc nhở các HĐGM hoàn toàn thực thi lá thư của Bộ Giáo Lý Đức Tin ngày 3/5/2011, soạn thảo các đường hướng chỉ đạo để đối phó với những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, đề ra phương thế để định kỳ duyệt lại các qui luật và kiểm chứng việc áp dụng các qui luật ấy: thực hiện bất kỳ bước tiến nào cần thiết để bảo đảm cho việc bảo vệ trẻ vị thành niên và người lớn yếu thế, và để đáp lại nhu cầu của họ với sự công bằng và lòng thương xót.

Cũng trong lá thư này, ĐTC Phanxicô khẳng định lại lập trường không chấp nhận “giải pháp tốt của một thời”. Ngài nói: “ưu tiên không được cho bất kỳ loại quan tâm nào khác, bất kỳ bản chất của nó là gì, như ước muốn tránh tiếng xấu, vì tuyệt đối không có chỗ trong thừa tác vụ cho những ai lạm dụng trẻ vị thành niên[75].

Trong cuộc họp toàn thể đầu tiên hôm 6/2/2015, Uỷ ban Bảo vệ Trẻ vị thành niên rất lưu tâm đến trách nhiệm của các giám mục và sẽ đưa ra các đề nghị về quy tắc hành xử để Đức Thánh Cha phê chuẩn, bao gồm những hệ quả đối với các giám mục không tuân thủ các chuẩn mực bảo vệ trẻ em, hoặc không trả lời các cáo buộc[76]. Nhưng điều quan trọng nhất là làm sao hướng tới sự thay đổi thái độ của các chủng sinh, các nhân viên mục vụ, giáo lý viên, giáo viên, y tá làm việc trong các cơ sở Công giáo rằng bảo vệ trẻ vị thành niên là điều vô cùng quan trọng đối với Giáo hội[77].

Trong cuộc phỏng vấn của Valentina Alazraki của Đài truyền hình Mễ Tây Cơ[78], có câu hỏi về vấn đề xâm hại trẻ em và tuyệt đối không dung thứ cho chuyện này, ĐTC Phanxicô trả lời rằng Ủy ban Bảo vệ Trẻ em, mà ngài đã lập năm 2013 không phải lo về các vụ việc, nhưng là để bảo vệ trẻ em, nghĩa là ngăn chặn trước. Vấn đề xâm hại tình dục là một chuyện đau lòng, với hầu hết các vụ xâm hại diễn ra trong bối cảnh gia đình hay liên quan đến những người quen biết với cả gia đình. Dù chỉ một linh mục mắc tội này, cũng là lý do đủ để đánh động toàn thể cơ cấu Giáo hội phải đứng lên đương đầu với nó. Thật vậy, trách nhiệm của một linh mục là giáo dưỡng một bé trai bé gái lớn lên trong sự thánh thiện qua cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, vậy mà những gì họ làm là hủy hoại cuộc gặp gỡ này với Chúa Giêsu. Đức Phanxicô nói về tầm quan trọng của việc lắng nghe các nạn nhân, và kể lại cảm nghiệm của mình khi gặp 6 nạn nhân bị xâm hại. Giáo hoàng nói rằng sự hủy hoại nội tâm mà họ đã chịu thật tàn phá quá độ, và dù chỉ một linh mục mắc tội này cũng đủ để chúng ta thấy hổ thẹn và phải bắt tay làm mọi việc có thể để ngăn chặn. Giáo hoàng Phanxicô cũng công nhận sự dũng cảm của Đức Bênêđictô XVI khi công khai tuyên bố đây là một tội ác hủy hoại tạo vật ngây thơ, và thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã mở ra việc điều tra các tội ác này.

Thương Giáo Hội, thương ĐTC, chúng ta hãy gia tăng cầu nguyện và nỗ lực cải thiện tốt hơn mỗi ngày đời sống và sứ vụ ơn gọi của chúng ta bằng việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa cùng giáo huấn của Giáo Hội. Chúng ta sẽ không hiểu được theo cái nhìn hạn hẹp của con người tại sao Chúa lại để cho Hội Thánh, Thân Mình mầu nhiệm của Chúa Kitô, phải trải qua những tội lỗi gây đau khổ như thế? Không phải chỉ do những thành phần thấp bé, mà cả những cấp cao trong Giáo Hội? Satan đang cười nhạo Giáo Hội và hả hê về những chiến thắng của nó. Không, trong cái nhìn đức tin, qua những tổn hại và đau khổ này, Chúa đang dạy cho chúng ta bài học khiêm tốn, đừng tự phụ vì “cây lim cây gõ còn ngã, huống gì chim chim bời lời”, đừng cậy dựa vào sức mình, nhưng luôn luôn tựa nương vào sức Chúa. Chúng ta cũng phải thấy rằng Chúa cho chúng ta thấy Giáo Hội là của Chúa, Chúa gìn giữ và bảo vệ Giáo Hội của Chúa, không để cho cửa hỏa ngục thắng được như Chúa Kitô đã hứa với Phêrô, chứ nếu như Giáo Hội là một tổ chức của con người thì Giáo Hội đã tan nát từ lâu rồi. Đây có thể là “những dấu chỉ thời đại” mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đọc ra. Qua những dấu chỉ gây nên hổ nhục này, Chúa Giêsu vẫn luôn tìm cách chữa lành chúng ta. Nhưng chúng ta chỉ có thể được chữa lành khi can đảm hướng đến Chúa Giêsu. Những sự khó chịu và đau đớn đó sẽ gọt dũa bản thân chúng ta và làm cho chúng ta được thanh tẩy trở nên khiêm hạ hơn. Giáo Hội cũng trở nên khiêm tốn và được thanh lọc hơn, nhờ đã học được bài học từ những lầm lỗi, cố gắng trung thành hơn với Chúa Giêsu và Tin Mừng trong chân lý, công bằng và bác ái.

Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhu cầu cấp bách phải cầu nguyện, phải hoán cải trở về với Chúa, cải thiện đời sống, phải tân Phúc âm hóa bản thân và cơ cấu, như ĐTC Phanxicô đang nỗ lực thôi thúc, phải hợp tác với ơn Chúa và để cho Chúa tự do làm phần của Ngài. Trong tinh thần đức tin, chúng ta nhìn nhận Thiên Chúa toàn năng có thể biến đổi mọi sự, Ngài có thể rút ra điều tốt từ điều xấu, và Ngài sẽ không bao giờ để cho công trình cứu độ của Ngài phải thất bại, vì nó đã được mua bằng giá máu của Con Chí Ái Ngài, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, chúng ta hãy cảm tạ và ca ngợi Chúa, vì tất cả là hồng ân. Amen.

 

(5)

IV

 LỜI ĐÁP CHO CÁC THÁCH ĐỐ VÀ KHỦNG HOẢNG:  TỰ NGUYỆN SỐNG LUẬT ĐỘC THÂN LINH MỤC


Trong xã hội tục hóa hôm nay, ảnh hưởng của tinh thần tôn sùng vật chất đang thao túng mãnh liệt: Địa vị, tiền bạc và lạc thú được đại đa số xem như là tất cả hạnh phúc của con người. Sự phóng túng tình dục và chủ nghĩa hưởng lạc cuốn hút bao trái tim và đầu óc, nhất là của người trẻ. Do đó, độc thân khiết tịnh, nhất là nơi giới đàn ông, bị nghi ngờ và coi là không thể. Nhưng đối với Giáo Hội Công giáo Rôma, đời sống độc thân linh mục là một thực hành bắt buộc rất cựu trào dựa vào truyền thống Tông Đồ, chẳng hạn vào thế kỷ IV, Công Đồng Carthage (năm 390) đã nói: “Những người phục vụ các mầu nhiệm thánh phải hoàn toàn tiết dục, hầu những gì các Tông Đồ đã giảng dạy và người xưa gìn giữ thì nay chúng ta cũng tuân giữ nó.” Từ Công đồng Latêranô I (năm 1123), luật độc thân được áp dụng trong Giáo Hội Công Giáo đối với mọi linh mục theo lễ nghi Latinh. Công đồng Trentô (năm 1543) là một cuộc canh tân thiêng liêng sâu xa và bền bỉ về chức linh mục và thừa tác mục vụ của linh mục.

Thời đại chúng ta chứng kiến nhiều cuộc tranh luận về vấn đề kỷ luật này. Một số người đã cho rằng chẳng mấy hữu lý khi đòi buộc những người sẽ chịu chức linh mục phải sống bậc độc thân; họ vịn cớ cả Chúa Giêsu lẫn thánh Phaolô không trình bày bậc độc thân như là một thực hành bắt buộc đối với các môn đệ. Một ít người còn đi xa hơn nữa đổ lỗi cho bậc độc thân phải chịu một phần trách nhiệm về cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục và những gương mù giới tính đã xảy ra tại nhiều nước Bắc Mỹ và Âu Châu.[79] Dù vậy, qua Sắc lệnh Chức vụ và Đời sống linh mục của Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội vẫn duy trì truyền thống không thay đổi, và nhấn mạnh đặc biệt đến mối liên hệ chặt chẽ giữa độc thân khiết tịnh và đức ái mục tử vì Nước Trời của chức linh mục thừa tác[80]. ĐGH Phaolô VI trong Sacerdotalis Coelibatus khẳng định: “Luật độc thân thánh mà Giáo Hội canh giữ từ nhiều thế kỷ nay như một viên ngọc quý rạng ngời, bảo tồn toàn bộ giá trị của nó cả ở thời đại chúng ta vốn tiêu biểu bằng một sự biến đổi sâu xa các não trạng và các cơ cấu.[81]

THĐGMTG năm 1971 khẳng định sự cần thiết phải duy trì luật độc thân linh mục trong Giáo Hội Latinh, đồng thời đưa ra những giải thích về nền tảng, các động cơ và điều kiện ủng hộ nó mà linh mục thi hành với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô.[82] Tông huấn hậu THĐGMTG Pastores Dabo Vobis trình bày luật độc thân như một đòi hỏi căn bản trong toàn cảnh bốn chiều kích đào tạo nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ.

Bộ Giáo luật 1983 lặp lại: “Các Giáo sĩ buộc phải giữ tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời, và vì thế phải tuân giữ luật độc thân, ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban, nhờ đó các thừa tác viên chức thánh có thể kết hiệp dễ dàng hơn với Đức Kitô bằng một tâm hồn không chia sẻ, tự hiến trọn vẹn và tự do hơn cho việc phục vụ Chúa và con người.[83]

Sách Giáo lý Công giáo số 1599 lặp lại: “Trong Giáo Hội Latinh, thường chỉ truyền chức linh mục cho các ứng viên tự nguyện sống độc thân và công khai biểu lộ ý muốn này vì yêu mến Nước Trời và phục vụ tha nhân.

Trong cuộc họp với lãnh đạo các Bộ của Giáo triều ngày 16/11/2008, ĐTC Biển Đức XVI đã tái khẳng định giá trị của chọn lựa đời sống độc thân của các linh mục, hợp với truyền thống Công Giáo chưa bị gián đoạn và lập lại đòi buộc phải có một đào tạo nhân bản và Kitô giáo vững vàng cho cả các chủng sinh lẫn các linh mục đã chịu chức.

Chỉ Nam cho thừa tác vụ và đời sống linh mục (năm 1994 lẫn năm 2013) của Bộ Giáo sĩ khẳng định: “Xác tín vào những động cơ thần học và mục vụ sâu xa làm cơ sở cho mối tương quan giữa sự độc thân và chức linh mục, được soi sáng bằng chứng tá còn giá trị ngày hôm nay của rất nhiều cuộc đời linh mục vững mạnh về mặt thiêng liêng và Phúc Âm, mặc dầu xảy ra nhiều trường hợp đau thương, Giáo Hội đã tái xác nhận, qua Công đồng Vaticanô II và giáo huấn của các Giáo hoàng về sau, ‘ý muốn mãnh liệt duy trì luật đòi buộc tình trạng độc thân vĩnh viễn tự do chọn lựa cho các ứng viên linh mục theo nghi lễ Latinh,[84] xác tín rằng đó là ân huệ mang lại thiện ích cho Giáo Hội và thế giới.[85]

Từ thời các tông đồ, Giáo Hội đã muốn bảo tồn ơn tiết dục vĩnh viễn của giáo sĩ và hướng về giải pháp chọn ứng viên chức thánh nơi những người độc thân.[86] Sự dấn thân ơn gọi linh mục được lựa chọn cách tự do và quảng đại là lời đáp trả hồng ân quảng đại của Thiên Chúa.[87] Và thực tế hiện nay, để được thụ phong linh mục, ứng viên chức thánh phải lớn tiếng tuyên hứa với Giám Mục chủ phong, trước mặt cộng đoàn, sống độc thân linh mục và vâng lời Giám Mục Bản Quyền.

Độc thân linh mục được ghi tạc ngay tại nội tâm của một tương quan đối thoại liên lỉ giữa Thiên Chúa và mỗi linh mục. Qua việc cho đi chính đời sống mình bằng cách chọn đời sống độc thân, linh mục càng ngày càng sống cho Thiên Chúa và tha nhân hơn, lột bỏ liên lỉ như một sự “tự hủy”, làm cho mình “nhỏ bé đi để cho Chúa lớn lên” và góp phần vào sự tăng trưởng của Giáo Hội. Độc thân linh mục không thể tách rời khỏi toàn bộ đời sống kitô “không còn là tôi sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi”, và linh mục luôn cố gắng nên đồng hình dạng với Chúa Kitô Mục Tử “ban sự sống mình cho đoàn chiên[88].

Chính trong khung cảnh đó mà sự tự do của linh mục không ngừng được củng cố và trưởng thành để luôn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa và dân Ngài. Chấp nhận sống độc thân, linh mục gặp được kho báu hàm chứa việc “mang trong thân xác sự chết của Chúa Giêsu, để sự sống của Ngài cũng được bày tỏ trong thân xác mình”, nhờ đó học biết ban phát sự sống mình cho đoàn dân được trao phó cho mình, được thúc đẩy loan báo Tin Mừng “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện[89].

Mỗi thời đại diễn tả và thực hành đức tin trong não trạng văn hóa riêng và tùy theo mức độ được đâm rễ chắc chắn trong Truyền Thống mà chúng ta sống nhờ đó. Giáo huấn của Giáo Hội cung cấp cho linh mục những căn bản cần thiết để suy nghĩ và định hình lời đáp trả của mình với hồng ân của Thiên Chúa trong bậc độc thân. Cuộc sống độc thân khiết tịnh tự bản chất là liên hệ, liên hệ với Thiên Chúa, liên hệ với con người và thế giới. Nó định phẩm căn tính linh mục là một con người của liên hệ, nhất là với Giám Mục và linh mục đoàn giáo phận mình. Nó mời gọi linh mục nhận rõ sự bổ túc của mình với các bậc sống khác và những mối liên hệ mình phải duy trì với họ. Nó cũng cho phép linh mục thiết lập các liên hệ nhân bản, kể cả các liên hệ bạn hữu chân chính với người nam lẫn người nữ.

Nói cách khác, nhờ đời sống độc thân thánh thiện, linh mục giáo phận thực sự trở nên người của Thiên Chúa[90] người cho con người, qua những điểm giáo huấn nổi bật sau đây:[91]

Sống độc thân linh mục là một cách thức yêu mến và hiện hữu với tha nhân. Nó khai mở một cuộc sống không đóng kín nơi chính mình, nhưng khai sáng những liên hệ và đời sống cộng đồng, tôn trọng phẩm giá những người mình gặp gỡ, kêu gọi mọi người cùng nhau tìm kiếm sự thánh thiện và làm cho Nước Chúa ngự đến.

Sống độc thân khiết tịnh hệ tại sự dấn thân tất cả cuộc đời: Nhờ bí tích Truyền Chức, lời hứa sống độc thân linh mục đâm rễ sâu xa vào chính thực thể con người linh mục và phải được nhắc lại trong suốt chiều dài đời sống linh mục, đặc biệt trong Lễ Truyền Dầu Thứ Năm Tuần Thánh và dịp tĩnh tâm năm linh mục.

Đời sống độc thân linh mục tìm được tất cả ý nghĩa của nó trong liên hệ với các lời khấn khác, được diễn tả ra hay hiểu ngầm, mang dấu ấn cuộc sống giản dị và hướng tới một đời sống cầu nguyện chuyên cần, vì đây là một hồng ân phải nhận lãnh và làm mới lại không ngừng, khuôn mình cách mật thiết với những mầu nhiệm mình cử hành.

Đời sống độc thân linh mục giả thiết một khổ hạnh, dù ngày nay ít được nhấn mạnh, nhưng vẫn là thiết yếu. Sự thận trọng, dè dặt, tỉnh thức, từ bỏ, chấp nhận mọi thánh giá trong suốt cả đời sống, và những yếu tố khác cùng loại, làm thành bấy nhiêu phương diện của một quan niệm toàn vẹn về cuộc sống độc thân khiết tịnh.[92]

Chọn lựa sống độc thân linh mục là trao hiến đời sống mình để nhắm tới một sự phong phú đặc biệt.[93] Linh mục chọn sống độc thân phải có một quan niệm lành mạnh về tình phụ tử và danh hiệu “cha” mà những người được trao phó cho mình thường gọi mình. Đời sống của ngài phải hoàn toàn quy hướng về sự tăng trưởng của họ trong đức tin, đức cậy và đức mến.

Linh mục càng suy tư và cầu nguyện Thánh Kinh càng thấu hiểu căn bản Phúc Âm của bậc độc thân linh mục: kỷ luật của Giáo Hội Roma không chỉ thuộc về sự gắn bó với truyền thống lâu đời không hề xa lạ với Thánh Kinh, mà còn mặc lấy một hình thức bắt buộc, cho dù không được đặt định trong Tân Ước. Nhưng bằng nhiều cách, Tân Ước vẫn làm vang lên lời mời gọi vào bậc độc thân linh mục.

Đời sống độc thân linh mục phải tựa trên nền tảng thần học nghiêm chỉnh và sâu xa cho phép hiểu rõ ý nghĩa Kitô học, Giáo hội học, Thánh Kinh học, ý nghĩa hôn ước và tông đồ, cũng như tính “thích hợp” của bậc độc thân với chức vụ linh mục mà sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục nói đến.

Ngoài ra còn phải lưu ý đến tầm quan trọng của cộng đồng giáo dục như là yếu tố căn bản của việc đào tạo khởi đầu về đời sống độc thân linh mục, nhờ sự phân định và quân bình giữa những thời gian trao đổi và trầm mặc, những chia sẻ giữa chủng sinh và nhà đào tạo, trong sự tương tác với các cộng đồng khác, là những cộng đồng tự nhiên như gia đình hoặc cộng đồng Giáo hội như giáo xứ.

Như thế, độc thân linh mục phải là một chọn lựa dấn thân tự do và tự nguyện được Giáo Hội chuẩn nhận, chứ không phải là một gánh nặng áp đặt từ bên ngoài. Giáo Luật nhắc nhở: “Đương sự phải được tự do hoàn toàn, tuyệt đối không được cưỡng bách bằng bất cứ cách nào và vì bất cứ lý do gì, cũng không được ngăn cản người đủ khả năng xứng hợp theo Giáo luật.”[94] Và kỷ luật độc thân trở nên như một sự che chở bảo vệ và một gánh nhẹ nhàng làm cho chúng ta ngày càng được thăng tiến và triển nở,[95] nhờ đó chúng ta  thống nhất được đời sống nội tâm và mọi hoạt động tông đồ, là điều kiện tất yếu để thành công, hạnh phúc và thánh thiện.

 

Phần Hai

CON ĐƯỜNG CHỦNG VIỆN NHẮM TỚI: TIẾN TRÌNH ƠN GỌI NĂM BƯỚC

                Kính thưa Quý Thầy,

Công cuộc đào tạo của Đại Chủng viện nhằm đạt tới kết quả cuối cùng là khẳng định một ứng sinh có ơn gọi linh mục và giới thiệu lên Đấng Bản Quyền xin phong chức linh mục cho ứng sinh đó, sau khi bảo đảm được rằng qua bốn chiều kích đào tạo là nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ tông đồ, ứng sinh đã học biết cách làm linh mục và được trang bị các khả năng để thi hành sứ vụ linh mục sau này. Lúc ấy, ứng sinh mới thực sự làm linh mục. Như vậy, tất cả mọi giáo huấn, mọi môn học, mọi tập luyện và mọi sinh hoạt của Chủng viện đều được tương tác hài hòa nhắm tới một mục đích chung là ứng sinh có ơn gọi linh mục không? Và đã đủ điều kiện cùng tư cách để được truyền chức linh mục chưa?

Để góp phần trả lời câu hỏi đó, hôm nay chúng ta cùng lần bước theo Tiến trình ơn gọi năm bước. Quả thế, tất cả mọi sự đều có tiến trình của nó, và phải tiệm tiến đi từng bước trong trật tự, đi sai nhịp là sẽ bị đảo lộn, rối tung lên và có nguy cơ thất bại. Ơn gọi cũng thế, không thể đòi hỏi anh em mới vào Chủng viện phải giống như anh em sắp ra trường, cũng như không thể chấp nhận anh em năm cuối mà cũng dẫm chân tại chỗ như khi mới vào, và càng không thể chấp nhận được người đi thụt lùi hoặc đi trệch con đường. Vì thế, việc nói về tiến trình ơn gọi năm bước này hữu ích không phải chỉ riêng cho các anh em mới bắt đầu, mà cả những anh em lớp lớn, và thậm chí cả những người đã chịu chức vẫn còn cần thiết để sống tốt và thành công trong đời sống và sứ vụ ơn gọi của mình cho đến cùng, trong định hướng và bối cảnh Phúc Âm Hóa.

Sống tiến trình ơn gọi năm bước này là một công trình hợp tác của mọi thành phần Giáo Hội với ơn Chúa. Nhưng việc đầu tiên phải làm là cầu nguyện, vì ơn gọi là của Chúa ban, và việc theo đuổi ơn gọi là điều Chúa muốn chứ không phải con người muốn mà thành. Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm cùng Chúa Cha trước khi chọn 12 tông đồ từ giữa các môn đệ[96]. Và cũng chính Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện cho có thêm thợ gặt, như thánh Luca viết: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về[97]; còn thánh Matthêu thì nói chi tiết hơn: “Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về[98]. Giáo Hội cầu nguyện, Giáo phận cầu nguyện, Chủng viện cầu nguyện, giáo xứ cầu nguyện, gia đình cầu nguyện, những người thân quen cầu nguyện, nhất là chính ứng sinh cầu nguyện để mình được Chúa thương chọn gọi: Dạ, con đây, xin sai con đi”[99].

Việc thứ hai là phải vun trồng và bảo vệ ơn gọi: phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ơn gọi được triển nở, phải cất đi hay tránh xa những môi trường, những mối quan hệ gây hại cho ơn gọi, nhất là các tương quan với người khác phái trong thế giới tục hóa và hưởng thụ hôm nay, như chúng ta đã xem qua trong phần một.

1. BƯỚC THỨ NHẤT: CHÚA GỌI

(Gọi tên con)

Chúa gọi trực tiếp từ trong sâu thẳm cõi lòng mỗi người, hay gián tiếp qua người nọ kẻ kia, hoặc Chúa phối hợp cả hai cách để nói lên kế hoạch yêu thương quan phòng của Chúa cho mỗi người, với từng bối cảnh cụ thể của cuộc sống mỗi người. Ứng sinh trong giai đoạn quan trọng này cần có người đồng hành cùng tìm kiếm và phân định ý Chúa. Đó là vai trò của các nhà đào tạo, nhất là vị linh hướng.  Chúng ta thử ngắm nhìn một số ơn gọi điển hình trong Thánh Kinh.

Trước hết là câu chuyện ơn gọi của cậu bé Samuel. Chắc anh em đã nhiều lần đọc đoạn sách này: “Cậu bé Samuen phụng sự Đức Chúa, có ông Êli trông nom. Thời ấy, lời Đức Chúa thì hiếm và thị kiến cũng không hay xảy ra. Một ngày kia, ông Êli đang ngủ ở chỗ ông, mắt ông đã bắt đầu mờ, ông không còn thấy nữa. Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuen đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Đức Chúa gọi Samuen. Cậu thưa: “Dạ, con đây!” Rồi chạy lại với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi.” Cậu bèn đi ngủ. Đức Chúa lại gọi Samuen lần nữa. Samuen dậy, đến với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi.” Bấy giờ Samuen chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Đức Chúa lại gọi Samuen lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu bé. Ông  nói với Samuen: “Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: ‘Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Samuen về ngủ ở chỗ của mình. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuen! Samuen!” Samuen thưa: “Xin hãy phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe[100]. Ai đã giúp chúng ta nhận ra lời mời gọi của Chúa?

Câu chuyện thứ hai là tiến trình ơn gọi của Đức Mẹ[101]: Thiên Chúa đi bước trước sai sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Thoạt đầu Đức Mẹ băn khoăn: Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì. Sứ thần liền giải thích: “Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Đức Mẹ phản bác lại vì trái với quyết ý và kế hoạch của Mẹ cho cuộc đời mình, cũng như Mẹ nghĩ theo cách tự nhiên của con người: “Việc ấy làm sao xảy ra được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần lại giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” Sứ thần còn thuyết phục với bằng chứng: “Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Bấy giờ Đức Mẹ từ bỏ, hay đúng hơn lụy phục ý muốn và kế hoạch riêng của Mẹ cho ý muốn và kế hoạch của Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.

Chúng ta thấy Thiên Chúa không hành động nghịch lại tự do của con người, mà Ngài cần đến sự ưng thuận tự do của tạo vật của Ngài: Cả trời và đất, cả thiên đàng và trần thế, cả chính Thiên Chúa, đều chờ đợi lời đáp trả của Mẹ Maria. Mẹ trở nên mẫu gương cho chúng ta trước lời mời gọi của Chúa. Mẹ có ý muốn và kế hoạch cho cuộc đời của Mẹ. Nhưng một khi thiên sứ giải thích và thuyết phục, Mẹ nhận ra ý muốn và kế hoạch của Chúa trên cuộc đời Mẹ thì Mẹ liền mau mắn lụy phục ý muốn và kế hoạch của Mẹ cho ý muốn và kế hoạch của Chúa. Ai trong chúng ta cũng có ý muốn và kế hoạch riêng cho đời mình, liệu ý muốn và kế hoạch đó có phù hợp với ý muốn và kế hoạch của Chúa cho mình không; và nếu không thì chúng ta có dám luỵ phục ý muốn và kế hoạch của mình cho ý muốn và kế hoạch của Chúa không, vì chúng ta chỉ thực sự triển nở và hạnh phúc trong ý muốn và kế hoạch của Chúa cho mình?

Câu chuyện thứ ba là ơn gọi của bốn Tông đồ đầu tiên: “Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Giênêsarét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. Giảng xong, Người bảo ông Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” Ông Simon đáp:“Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Simon sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người”[102].

Là những người đánh cá chuyên nghiệp mà suốt cả đêm các ông không bắt được con cá nào, dù là thời gian thuận tiện cho việc đánh bắt, vì ban đêm các phiêu sinh vật nổi lên mặt nước và cá theo đó mà tìm thức ăn. Ấy thế mà khi có Chúa Giêsu ở cùng trên thuyền và vâng lời Ngài, dù Ngài không từng trải nghề cá, các ông được một mẻ cá lạ lùng. Và chính mẻ cá lạ lùng này đã thúc đẩy các tông đồ mau mắn theo Chúa. ĐTC Phanxicô khuyến khích: “Hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu. Chúa luôn luôn ở với chúng ta. Người ở bên bờ của cuộc đời chúng ta, Người đến gần những thất bại của chúng ta, những yếu đuối của chúng ta, những tội lỗi của chúng ta, để biến đổi chúng[103].

Lời mời gọi của Chúa thật đa dạng và phong phú, đến như bất ngờ và dường như không thể. Chúng ta có thể kể đến lời mời gọi Matthêu bên bàn thu thuế[104], Maiđệliên gái điếm[105]  hay Phaolô bắt đạo[106] và bao nhiêu kỳ tích ơn gọi của các thánh, cùng những người mà chúng ta có thể biết được… Nhìn vào câu chuyện đời với những biến cố nổi bật của chính mỗi người chúng ta, thành công hoặc thất bại, thánh thiện hoặc tội lỗi, các nhà đào tạo, nhất là vị linh hướng, có thể giúp chúng ta đọc được dấu chỉ lời mời gọi của Chúa, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp bởi ai đó gợi ý thúc đẩy. Có thể là cha mẹ, cha xứ, thầy xứ, bạn bè… giống như Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ mình, hoặc như Anrê dẫn em mình là Simon, Philipphê dẫn Nathanael đến với Chúa Giêsu… Hôm nay, Chúa vẫn luôn tiếp tục kêu gọi và đổi mới lời mời gọi của Ngài qua từng biến cố cuộc đời của chúng ta, chúng ta đừng để đánh mất cơ hội.

Những ngày tĩnh tâm năm này là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta đọc lại lịch sử ơn gọi của mình, và nghiêm túc bắt đầu việc lượng sức để quyết định dứt khoát ơn gọi của mình, càng sớm càng tốt, ích lợi vừa cho bản thân vừa cho Giáo Hội và Giáo phận. Dù đã ở trong Chủng viện một thời gian, lâu mau tuỳ người, chúng ta cũng vẫn đang tìm hiểu ơn gọi mỗi ngày cho chín chắn hơn, bằng việc kiểm tra chính mình và các ân ban của mình xem có phù hợp với đời sống và sứ vụ linh mục không. Chúng ta phải phân định và đánh giá các ân huệ ấy xem có ăn khớp với kế hoạch chung và nhu cầu của Giáo Hội và Giáo phận hay không. Dĩ nhiên phải có hòa điệu trong việc sống các ân ban đa dạng ấy mới sống ơn gọi một cách vui tươi hạnh phúc được.

Bên cạnh đó, những người có trách nhiệm đào tạo cũng tìm hiểu và đánh giá để đón nhận và thăng tiến chúng ta, như Chúa Giêsu đã thẩm định ông Nathanael là “người đích thực, lòng dạ không có gì gian dối” và đã tiếp nhận ông vào hàng ngũ tông đồ của Chúa[107]. Các ngài cũng xem xét tính tình, khả năng, lòng đạo đức, ý hướng và động lực của chúng ta có phù hợp với ơn gọi linh mục không. Trong thư gửi người công giáo Á Nhĩ Lan về những tổn thương đau đớn do nạn lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ, ĐTC Biển Đức XVI qui kết là “do các thủ tục thiếu sót trong việc ấn định ra tư cách xứng đáng của các ứng viên chức linh mục và cuộc sống tu trì; thiếu sót trong việc đào tạo nhân bản, luân lý, tri thức và thiêng liêng trong các chủng viện và tập viện.[108] Do đó, chúng ta được mời gọi để được đào tạo và tự đào tạo nên tốt, vì tội thì tha lỗi thì sửa, mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai. Đào tạo đích thực biến người lầm lỗi thành người không còn lầm lỗi, biến người xấu thành người tốt, người tốt thành người tốt hơn để đi đến sự hoàn hảo thánh thiện.

Trong những giờ suy niệm cá nhân trước Thánh Thể, chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì đã kêu gọi chúng ta, đồng thời xin cho chúng ta được kiên trì cộng tác với ơn Chúa, dù chúng ta không tốt hơn và nhiều khả năng hơn nhiều anh em đồng tuổi khác, để tỏ rõ tình thương vô điều kiện và quyền tự do chọn gọi của Chúa, như Ngài đã nói: “Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”. ĐTC Biển Đức XVI khích lệ: “Các con đã nghe theo tiếng gọi của Chúa Kitô, và được cái nhìn đầy yêu thương của Ngài lôi cuốn. Các con hãy hướng mắt lên Ngài: qua việc Nhập thể, Ngài mang lại cho thế giới mạc khải sau cùng về Thiên Chúa, và nhờ sự Phục sinh, Ngài đã trung thành thực thi lời hứa. Hãy tạ ơn Chúa vì dấu chỉ yêu mến đánh dấu mỗi người trong các con”[109].

Còn ĐTC Phanxicô thì nhắc nhở: “Trở thành linh mục không phải là một lựa chọn chúng ta thực hiện hoàn toàn bằng bản thân mình… Câu trả lời của chúng ta được kích hoạt bởi một lời mời gọi tình yêu. Đó là một cái gì bạn cảm thấy bên trong. Cái gì đó làm chúng ta không yên. Và bạn đáp trả lại ‘Vâng’[110].

(6)

2. BƯỚC THỨ HAI: CHÚNG TA ĐÁP TRẢ

Hy vọng chúng ta đã đáp lại lời mời gọi của Chúa và sẽ quảng đại đáp trả cho đến cùng, vì ơn gọi “không phải là một chọn lựa luân lý hay một lý tưởng cao quý, nhưng là gặp gỡ với chính Chúa Giêsu, một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới, và qua đó là một hướng đi có tính cách quyết định[111]. Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài qua các biến cố cuộc sống thì chúng ta cũng phải luôn đổi mới lời đáp trả của chúng ta qua các biến cố cuộc sống ấy, dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, thánh thiện hay tội lỗi.

Nhưng trong việc đáp trả theo Chúa này, chúng ta phải để ý hai yếu tố ThíchHợp. THÍCH là yếu tố chủ quan và tình cảm có thể theo phong trào, nhất thời và hay thay đổi; còn HỢP là yếu tố khách quan đòi hỏi khả năng và phẩm chất để được bền vững cho đến cùng. Tự mình đánh giá mình có thế bị ảo tưởng và sai lầm, nên chúng ta cần có các nhà đào tạo hướng dẫn để khỏi chọn lựa sai kế hoạch của Chúa. Thích làm linh mục mà không hợp là không được, nhất là khi có trở ngại Giáo luật hay gương xấu nặng công khai. Trái lại, dù được mọi người đánh giá là hợp mà đương sự không thích thì cũng không thành.

Như thế, để thẩm định việc đáp trả ơn gọi cần có sự hợp tác tích cực giữa các nhà đào tạo và ứng sinh, cùng với ơn Chúa. Cầu xin Chúa Thánh Thần dẫn dắt cả đôi bên, vì ai cũng có thể gặp phải sai lầm ngoài ý muốn. Người có trách nhiệm đào tạo sẽ đồng hành sâu sát với chúng ta, tiệm tiến thẩm tra và giúp chúng ta biện phân ý Chúa và thực thi ý Chúa qua câu chuyện đời của chúng ta, và mời gọi chúng ta tham gia vào việc tự đào tạo chính chúng ta.

Đời sống ơn gọi luôn là lối đi ngược dòng với xu hướng thời đại của nền văn minh sự chết (tục hóa, hưởng thụ vật chất và khoái lạc). Do đó, chúng ta phải kiên trì sử dụng mọi phương thế tự nhiên và siêu nhiên để gìn giữ và tự bảo vệ lấy mình trong mọi mối tương quan hầu xứng hợp theo đuổi lý tưởng ơn gọi linh mục cho đến cùng. ĐTC Phanxicô nhắn nhủ: “Các con đừng sợ đi ngược dòng đời, khi mà những giá trị được bày ra cho chúng ta là những giá trị xấu, muốn cướp mất hy vọng của chúng ta, những giá trị được ví như những bữa ăn, khi bữa ăn không lành mạnh, nó sẽ làm hại chúng ta; những giá trị này làm hại chúng ta. Nhưng chúng ta phải đi ngược dòng đời! Và các con phải là người đi tiên phong:“hãy đi ngược dòng đời và hãy lấy làm hãnh diện khi đi ngược dòng đời như vậy”[112].

Trong việc đi ngược dòng này, chắc trong anh em chúng ta đây cũng có người đang trăn trở đắn đo. Kinh nghiệm bản thân mà ĐTC Phanxicô đã chia sẻ khi còn là Hồng Y cho chúng ta một chỉ dẫn: “Lúc tôi còn là một chủng sinh, tôi bị lóa mắt bởi một cô gái tại đám cưới của một ông chú. Tôi bàng hoàng trước vẻ đẹp và trí thông minh của nàng… quả đúng thế, tôi bàng hoàng một thời gian khá lâu. Tôi luôn nghĩ đến nàng không thôi. Sau đám cưới ấy, tôi trở lại chủng viện, nhưng đến cả một tuần lễ sau, tôi vẫn không cầu nguyện được, vì mỗi lần cố gắng cầu nguyện thì cô gái lại xuất hiện trong đầu tôi. Tôi phải suy nghĩ lại xem tôi đang làm gì đây. Tôi vẫn còn tự do vì mới chỉ là chủng sinh thôi, nghĩa là tôi có thể trở về gia đình, thế là xong. Nhưng tôi phải suy nghĩ về chọn lựa của mình một lần nữa. Và một lần nữa, tôi đã chọn, hay đúng hơn, tôi để mình được chọn bởi con đường tu trì. Hiện tượng này mà không xẩy ra mới bị coi là chuyện bất bình thường. Và khi nó xẩy ra, người ta bắt buộc phải rà lại hướng đi của mình một lần nữa. Đây là vấn đề ta phải chọn lựa lại hoặc cho rằng ‘điều tôi đang cảm xúc thật là đẹp và sợ sau này sẽ không trung thành với ơn gọi, thì nên rời chủng viện là hơn’. Nếu việc này xẩy ra cho một chủng sinh, tôi thường giúp họ ra đi bằng an để trở thành một Kitô hữu tốt, chứ không thành một linh mục xấu.

Như thế, chúng ta có trách nhiệm đối mặt với những gì đã xảy ra cho mình và giải quyết chúng, với sự giúp đỡ của các nhà đào tạo, nhất là vị linh hướng, để việc chọn lựa đời sống ơn gọi linh mục có hướng dứt khoát sớm, nhờ đó tiến trình được đào tạo và tự đào tạo được hiệu quả. Ngoài ra, chúng ta cũng cần được sớm biết rõ những khoản Giáo Luật liên quan, kẻo để quá muộn sẽ tiến thối lưỡng nan, thiệt hại cho Giáo Hội lẫn cho đương sự.

–       GL 1025: Phải trải qua một thời gian thử thách, hội đủ những đức tính thích hợp, không bị điều bất hợp luật và ngăn trở nào, đủ các giấy tờ cần thiết, và phải được điều tra kỹ lưỡng (x. GL 1051)

–   GL 1026: Đương sự phải được tự do hoàn toàn, tuyệt đối không được cưỡng bách bằng bất cứ cách nào và vì bất cứ lý do gì, cũng không được ngăn cản người đủ khả năng xứng hợp theo Giáo luật.

–   GL 1029: Chỉ nên cho tiến chức những ứng sinh có đức tin tinh tuyền, ý hướng ngay lành, kiến thức cần thiết, danh thơm tiếng tốt, đức hạnh vẹn toàn, nhân đức vững vàng, các đức tính về thể lý và tâm lý phù hợp với chức thánh sẽ lãnh nhận.

–   GL 1036-1037: Ứng viên phải đệ trình một bản tuyên bố do chính tay mình viết và ký tên xác nhận mình tự nguyện và tự do xin được chịu chức và sẽ vĩnh viễn dấn thân cho thừa tác vụ của Giáo Hội, đã công khai đảm nhận nghĩa vụ sống độc thân trước Thiên Chúa và Giáo Hội.

–   GL 1041: Những bất hợp luật không được chịu chức như điên khùng/bệnh tâm thần, không đủ năng lực chu toàn thừa tác vụ; bội giáo, lạc giáo hay ly giáo; mưu toan kết hôn, dù chỉ là hôn nhân dân sự; tội sát nhân, phá thai có hiệu quả, hay tích cực cộng tác vào; chủ tâm hủy hoại thân thể mình hay kẻ khác, đã mưu toan tự vẫn; đã thực hiện một hành vi thuộc bí tích truyền chức (vd. ngồi vào tòa giải tội nghe xưng tội).

–   GL 1043: Buộc tín hữu phải trình báo với Bản quyền về người có những ngăn trở để nhận lãnh chức thánh.

–   GL 1045: Dù không biết là có những điều bất hợp luật và những ngăn trở thì vẫn bị mắc những điều ấy.

–   GL 1051: Phải điều tra theo các phương thế hữu ích tùy hoàn cảnh mỗi thời và mỗi nơi.

–       GL 239,2: Mỗi chủng viện phải có ít nhất một vị linh hướng và những tư tế khác được Giám Mục chỉ định vào nhiệm vụ giải tội/linh hướng. Xuân Bích có ưu điểm trong vấn đề này là tất cả các cha giáo đều làm linh hướng, chỉ trừ cha giám đốc.

–   GL 240,2: Không bao giờ được hỏi ý kiến của vị linh hướng hay cha giải tội trong việc cho chủng sinh tiến chức hoặc sa thải.

–   GL 246, 4: Ứng sinh phải thường xuyên lãnh nhận bí tích sám hối và tự do chọn lựa cho mình một vị linh hướng để có thể tin tưởng bày tỏ lương tâm. Điều mà vị linh hướng khám phá về người thụ hướng ở toà trong sẽ không được tiết lộ ra ở toà ngoài.

Ứng sinh cũng cần có một cam kết viết tay về ý ngay lành và tính trung thực của việc theo đuổi ơn gọi, liên quan đến bối cảnh gia đình “xét như chủng viện đầu tiên,”[113] những điều kiện bên ngoài, những điều kiện tự nhiên và những điều kiện thiêng liêng. Ứng sinh cũng được yêu cầu trải qua một cuộc kiểm tra sức khỏe tổng quát và trắc nghiệm tâm lý; lãnh vực đời sống tình cảm/tính dục cũng cần được khảo sát và chữa lành hầu đạt được sự ổn định cần thiết cho đời sống linh mục mai ngày; những gánh nặng nội tâm cần được tháo gỡ và giải quyết nhờ sự trợ giúp của các nhà đào tạo, nhất là vị linh hướng.[114]

Nhưng cái gì có thể xảy ra khi chúng ta khám phá ra rằng chúng ta không thích hợp? Thưa hoặc là phải rời Chủng viện, hoặc là phải thích nghi, uốn nắn chính bản thân và nỗ lực hội nhập. Sự việc ấy đôi khi gây ra cảm giác khó chịu và cũng gây nên những khó khăn, vì không phải lúc nào cũng có thể nhận ra ngay tác động của Chúa Thánh Thần. Về lòng chân thật trong ơn gọi, tôi xin kể câu chuyện “Nhà vua chọn người kế vị”: Một vị vua kia thật hiền, hết lòng yêu thương lo cho dân cho nước, nhưng chẳng may Chúa không cho sinh con nối dòng. Vua lên kế hoạch chọn người kế vị trong hàng con cháu của hoàng thân quốc thích. Vua giao cho mỗi người một hạt giống, chủng loại khác nhau, để chăm bón thành cây kiểng, hẹn ba năm sau mở cuộc thi do cả triều đình chấm, dưới sự chủ tọa của chính vua. Đến hẹn, các công tử của hoàng thân quốc thích đua nhau mang thành quả của mình đến dự thi. Có nhiều chậu kiểng tuyệt đẹp và quí giá, ai cũng trầm trồ khen ngợi, và các chủ nhân hớn hở nắm chắc phần thắng. Cuối rốt là một công tử trẻ tuổi bê một chậu đất không cây dâng lên, khóc tức tưỡi. Vua đích thân thẩm vấn. Cậu nghẹn ngào thưa: “Con đã làm hết mọi cách chăm bón hằng ngày, che mưa che nắng, liệu đủ nước đủ phân, khí trời âm dương… nhưng hạt giống của con vẫn không mọc, con không hiểu tại sao. Con thành thật xin lỗi vua, vì đã làm vua thất vọng, con xin nhận thất bại của con.” Vua bất thần ôm chầm lấy chàng trai và tuyên bố đã tìm được người kế vị. Mọi người rất đỗi ngạc nhiên. Vua giải thích: “Tất cả mọi hạt giống vua giao đều đã luộc chín hết rồi, không thể nào mọc thành cây được. Chỉ công tử này là thật thà, ngay chính và trung thành, xứng đáng để ta truyền ngôi trị nước, chăm lo cho muôn dân. Còn các công tử khác tuy đã thay hạt giống thật vua giao, nhưng cũng hết lòng chăm bón, ta không bắt tội, triều đình sẽ tuỳ theo tài năng đức độ của mỗi người mà cắt đặt. Mỗi người chúng ta suy nghĩ và tự trả lời trong thinh lặng về ý ngay lành và lòng chân thật của mình khi theo đuổi ơn gọi linh mục.

ĐTC Biển Đức XVI dạy: “Được khích lệ bởi những người đào tạo các con, các con hãy mở tâm hồn cho ánh sáng của Chúa để xem liệu con đường này, một con đường đòi hỏi lòng can đảm và tính xác thực, có phải là con đường của các con không, và chỉ tiến tới thiên chức linh mục nếu các con chắc chắn xác tín rằng Thiên Chúa kêu gọi các con trở thành các thừa tác viên của Ngài và hoàn toàn quyết định thực thi thừa tác vụ này trong sự vâng phục những quy định của Giáo Hội[115]. (Tình Chúa Chọn Con).

 3. BƯỚC THỨ BA: CHÚNG TA CAM KẾT THEO CHÍNH CHÚA KITÔ TOÀN THỂ

Chúa Giêsu đã nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con ra đi…”[116]. Như thế, mỗi người chúng ta phải khẳng định rằng mình theo chính Chúa Kitô chứ không phải ai khác, và đặt Chúa Kitô ở trung tâm của tất cả mọi sự, được hiểu hay không được hiểu, được ủng hộ hay bị chống đối, vui hay buồn, sướng hay khổ, thành công hay thất bại. Cứ luôn bám chặt vào Chúa, chúng ta sẽ nhận được một sức mạnh kỳ diệu nâng đỡ mà Thánh Phaolô xác quyết là “chính Chúa Kitô sống trong tôi[117].

Quả vậy, chúng ta cam kết đi theo chính Chúa Kitô, và là Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là Chúa Kitô biến hình vinh hiển của núi Taborê cũng như Chúa Kitô khổ nạn của đồi Golgotha, dù gặp hoàn cảnh thế nào đi chăng nữa. Nếu gặp được Bề Trên, các cha giáo và anh em cảm thông nâng đỡ thì con đường vác thập giá đi theo Chúa được nhẹ nhàng hơn, còn nếu gặp phải người thiếu thông cảm hay quá khó thì con đường thập giá theo Chúa có nặng nề hơn, nhưng vẫn quyết tâm đi tới, không hề bỏ cuộc, “biết rằng đời hiểu hay không, uống cho bằng cạn chén hồng Chúa giao, thương ai Chúa mới gọi vào, kèm trong thử thách dạt dào đỡ nâng”, bởi vì nếu cố tìm Chúa Giêsu không có thánh giá thì chúng ta sẽ có nguy cơ gặp phải thánh giá mà không có Chúa Giêsu.

Để hiểu được tính cách và tầm quan trọng của cam kết này, chúng ta phải xét đến các động lực ơn gọi. Đúng vậy, đàng sau mọi quyết định và hành động đều có một hay nhiều động lực ẩn khuất tác động. Chúng ta cần một không gian và thời gian để xem xét, làm sáng tỏ và thanh luyện các động lực của mình. Có thế thì việc đáp trả lời mời gọi và cam kết theo Chúa mới bền vững trong tin yêu và quảng đại. Công cuộc đào tạo ở Chủng viện, đặc biệt việc đồng hành thiêng liêng và linh hướng sẽ đóng góp vào việc nhận diện và thanh lọc các động lực ấy.

Có những động lực ý thức, như lòng khao khát theo Chúa để phục vụ Chúa và các linh hồn, làm việc tông đồ, có nhiều thời gian hơn để cầu nguyện, v.v… Có những động lực vô thức nhằm tìm kiếm thỏa mãn các nhu cầu đã không được thỏa mãn trong thời niên thiếu, hoặc do ảnh hưởng của người khác can thiệp vào, khao khát cuộc sống được bảo đảm, khao khát được nhận biết, được chú ý, được đón nhận; khao khát được kiện toàn, được chu toàn một lời hứa khi nhỏ, được thoát khỏi nghèo khổ, thoát khỏi đời sống gia đình bất hạnh, tìm kiếm đặc ân, thoả mãn tham vọng của cha mẹ, v.v… Các động lực ấy chẳng phải là tội, nhưng chúng bộc lộ những thiếu sót làm lệch lạc con đường ơn gọi đích thực cần phải loại bỏ dần dần.

Để tăng cường sự phát triển trưởng thành nhân bản và thiêng liêng, chúng ta cần phải trung thực đối mặt gọi tên và loại bỏ hay biến đổi uốn nắn các động lực và ý hướng không thích hợp. Có bốn loại ý hướng: Ý hướng cam kết cung ứng khả năng đáp lại tiếng Chúa gọi, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Đây là ý hướng lý tưởng của người tương đối trưởng thành theo ơn gọi. Ý hướng phận vụ thường bị giằng co giữa việc tìm kiện toàn chính mình và sự sẵn sàng dâng hiến bản thân mình. Tính lưỡng diện này tỏ lộ sự thiếu tự do và thiếu trưởng thành, cần một sự phân định cẩn thận. Ý hướng địa vị tìm thăng tiến bản thân để che lấp sự bất ổn căn bản trong đời sống của mình, hay vì ước muốn và tham vọng của người khác coi đời tu là một thăng tiến xã hội, như hoài bảo của cha mẹ họ hàng chẳng hạn. Ý hướng trốn thoát nhằm tìm kiếm sự che chở từ cuộc sống tu trì, muốn tránh những phiền toái rắc rối của đời sống hôn nhân gia đình, dù rằng vẫn chịu sự lôi cuốn. Tính nhập nhằng này có thể được quan sát thấy cách dễ dàng trong thái độ lẫn cách ứng xử.

Người có ý hướng địa vị và trốn thoát thường không có ơn gọi đích thực, bởi vì thiếu trưởng thành nhân cách và sẽ dễ dàng từ bỏ hoặc phản bội sứ vụ căn bản của mình. Chúng ta cần phải ý thức về nhiều nhân tố trong động lực ơn gọi của mình và phân tích những đường lối dấn thân phục vụ tha nhân, bao gồm cả việc trung thành với lời cam kết của mình. Nhiệm vụ của vị hướng dẫn ơn gọi thật là quan trọng. Người giúp chúng ta ý thức rõ nhiều động lực đang có mặt và sự xung khắc giữa các động lực ấy để giải quyết chúng. Động lực nào phù hợp với đời tu sẽ được sử dụng để thăng tiến. Động lực nào không phù hợp với đời tu thì phải loại bỏ hay biến đổi. Nếu không thể nào thay đổi được, chúng ta nên tìm một cuộc sống ở nơi nào khác thì tốt hơn là theo đuổi đời sống hướng tới chức linh mục.

Để sống cao độ sự cam kết này, chúng ta cần phải tự biết mình. Ở cửa đền Alphê, Socrate cho khắc chữ “Hãy tự biết mình.” Còn Thánh Augustinô thì cầu nguyện mỗi ngày “xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Tự biết mình là yếu tố rất quan trọng để chúng ta đạt được trưởng thành. Chúng ta phải cố gắng hiểu được mình là ai, đang ở đâu trong tiến trình tu luyện, với tất cả những điểm mạnh và những điểm yếu, để không tự tôn bằng sự phòng vệ coi mình là trung tâm điểm hoặc tự ti và quá lệ thuộc vào người khác. Hẳn các nhà đào tạo cũng biết chúng ta đang ở giai đoạn nào trong tiến trình ấy, để nhẫn nại dẫn dắt, không đốt giai đoạn, kẻo đốt giai đoạn là đốt cháy cả một đời người.

Trong bước thứ ba theo Chúa Kitô toàn thể này, sự qui chiếu về Chúa Giêsu phải là tuyệt đối. Dostoievski xác tín: “Tôi tin rằng không có gì đẹp hơn, không có gì sâu xa hơn, không có gì thiện cảm hơn, không có gì hữu lý hơn, không có gì mạnh mẽ hơn, và không có gì hoàn hảo hơn Chúa Kitô”.

Còn thánh Patrice thì nói cách mạnh mẽ: “Chúa Kitô ở với tôi, Chúa Kitô ở trong tôi, Chúa Kitô ở sau lưng tôi, Chúa Kitô ở trước mặt tôi, Chúa Kitô ở bên cạnh tôi, Chúa Kitô đến nắm tay tôi, Chúa Kitô đến an ủi tôi, Chúa Kitô đến bổ sức cho tôi, Chúa Kitô ở dưới chân tôi, Chúa Kitô ở trên đầu tôi, Chúa Kitô ở trong sự bình tâm, Chúa Kitô ở trong hiểm nguy, Chúa Kitô ở trong trái tim của những người yêu mến tôi. Chúa Kitô ở nơi môi miệng của bạn hữu cũng như của người xa lạ.”

Đi xa hơn, thánh Vinh sơn đệ Phaolô khuyên: “Bạn hãy nhớ rằng chúng ta sống trong Chúa Kitô nhờ cái chết của Chúa Kitô, và chúng ta phải chết trong Chúa Kitô để được sự sống của Chúa Kitô, đời sống chúng ta phải được giấu ẩn trong Chúa Kitô và tràn đầy Chúa Kitô, và để rồi nếu muốn được chết như Chúa Kitô thì phải sống như Chúa Kitô.”

Còn thánh Gioan Tiền Hô ước muốn “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải bé đi”, và thánh Phaolô xác tín: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi.” – “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi[118].

Cầu mong cho mỗi người chúng ta ngày càng cam kết đi theo chính Chúa Kitô toàn thể, và có thể nói được cùng với thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta[119].

Tuy nhiên chúng ta vẫn phải luôn cảnh giác, vì trong thực tế, rất lắm lần chúng ta đã để một ai đó hay một cái gì đó tách biệt Chúa Giêsu ra khỏi tình yêu và cuộc đời của chúng ta, cho dù không hề có cái gì tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Giêsu: chúng ta có thế nào đi nữa thì Ngài vẫn hằng thương yêu chúng ta, và thương yêu chúng ta cho đến cùng.

(Bước Lần Đi Theo Chúa)

 

(7)

 4. BƯỚC THỨ TƯ: CHÚNG TA BIẾN ĐỔI VÀ ĐIỀU CHỈNH DẦN DẦN CUỘC SỐNG

Cái gì cũng có thời gian của nó, không dễ gì mà một sớm một chiều đã đạt được mục tiêu. Vì thế tiến trình tu – sửa phải được khởi sự ngay, không chậm trễ, nhưng cần dần dần biến đổi và điều chỉnh cuộc sống mình cho phù hợp với đời sống ơn gọi linh mục. Mỗi người chúng ta đều ý thức rõ nơi mình có nhiều động lực đang có mặt và sự xung khắc giữa các động lực ấy. Chúng ta phải giải quyết chúng: Động lực nào phù hợp với chức linh mục sẽ được vun trồng thăng tiến; động lực nào không phù hợp phải loại bỏ hay biến đổi.

Về sự dần dần biến đổi, chúng ta liên tưởng đến việc Chúa Giêsu đổi tên cho ông Simon thành Kêpha, nghĩa là Đá Tảng[120]. Đổi tên là đổi con người, đổi cách sống, cách làm việc, cách suy nghĩ, cách đối xử và yêu thương. Cuộc sống của chúng ta sẽ phải từ từ được biến đổi: từ từ sống khác đi, không còn như cuộc sống đã từng sống trước đây nữa. Con người trần tục sẽ dần dần chết đi để con người thiêng liêng không ngừng được triển nở và lớn lên trong chúng ta. Tại căn phòng mà thánh Phanxicô Khó Khăn đã cởi bỏ y phục đặt dưới chân thân phụ trả lại cho cha, từ bỏ đời sống sang giàu và gia tài mình sẽ được để hiến thân cho Thiên Chúa, ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần Hội Thánh trút bỏ tinh thần thế tục đang làm hại chúng ta, đang tiêu diệt Hội Thánh.[121] Nói như thánh Phaolô là phải cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới, ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, đến độ “tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.

Biến đổi là chia cắt với cái đi trước, nghĩa là chúng ta từ bỏ một cách sống, một cách hiểu biết đối với Thiên Chúa, với vũ trụ, với chính mình và tha nhân, tức là con người trần thế bấy lâu nay của mình. Thánh Phaolô khuyên “quên hẳn đàng sau, nhắm thẳng phía trước mà chạy tới.” Mở ra với những gì đang đến, nghĩa là một hiện hữu mới, một ý nghĩa độc đáo và bất ngờ đối với cái đi trước. Như thế, sự trở thành ứng sinh linh mục mở đường vào cuộc sống mới là một sự xé rách, một thứ cái chết, nhưng rách để lành, chết để sống; đó là một thứ biến đổi căn để, một mất một còn trong ý nghĩa một cuộc tái sinh.

Dường như có một đổ vỡ giữa cuộc sống của người thanh niên bình thường và cuộc sống của ứng sinh linh mục. Thật thế, khi chúng ta bước vào đời ứng sinh linh mục, chúng ta dường như không còn sống như một thanh niên bình thường nữa, mà sống như một con người thiêng liêng thuộc về Thiên Chúa, dù vẫn còn có đó con người trần tục trong chính mình. Tính lưỡng diện này vẫn tồn tại lâu dài, có khi suốt cả cuộc đời, trải qua những chiến đấu, dòn mỏng, với thành công và thất bại như Nguyễn Bá Học nói: “Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần? Nhưng đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!” Người ta thường nói “thất bại là mẹ thành công”, chính từ khi thú nhận thất bại trong việc đánh cá suốt đêm không bắt được con nào, nhưng khi vâng lời Chúa Giêsu mà thả lưới, Phêrô bắt được mẻ cá lạ lùng khiến ông tin tưởng theo Chúa, trở nên vị tông đồ cả của Chúa.

Chúng ta có thể nhìn kinh nghiệm đổ vỡ nầy qua hình ảnh Abraham vâng lời Thiên Chúa ra đi, cắt đứt mọi mối quan hệ cộng đồng và yêu thương với gia đình, với đồng bào và thiên nhiên, rời bỏ quê hương để đi đến một quê hương mới Thiên Chúa sẽ chỉ cho, trở thành thủ lãnh và cha một dân tộc đông đảo như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển của những kẻ tin. Như thế, hành trình theo ơn gọi bẻ gãy một nền nếp cuộc đời, ghi khắc một đổ vỡ và thay đổi các giá trị vốn có. Sự đoạn tuyệt đó là một quà tặng mở ra một cánh cửa khác. Hãy tiến lên và sáng tạo chương tiếp theo của cuộc đời, như thánh Phaolô chia sẻ: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người[122].

Chúng ta không sợ nói lên kinh nghiệm bản thân, nhất là với vị linh hướng, để có được sự thanh tẩy cần thiết hầu đi vào hành trình thiêng liêng, hướng tới đời sống linh mục. Muốn thế, cần có sự tín nhiệm lẫn nhau thực sự trong việc linh hướng, một tương quan tay ba khép kín giữa Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng. Cái quan trọng là có nơi mỗi người một biến cố lịch sử đánh dấu thời khắc trở thành ứng sinh, và thời khắc đó đánh dấu một bước ngoặt đổi đời trong tất cả công cuộc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa, như biến cố ngã ngựa của Saolô trên đường Đamas chẳng hạn.

Sự kiện người đi tu xem ra hiện hữu tách biệt với người đời khiến người ta than phiền đi tu là cắt khỏi cuộc sống (xuất thế). Nhưng một cách nào đó đời tu sẽ đòi lại sự chia tách nầy (nhập thế, đi làm mục vụ trong thế gian) và khoảng cách giữa tu và không tu là một dữ kiện có một ý nghĩa hữu lý. Đó là sống một cách khác hợp với chọn lựa của đời mình: “Chính anh em xưa kia cũng ăn ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy. Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục[123]. Đổ vỡ nầy đánh dấu sự khởi đầu của cuộc đời, khiến tu và không tu có sự mâu thuẫn được định nghĩa bằng bạo lực của cái chết, nhưng là một bạo lực ngọt ngào: giết chết cái chất trần tục trong con người mình, để cuối cùng được sinh ra trong sự thánh thiêng của con người tu “mặc lấy con người mới đã được Chúa Kitô biến đổi, vì phàm ai ở trong Chúa Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi và cái mới đã có đây rồi[124]. Thánh Basiliô Cả đã biện giải: “Trước khi bắt đầu đời sống mới, bạn phải chấm dứt đời sống cũ. Cũng như những người đã chạy hết một quảng đường mà muốn quay trở lại phải dừng chân và nghỉ ngơi cách nào đó trước khi chuyển hướng ngược lại, thì trong việc đổi đời cũng vậy, xem ra cần phải chết cách nào đó giữa đời sống trước và đời sống sau, vừa chấm dứt những gì thuộc về trước vừa bắt đầu những gì thuộc về sau.[125]

Trong sự thay đổi đó, tinh thần theo Chúa Kitô là chủ đạo: thay đổi con tim, tâm thức, lối sống và cuộc sống. Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Đó là tiến trình lâu dài của một công cuộc hợp tác đào tạo và tự đào tạo, vừa thần linh vừa nhân loại, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Ai ai cũng nhận thấy rằng tự thay đổi bản thân thì dễ hơn là thay đổi người khác, đồng thời nên thay đổi trước khi bị bó buộc phải thay đổi, kẻo không còn kịp nữa, vì một khi đã bị định kiến rồi thì thật vô phương cứu chữa! Vậy phải xin ơn cương quyết thay đổi cái có thể thay đổi, can đảm chấp nhận cái không thể thay đổi và ơn khôn ngoan để biết phân biệt cái có thể thay đổi và cái không thể thay đổi. Muốn cho việc hướng tới đời sống mới này thành công, chúng ta phải đặt mình trong tay Chúa, như cây viết chì trong tay nghệ sĩ, vì “không có Thầy các con chẳng làm được gì hết”, nhưng “với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể.”

ĐTC Phanxicô nói đến cái nhìn của Chúa Giêsu làm biến đổi cuộc đời của ông thu thuế Lêvi, và của chúng ta nữa, nếu chúng ta chịu để cho Ngài nhìn chúng ta và được tự do làm công việc của Ngài: “Khi Chúa Giêsu nhìn Matthêu, cái nhìn đó đã chiếm lấy ông hoàn toàn và đã thay đổi cuộc sống của ông. Cái nhìn của Chúa Giêsu luôn luôn làm cho ta trở nên xứng đáng, trao ban cho ta phẩm giá. Đó là một cái nhìn rộng lượng”. Ngài giải thích rằng cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cho ta lòng can đảm để theo Ngài. Cái nhìn của Chúa Giêsu luôn nâng chúng ta dậy, không bao giờ để ta lại tại chỗ của mình, không bao giờ hạ ta xuống, không bao giờ làm nhục. Nó mời gọi và khích lệ chúng ta đứng dậy, lớn lên, tiến về phía trước. Cái nhìn của Chúa Giêsu làm cho chúng ta cảm thấy rằng Ngài yêu thương chúng ta. Đó là tình yêu Thiên Chúa mà “những người thu thuế và tội lỗi” như Matthêu đã trải nghiệm: “Họ cảm thấy rằng Chúa Giêsu đã nhìn họ và cái nhìn của Chúa Giêsu trên họ giống như một hơi thở trên than hồng, và họ cảm thấy như có lửa trong bụng. Chúa Giêsu làm cho họ đứng lên, trả lại cho họ phẩm giá. Ngài biết rõ lòng họ: Bên dưới bùn đất đó có than hồng khao khát Thiên Chúa, muốn được cháy nóng trở lại. Đó là những gì cái nhìn của Chúa Giêsu thực hiện. Chúng ta tiến lên phía trước trong cuộc sống, trong niềm xác tín rằng Ngài nhìn chúng ta, chờ đợi chúng ta. Ước gì cái nhìn của Chúa Giêsu trên cuộc đời chúng ta sẽ là mãi mãi, là đời đời[126].

Chúng ta đã theo ơn gọi đến giờ này, các suy nghĩ, hành động, cách sống và cuộc sống của chúng ta có được biến đổi và điều chỉnh phù hợp với đời sống ơn gọi không? Thích làm linh mục là một chuyện, nhưng có phù hợp với đời sống linh mục hay không lại là một chuyện khác. Những điều kiện bên ngoài, những điều kiện tự nhiên (sức khoẻ, tính tình, trí khôn, khả năng) và những điều kiện tinh thần và thiêng liêng (tinh thần tự hiến, tinh thần trách nhiệm, tinh thần và đời sống thiêng liêng, tinh thần đức tin, tinh thần cộng tác, tinh thần vâng phục, tinh thần nghèo khó, khả năng sống độc thân thanh khiết, tinh thần phụng vụ, tinh thần mục vụ, tinh thần lao động chân tay và trí óc) của chúng ta có phù hợp với đời sống linh mục không?

Hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa và hãy lạc quan. Đừng quá chú trọng vào lầm lỗi, nhưng hãy chú trọng đến bài học từ lầm lỗi để rút kinh nghiệm mà không lầm lỗi nữa. Chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Tội con đã được tha, hãy về bằng an và từ nay đừng phạm tội nữa.” Đừng thất vọng về lỗi lầm quá khứ của mình và của anh em. Hãy xem cách xử sự của Chúa Giêsu: Ngài tha thứ, tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, vẫn tín nhiệm trao cho Phêrô trách nhiệm làm đầu Giáo Hội và cho Mađalêna làm sứ giả Tin Mừng Phục Sinh. Quả thật “Bản chất của con người là lầm lỗi và bản chất của Thiên Chúa là tha thứ. Và tội thì tha, lỗi thì sửa; mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai.

ĐTC Phanxicô mô tả thánh Phêrô là một tội nhân, có nhiều khuyết điểm, nhưng biết tự hạ để được Chúa Kitô dẫn dắt tiến lên phía trước. Ngài mời gọi chúng ta noi gương Thánh Phêrô, bằng cách nhận ra lỗi lầm và mở lòng ra cho Chúa dẫn dắt: “Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mẫu gương của Thánh Phêrô có thể giúp chúng ta hướng về phía trước. Xin cho điều đó làm cho chúng ta tìm kiếm Chúa và tìm gặp được Chúa, để Chúa tìm thấy chính chúng ta. Chúa luôn luôn ở đó, gần gũi chúng ta, tìm kiếm chúng ta. Nhưng đôi khi chúng ta nhìn theo hướng khác vì chúng ta không muốn nói chuyện với Chúa hoặc không muốn để cho Chúa tìm thấy chúng ta[127].

Bí tích Giải tội hữu hiệu hóa cuộc đổi đời

Có sự biến đổi nào hữu hiệu và sâu xa cho bằng sự biến đổi của Bí tích Giải Tội? Qua Bí tích Giải tội, ơn Chúa biến tội nhân thành thánh nhân, biến một con người cũ thành một con người mới hoàn toàn, vì Chúa tha thứ và xóa bỏ sạch hết mọi lỗi lầm. Trong việc đào tạo Tòa Trong về mặt tâm lý, Chủng viện có thể gửi ứng sinh đến với một chuyên gia tâm lý. Vị chuyên gia này với các kỹ năng đặc biệt có thể giúp ứng sinh bộc lộ hết đến tận những tầng sâu kín của cuộc đời mình mà anh không thể nói với cả vị linh hướng của mình. Nhưng để được chữa lành trọn vẹn, vị chuyên gia tâm lý phải gửi trả lại ứng sinh cho hoạt động của Tòa Trong. Điều đó nói lên giá trị và hiệu quả của Bí tích Giải tội. Chúng ta cảm tạ Chúa và Mẹ Hội Thánh về điều này, đồng thời nỗ lực học hiểu và sử dụng cho nên Bí tích này. ĐTC Biển Đức XVI khẳng định: “bao nhiêu cuộc hoán cải và bao nhiêu cuộc sống thánh thiện thực sự đã bắt đầu từ trong một tòa giải tội!”[128]

Bản chất con người là lầm lỗi, bản chất Thiên Chúa là tha thứ, không có tội gì nặng quá đỗi Thiên Chúa không thể tha thứ được, nếu ta thực sự ăn năn trở về đón nhận ơn tha thứ của Chúa: tội thì tha lỗi thì sửa, mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai... Hãy tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, nhờ ơn Chúa, với cố gắng bản thân và sự giúp đỡ của kẻ khác[129]. Trong chuyến viếng thăm mục vụ Hàn Quốc, ĐTC Phanxicô “kêu gọi mọi người không bao giờ mất hy vọng và khích lệ linh mục, giám mục hãy ôm lấy các tội nhân và tỏ lòng thương xót họ; vì Thiên Chúa không mệt mỏi để tha thứ[130].

Nhưng trong cuộc cử hành Bí tích Giải tội, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh tới sự cần thiết phải mở ra một cuộc “đối thoại cứu độ”. Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với mọi tình huống cụ thể của hối nhân, như nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa; nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng; cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi; khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời tu. Nhờ những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử hành này có thể liên kết với việc linh hướng.

Trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân; phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi và trả lời để vừa bảo đảm được tính cách riêng tư của hối nhân, vừa tránh nguy cơ tố cáo người thứ ba. Cuộc đối thoại tế nhị này sẽ giúp làm sáng tỏ các yếu tố cần thiết hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng giúp hối nhân thay đổi lật sang một trang mới của cuộc đời mà trở nên tốt hơn. Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ những người khác cách hữu hiệu.

Bí tích Giải tội giúp thay đổi trí não và con tim chúng ta. Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài, xuyên qua Phúc Âm, các dấu chỉ thời đại, các biến cố thăng trầm của cuộc sống mỗi ngày, thì chúng ta cũng phải đổi mới lời đáp trả của mình cho tương xứng. Mọi việc Chúa làm đều mang dấu ấn của thay đổi và qua những thay đổi ấy, chúng ta được tái sinh, được tồn tại, ngày một tích cực hơn, thánh thiện hơn, nhờ giết chết cái chất trần tục quá khứ và lớn lên trong con người tu đích thực: thay đổi con tim, thay đổi tâm thức, thay đổi lối sống và cuộc sống[131].

 

 (8)

5. BƯỚC THỨ NĂM: CHÚNG TA KIÊN TRÌ CHU TOÀN BỔN PHẬN HẰNG NGÀY

Chúng ta kiên trì chu toàn bổn phận tự nhiên cũng như thiêng liêng của mình, không những trong thời gian đào tạo khởi đầu ở Chủng viện, mà còn cả trong suốt cuộc đời thi hành sứ vụ linh mục sau này sẽ được giao phó, cho dù hoàn cảnh cuộc sống có thế nào đi nữa. Những người lơ là việc cầu nguyện, không kiên trì trong bổn phận tự nhiên cũng như thiêng liêng của mình thường dễ vấp ngã và bỏ cuộc.

Chúng ta có thể lấy lời giải thích của Chúa Giêsu về dụ ngôn người gieo giống để so sánh hạt giống rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả với tiến trình đáp trả ơn gọi và kiên trì đi đến kiện toàn: “Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc. Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả[132]. Hạt giống ơn gọi cũng trải qua những tình huống tương tự.

Kinh Thánh nói đến sự kiên trì vừa như một điều kiện vừa như một thành quả: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình[133]; “Chúng tôi có phải chịu gian nan, thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ. Chúng tôi có được an ủi, thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu[134]; “Trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng[135]; “Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả[136]; “Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy[137]; “Được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin… Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?[138]; “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người[139].

Muốn được kiện toàn ơn gọi thì lòng trung tín là điều kiện tất yếu. Chúng ta hãy nghe Kinh Thánh nói: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?[140]; “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng[141]; “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt[142].

Lòng trung thành trong mọi bổn phận tự nhiên cũng như thiêng liêng của đời ứng sinh hôm nay và sứ vụ linh mục mai ngày cũng vừa là điều kiện vừa là phần thưởng cho chúng ta. Chúng ta hãy nghe Kinh Thánh nói: “Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: ‘Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây’. “Ông chủ nói với người ấy: ‘Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!’ Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: ‘Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây’. Ông chủ nói với người ấy: ‘Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh![143]; “Người thứ nhất đến trình: ‘Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén. Ông bảo người ấy: ‘Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành. Người thứ hai đến trình: ‘Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén. Ông cũng bảo người ấy: ‘Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành[144]; “Thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành[145]; “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó[146]; “Thưa anh em là những người trong dân thánh, những người được hưởng chung ơn gọi bởi trời, anh em hãy ngắm nhìn Đức Giêsu là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin… Ông Môsê đã trung thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách là tôi tớ để làm chứng về các điều Thiên Chúa sẽ phán truyền. Còn Đức Kitô thì trung thành với tư cách là người Con đứng đầu nhà Thiên Chúa, mà nhà Thiên Chúa là chính chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng lòng tin tưởng và thái độ hiên ngang về niềm hy vọng của chúng ta[147]; “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo -luật mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm[148].

Dĩ nhiên để được kiên trì, trung tín và trung thành trong đời sống và sứ vụ ơn gọi, chúng ta không thể tránh khỏi những sự khốn khó, vì Chúa gọi chúng ta đi con đường thập giá theo Ngài vào thế gian như chiên giữa sói rừng. Nhưng trong sự khốn khó đó, chúng ta có lời hứa đầy hy vọng của Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát[149]. “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian[150]; “Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó[151]; “Những ai chịu khổ theo ý của Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Đấng Tạo Hoá trung thành, và cứ làm điều thiện[152]; “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi sắp phải chịu: này ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi; các ngươi sẽ phải lâm cảnh gian truân trong vòng mười ngày. Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho các ngươi triều thiên sự sống[153]; “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân[154]; “Chúng sẽ giao chiến với Con Chiên, và Con Chiên sẽ thắng chúng, vì Con Chiên là Chúa các chúa, Vua các vua; những kẻ đi theo Người, tức là những kẻ được kêu gọi, được tuyển chọn, và luôn trung thành, cũng sẽ thắng[155]; “Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô[156]; nhất là lời hứa yêu thương cho đến cùng của Chúa Giêsu: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng[157].

Mỗi người trong chúng ta biết rõ mình hơn ai hết về việc kiên trì thực thi mọi việc bổn phận với tư cách là ứng sinh. ĐTC Biển Đức XVI nói: “Các con làm thế nào sống những năm chuẩn bị này ? Trước tiên, chúng phải là những năm của thinh lặng nội tâm, của cầu nguyện thường xuyên, học hành kiên trì và hội nhập dần dần vào các sinh hoạt và các cấu trúc mục vụ của Giáo Hội, một Giáo Hội là cộng đoàn và thể chế, gia đình và sứ mạng, công trình sáng tạo của Chúa Kitô nhờ Thánh Thần của Ngài, đồng thời là kết quả của hành động của chúng ta, chính chúng ta hình thành nên nó với sự thánh thiện và các tội lỗi của chúng ta”[158].

 Còn ĐTC Phanxicô nói:Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trung thành với Ngài, hằng ngày, trong đời sống thường ngày của chúng ta. Ngài tiếp tục nói rằng Ngài vẫn luôn trung thành, ngay cả lúc chúng ta bất trung với Ngài. Với lòng thương xót của mình, Ngài không bao giờ mệt mỏi đưa tay ra để nâng chúng ta lên, để khuyến khích chúng ta tiếp tục cuộc hành trình, để quay về và nói với Ngài những yếu đuối của chúng ta, để Ngài có thể ban cho chúng ta sức mạnh. Đây là cuộc hành trình thực sự: luôn bước đi với Chúa, ngay cả những lúc yếu đuối, ngay cả trong tội lỗi của chúng ta”[159].

Kiên trì chu toàn các bổn phận tự nhiên cũng như thiêng liêng của đời ứng sinh, chúng ta chắc chắn sẽ đạt tới lý tưởng, vì không ai được ngăn cản người đủ khả năng xứng hợp[160]. Nhưng để được kiên trì như thế, chúng ta phải tín thác vào Chúa Giêsu, Đấng đã phán “Nếu không có Thầy, các con sẽ chẳng làm được gì.” Chúng ta hãy nghe lời chia sẻ của ĐTC Phanxicô về chặng đường 60 năm theo tiếng Chúa gọi của ngài: “Hôm qua cha kỷ niệm 60 năm ngày cha nghe tiếng Chúa Giêsu nói trong trái tim cha… 60 năm kể từ ngày hôm đó, Cha không bao giờ quên ngày ấy. Chúa đã làm cho cha cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng cha nên đi theo con đường này… Sau nhiều năm trôi qua với một số thành công, niềm vui, nhưng nhiều năm thất bại, yếu đuối, tội lỗi…  60 năm trên con đường của Chúa, đi sau Người, đi cạnh Người, đi với Người mãi mãi… Cha nói với các con điều này: Cha không bao giờ hối tiếc! bởi vì, ngay cả trong những lúc đen tối nhất, trong những lúc tội lỗi, trong những lúc yếu đuối, trong những lúc thất bại, cha luôn luôn nhìn vào Chúa Giêsu và cha tín thác vào Người, và Người đã không bỏ cha một mình. Hãy tín thác vào Chúa Giêsu! Người luôn luôn tiến bước, đồng hành với chúng ta! Người thành tín, Người là người bạn đồng hành trung thành. Đây là lời chứng của cha: Cha hạnh phúc suốt 60 năm qua với Chúa. Các con hãy tiến bước!”[161].

Sống yêu thương hiệp thông phẩm trật Hội Thánh

Để được kiên vững trên đường ơn gọi thì việc sống yêu thương hiệp thông phẩm trật Hội Thánh là một phương thế rất hiệu năng. Tình yêu thương hiệp thông này phải được thể hiện ngay trong giai đoạn được đào tạo và tự đào tạo này với Ban Giám Đốc, với Ban Đào Tạo, với tất cả và từng anh em chủng sinh. Rồi mai ngày, do bí tích truyền chức và thừa tác vụ lãnh nhận, chúng ta liên kết và hiệp thông phẩm trật trước hết với Đức Thánh Cha và Giám mục đoàn phục vụ toàn thể Giáo Hội, nhất là với Giám Mục Bản Quyền của mình: “Không có thừa tác vụ linh mục ở ngoài sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn, đặc biệt với Giám mục giáo phận, trong lòng tôn kính như con thảo và sự tuân phục đã hứa khi thụ phong.”[162]

Tiếp đến, mối hiệp thông linh mục đoàn được thiết lập bởi đức ái tông đồ, thừa tác vụ và tình huynh đệ bí tích, diễn tả bằng việc đặt tay của linh mục đoàn trong nghi lễ truyền chức và việc nhập tịch hay nhập vụ vào một Giáo hội địa phương.[163] Sắc lệnh Chức vụ và Đời sống linh mục đã mô tả mối hiệp thông đó bằng những lời lẽ thắm tình rằng “Các linh mục nhiều tuổi hãy đón nhận những linh mục trẻ như những người em thực sự, giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ linh mục; gắng hiểu tâm trạng của họ và theo dõi các dự tính của họ với thiện chí. Còn các linh mục trẻ phải biết kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các vị lớn tuổi; bàn hỏi với các ngài và sẵn lòng cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc các linh hồn.”[164]

 Trong sứ điệp gửi Dân Chúa, THĐGMTG kỳ XIII cũng ân cần nhắc các linh mục về mối hiệp thông này: “Trong giáo xứ, sứ vụ của linh mục như người cha và mục tử của dân Chúa vẫn có tính chất chủ yếu. Các Giám Mục tại THĐGM này bày tỏ với tất cả các linh mục lòng biết ơn và sự gần gũi huynh đệ vì công việc không dễ dàng của các vị và mời gọi các linh mục hãy củng cố chặt chẽ hơn mối liên hệ trong hàng linh mục giáo phận, đào sâu đời sống thiêng liêng và thực hiện việc thường huấn để có thể đương đầu với những thay đổi.”[165]

Chúng ta còn sống hiệp thông với giáo dân, tu sĩ, những người sống đời thánh hiến, nỗ lực khơi dậy và phát triển sự đồng trách nhiệm trong cùng một sứ mạng cứu độ duy nhất của Giáo Hội.[166] Sắc lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục nhắc nhớ rằng mọi tín hữu đều phải cùng nhau làm việc cho Nước Chúa, trong đó linh mục nhìn nhận và thăng tiến phẩm giá cùng sứ vụ của giáo dân, sẵn sàng lắng nghe giáo dân, coi trọng những ước vọng của giáo dân, nhìn nhận kinh nghiệm và chuyên môn của giáo dân trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân loại, tin tưởng vào phận vụ của giáo dân trong việc phục vụ Giáo Hội và Xã Hội, để giáo dân có đủ tự do và lãnh vực hoạt động, cũng như cơ hội thích hợp để gánh vác công việc theo sáng kiến của mình. Linh mục luôn cố gắng dẫn dắt giáo dân đi đến hiệp nhất, sự thật và công ích, hòa giải những khác biệt về tâm thức và trình độ, để không ai cảm thấy mình xa lạ ở trong cộng đồng Giáo Hội. Bên cạnh đó, Công Đồng Vaticanô II cũng mời gọi giáo dân nhận biết bổn phận đối với linh mục của mình, và bằng chia sẻ ân cần, tinh thần lẫn vật chất, kính trọng và dè dặt gìn giữ, bảo vệ, giúp đỡ, cầu nguyện, thương yêu và tận tâm cộng tác, ngõ hầu linh mục vượt qua được những khó khăn, giới hạn và yếu đuối nhân loại của mình mà chu toàn sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và điều khiển Dân Chúa cách hiệu quả.[167] Ngoài ra, mỗi linh mục còn cố gắng tiếp tay với Chúa Thánh Thần để khơi dậy ơn gọi linh mục tiếp nối thừa tác vụ của mình.[168]

Cùng chiều hướng này, ĐTC Biển Đức XVI đề cao tinh thần đồng trách nhiệm: “Tinh thần đồng trách nhiệm đòi phải thay đổi não trạng, nhất là về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội: không được coi giáo dân chỉ là những cộng tác viên của hàng giáo sĩ, nhưng như những người thực sự đồng trách nhiệm đối với cuộc sống và hoạt động của Giáo Hội. Vì thế, điều quan trọng là phải củng cố một hàng giáo dân trưởng thành và dấn thân, có khả năng đóng góp phần đặc thù của mình cho sứ mạng của Giáo Hội, trong niềm tôn trọng các thừa tác vụ và nghĩa vụ của mỗi người trong đời sống Giáo Hội và luôn luôn hiệp thông với các Giám Mục… Hãy đảm nhận và chia sẻ những chọn lựa mục vụ của các giáo dân và giáo xứ, tạo những cơ hội gặp gỡ và cộng tác chân thành với các thành phần khác trong Giáo Hội, kiến tạo những quan hệ quí mến và hiệp thông với các linh mục, để họp thành một cộng đồng sinh động, phục vụ và truyền giáo.[169]

Mối hiệp thông đó càng được củng cố bền chặt khi có đức mến, mà thánh Phaolô coi là con đường trổi vượt hơn cả:[170]Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả[171]. Và ngài còn khuyên: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau[172].

Nói tóm lại là sự yêu thương hiệp thông bên trong Giáo Hội là dấu chỉ cần thiết và thuyết phục hơn bao giờ cả trong sứ mệnh Tân Phúc Âm hóa, để thế gian nhận biết “xem kìa, họ thương yêu nhau là dường nào” và người ta sẽ gia nhập cộng đoàn Giáo Hội và trở lại với Chúa. Sự hiệp nhất này là của Chúa Thánh Thần như Giáo Hội hằng tuyên xưng trong mọi thánh lễ: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời – Amen.”

Kết luận

Mỗi người sống cuộc đời mình như thể viết một bài luận văn. Phần mở đầu giới thiệu chủ đề. Phần thân bài khai triển các ý tưởng căn bản để trình bày và củng cố chủ đề. Phần kết luận mở chủ đề ra một viễn tượng mới. Cách chung ai cũng có khả năng để viết đầy đủ và hoàn tất các phần của bài luận văn ấy. Nhưng thực tế có người chưa viết được chủ đề đời mình đã chết. Có người loay hoay mãi vẫn không viết ra được chủ đề, thậm chí đến già đời vẫn không tìm thấy chủ đề hay mục đích của đời mình. Có người viết được chủ đề rất sớm, nhưng không khai triển được, bài luận văn đành dang dở. Có người viết một lúc hai, ba chủ đề nên chẳng có thể đi tới kết luận được, bị lạc đề. Có người viết được chủ đề, nhưng không kiên định, nên xoá bỏ chủ đề ấy tìm một chủ đề khác, song thời gian không còn đủ, viết chưa xong đã phải nộp bài, không có phần kết.

Chúng ta sống ơn gọi của mình cũng giống như viết một bài luận văn. Lý tưởng và đời sống linh mục có thực sự là chủ đề cuộc đời chúng ta chưa? Chúng ta đang viết nghiêm túc hay đang viết lung tung, sống qua ngày đoạn tháng, tới đâu hay đó? Có người theo ơn gọi rất sớm, nhưng ơn gọi đó không lớn lên theo năm tháng, mà lại nhạt nhoà dần dần vì những sức hấp dẫn và tiếng gọi mời khác. Chúng ta có thực sự dốc toàn tâm toàn lực theo ơn gọi, hoàn toàn phó thác cho Chúa, hay đang do dự suy tính tìm cách chuẩn bị phương án II cho đời mình, để nếu không được chịu chức linh mục thì ra đời được chủ động, sợ giữa đường đứt gánh hai bàn tay trắng, nên vừa theo học Chủng viện vừa trăn trở tìm học thêm một cái gì đó hoặc tìm nguồn bảo đảm kinh tế cho tương lai? Đó là bài luận văn lạc đề đấy. Làm thế là chân trong chân ngoài, bắt cá hai tay, đi hai chân, không thể nào đi vững tới đích được! Làm như thế, cuộc đời sẽ thêm xáo trộn, bất an… Chúa không muốn, và cuối cùng sẽ mất cả chì lẫn chài! Hãy xin Chúa giúp chúng ta viết bài luận văm cuộc đời ơn gọi chúng ta cho đến kiện toàn.

ĐTC Phanxicô nói: “Tôi tự hỏi bản thân mình, và tôi muốn hỏi tất cả anh chị em: Chúng ta có để cho Thiên Chúa viết lên cuộc sống của chúng ta không? Hay chúng ta muốn tự viết lấy? Điều này liên hệ đến tâm tình hiếu thảo với Thiên Chúa. Chúng ta có ngoan ngoãn lắng nghe Lời Ngài? Có sẵn sàng để lắng nghe và cảm nhận ra tiếng nói của Ngài không? Anh chị em có sẵn sàng tìm kiếm Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày không, hay chỉ có những ý tưởng của riêng anh chị em mới có quyền quy định tất cả mọi thứ, không để cho Chúa nói gì với anh chị em?[173]

Mọi thành phần Dân Chúa, nhất là các vị hữu trách đang xem xét tính thích hợp đó của chúng ta, chúng ta liệu biến đổi và điều chỉnh sao cho phù hợp, kẻo thời gian có hạn, sợ viết chưa xong bài luận văn mà đã phải nộp, không có phần kết, không đạt tới lý tưởng linh mục được chăng?! Thời gian tĩnh tâm năm này thuận lợi cho chúng ta bắt đầu lại đời sống ơn gọi của mình với một chủ đề, một động lực thật tốt, thật dứt khoát, để mạnh mẽ triển khai, thời gian và tiến trình đào tạo không cho phép chúng ta dễ dàng xoá chủ đề và viết lại chủ đề khác đâu. Chúng ta hãy kiên nhẫn và cẩn thận hoàn tất từng giai đoạn, đừng vội vàng đốt giai đoạn, mà cũng đừng dẫm chân tại chỗ hay nản chí bỏ cuộc tháo lui. Hãy nỗ lực vận dụng tất cả để phục vụ lý tưởng của chúng ta bằng mọi giá, trong tin tưởng cầu nguyện. Cầu chúc mỗi người chúng ta viết thật tốt bài luận văn cuộc đời ơn gọi của mình và đạt tới kết luận mong ước.

Tôi xin mượn lời ĐTC Phanxicô để kết thúc bài suy niệm này: “Tất cả chúng ta có thể nghĩ đến câu chuyện của chúng ta, hành trình của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có câu chuyện của mình; mỗi người chúng ta cũng có những sai lầm, tội lỗi, những lúc hạnh phúc và những khi đen tối. Ngày hôm nay là dịp tốt để mỗi người nghĩ đến câu chuyện của mình, và nhìn Chúa Giêsu rồi chân thành lặp đi lặp lại trong thinh lặng: ‘Lạy Chúa, xin nhớ đến con! xin nhớ đến con, vì con muốn sống tốt, muốn nên tốt lành, nhưng con yếu đuối, con không thể: con là người tội lỗi’. Lời hứa của Chúa Giêsu với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao. Lời ấy nói với chúng ta rằng ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Chúa rất quảng đại, Người luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin. Chúa Giêsu chính là trung tâm những nỗi khát mong niềm vui và ơn cứu độ của chúng ta. Nào chúng ta hãy cùng nhau lên đường[174].

 Phần Ba

 QUÀ TẶNG CHÚA GIÊSU TRỐI LẠI CHO CHÚNG TA VỮNG TIẾN TRÊN ĐƯỜNG ƠN GỌI

(Đề nghị dùng năm bài này cho đề tài nguyện gẫm  của năm ngày tĩnh tâm 2-6/3/2015)

             Xe có tốt mấy, máy móc có tối tân và mạnh bao nhiêu mã lực đi nữa mà thiếu nhiên liệu thì không thể vận hành và phát huy tiềm năng được. Cũng thế, dù những suy tư và hiểu biết của chúng ta về tất cả những gì liên quan tới đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta có đúng đắn và sâu sát đến đâu đi nữa mà thiếu nội lực thiêng liêng, thiếu sức sống của Chúa và dầu đức tin thì cũng không duy trì vững vàng lâu dài và phát huy hiệu quả là trở nên người môn đệ làm cho người ta biết Chúa, trở lại với Chúa và yêu mến Chúa được. Chúng ta sẽ suy niệm về ba quà tặng cuối cùng của Chúa Giêsu là Thánh Thể, Thánh Thần và Thánh Mẫu, mà Ngài đã trăn trối lại trước khi lìa bỏ thế gian về cùng Chúa Cha, mong cho các môn đệ ngày ấy và chúng ta bây giờ vững bước được trên con đường thập giá đi theo Ngài cứu rỗi các linh hồn và làm vinh danh Chúa.

1. Cử Hành và Sống Bí tích Thánh Thể

Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trối lại cho chúng ta Bí tích Thánh Thể, mà Thánh Lễ là hình thức cầu nguyện cao nhất của đời sống phượng tự. Thánh Thể là “suối nguồn và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Hội Thánh”, là “đỉnh cao mà mọi hoạt động của Giáo Hội hướng tới, đồng thời là nguồn suối phát sinh tất cả sức mạnh của Giáo Hội[175] nên cũng là trung tâm đời sống và sứ vụ của chúng ta. Những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trong bữa Tiệc Ly,[176] khi thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức linh mục, đều giúp cho đời sống thiêng liêng của chúng ta lớn dần lên đến độ “các sinh hoạt hàng ngày của chúng ta sẽ thực sự mang ý nghĩa và chiều kích Thánh Thể[177], vì “nơi bí tích Thánh Thể, chúng ta trở thành điều mà chúng ta lãnh nhận, là trở nên Thân Mình Chúa Kitô”[178].

 Trước hết, việc soát xét lương tâm mà thánh Phaolô dạy[179] để chuẩn bị dâng thánh lễ và rước lễ sẽ giúp chúng ta ý thức mình bất xứng, phải cậy dựa vào ơn Chúa và lời cầu bàu của Giáo Hội. Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm ý muốn và kế hoạch của Ngài trong phụng vụ Lời Chúa, mà chúng ta phải liên kết với các thực tại của cuộc sống, ngõ hầu cuộc sống được biến đổi bởi chính Lời ấy, khiến chúng ta sống và hành động xứng danh linh mục trong việc phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn.

 Như đã làm trong bữa tiệc ly với bánh, Chúa Giêsu cũng cầm lấy chúng ta và chúc phúc cho chúng ta, khi kêu gọi và tuyển chọn chúng ta. Chúng ta tạ ơn Chúa và có lẽ phải hét lên vui mừng, vì tình yêu vô điều kiện Chúa ban và vì may mắn của chúng ta, là được chọn dù chưa chắc chúng ta đã tốt hơn những người khác. Ước gì chúng ta không bao giờ sợ bị cầm lấy và chúc phúc như thế, bởi Chúa và Giáo Hội, cùng những người chúng ta phục vụ, kể cả qua những gánh nặng khó khăn, thử thách đau khổ, tuổi tác và bệnh tật của chúng ta.

 Để luôn trung thành giữ lời cam kết với Chúa và với Hội Thánh, đôi khi chúng ta cảm thấy đời sống và con tim bị bẻ ra vì hiểu lầm và đau khổ, vì sự cô đơn và những chiến đấu chống lại những ước muốn nhân loại yếu đuối bên trong và các cơn cám dỗ tấn công từ bên ngoài. Nhưng khi hiểu được ý nghĩa của đời sống bị bẻ ra như tấm bánh vì Chúa và vì tha nhân, chúng ta sẵn sàng hiến tặng thời giờ, của cải, sức khỏe, hạnh phúc, niềm vui, cả những đau khổ và buồn phiền cho Chúa và các linh hồn, vì tất cả những thứ đó cũng chính là cuộc sống và con người chúng ta. Thánh Phaolô khẳng định: tôi rất vui lòng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi vì các linh hồn”[180], và chính đó là hiến tế cuộc đời đẹp lòng Chúa mà Ngài hằng chờ đợi nơi chúng ta. Quả thế, máu các thánh tử đạo đổ ra vì Chúa và vì Nước Trời chỉ có một lần thôi, nhưng máu của chúng ta đổ ra cách này hay cách khác, mỗi ngày, từng giọt một, qua trách nhiệm và bổn phận từng ngày sẽ khó khăn hơn và công nghiệp hơn: “Một lúc đổ cả máu đào, hay từng giọt một đằng nào công hơn?” Và như Thánh Phaolô, mỗi ngày, chúng ta bổ khuyết nơi thân xác chúng ta phần còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn cứu thế của Đức Kitô.[181]

 Bánh và rượu dâng lên sẽ được quyền năng Chúa biến thành Mình và Máu Chúa Kitô. Nếu chúng ta dâng bản thân chúng ta, những tình cảm và tình yêu, những vấn đề, những lo lắng, đau khổ và hạnh phúc… thì quyền năng ấy cũng sẽ biến đổi thành những gì tốt đẹp hơn, hữu ích hơn cho chúng ta và cho các linh hồn, nhất là các linh hồn được trao phó cho chúng ta trách nhiệm. Đặc biệt, nếu chúng ta dâng những yếu đuối và tội lỗi của chúng ta, Chúa sẽ tha thứ, biến đổi và thánh hoá chúng ta, bởi vì với Chúa, chẳng có tội gì quá nặng đến đỗi Chúa không thể tha thứ, miễn là chúng ta thực tình ăn năn trở lại đón nhận ơn Chúa! Vì thế, ĐTC Phanxicô dạy rằng Thiên Chúa không bao giờ mỏi mệt để tha thứ, thì chúng ta cũng đừng bao giờ mỏi mệt chạy đến xin ơn tha thứ, và Ngài thúc giục chúng ta “Hãy tin tưởng đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn tha thứ cho chúng ta[182].

 Trong việc sống thánh lễ này, chúng ta cũng được mời gọi sống và làm chứng cho sự hiệp nhất của Hội Thánh: nhiều hạt lúa miến kết thành tấm bánh, nhiều trái nho ép thành ly rượu. Sự hiệp nhất này là nguồn mạch và bằng chứng hữu hiệu cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.[183] Nhờ việc sống thánh lễ, chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh biến đổi của Bí tích Thánh Thể và tìm thấy nơi mầu nhiệm này sự can đảm và nguồn sức mạnh để đi theo Chúa Giêsu và phục vụ Ngài nơi tha nhân. Nguồn sức mạnh này, chúng ta kín múc dồi dào từ Bí tích Thánh Thể, được cử hành trong thánh lễ mỗi ngày và được thờ phượng nơi Nhà Tạm mỗi khi đến viếng Mình Thánh Chúa,[184] như chính Chúa Giêsu mời gọi “hãy đến với Ta, hỡi những ai đang vất vả và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho[185].

Quả thế, chính Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ nạp lại năng lượng và tăng thêm nhiệt huyết tông đồ cho chúng ta, bằng việc tiếp tục kích hoạt ngày sống và đổ đầy niềm hy vọng vững chắc cho chúng ta. Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ thường hằng của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu nâng đỡ hành trình của chúng ta tiến về hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Đây là thứ tình yêu vượt thắng mọi tình yêu nhân loại, dù có khi rất hấp dẫn và cần thiết tự nhiên. Chính từ nơi Nhà Tạm mà chúng ta phục hồi và nạp thêm năng lượng cho đời sống thiêng liêng và sứ vụ của mình, vì trước khi muốn nói về Chúa thì phải ở với Chúa, nói với Chúa và lắng nghe Chúa nói đã. Thánh Phêrô khuyên “Anh em hãy trao trút nỗi lòng của anh em cho Chúa, vì Ngài hằng thương yêu chăm sóc đến anh em[186]. Ai trong chúng ta đã không có hơn một lần trải nghiệm những thăng trầm vấp ngã? Hãy năng chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Hiện nay trên thế giới, việc Chầu Thánh Thể Liên Tục Ngày Đêm để cầu nguyện cho hòa bình, cho việc phục hồi và canh tân giáo xứ, cộng đoàn rất được cổ vũ. Chúng ta chưa làm được như thế, ước gì chúng ta sẽ ý thức làm tốt hơn giờ chầu Thánh Thể hằng ngày của chúng ta.

 Việc cử hành Thánh lễ kết thúc, nhưng việc sống Thánh Thể vẫn tiếp tục trong cuộc đời chúng ta. Lễ xong, chúng ta ra đi để sống mầu nhiệm vừa cử hành, để sẻ chia những gì mình vừa lãnh nhận, để đem yêu thương cho mọi người trong cuộc lữ hành đức tin. ĐTC Biển Đức XVI dạy: “Thánh Thể không tách xa chúng ta khỏi những người đương thời với chúng ta; ngược lại, bởi vì Thánh Thể là cách diễn tả hay nhất của tình yêu Thiên Chúa, nó mời gọi chúng ta cộng tác với tất cả anh chị em mình để đương đầu với những thách đố hiện tại và làm cho hành tinh này thành một nơi tốt đẹp để sống.[187] Xin Chúa ban cho chúng ta được ơn tham dự thánh lễ mỗi ngày thật sốt sắng dường như là thánh lễ cuối cùng của cuộc đời mình vậy.

            2. Buông mình theo Chúa Thánh Thần

Chúng ta phải buông mình theo Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”[188]. Thánh Thần cũng sẽ dạy cho chúng ta biết phải nói gì: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói”[189]. Thánh Thần còn nói thay cho chúng ta nữa:“Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” “Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói”[190].

 Hoạt động của Chúa Thánh Thần rất đa dạng và phong phú: Ngài dùng môi miệng ta mà nói điều Chúa muốn nói; Ngài soi sáng trong trí khôn cho ta viết lại; Ngài cũng có thể nắm tay giúp ta viết lên điều Ngài muốn; hoặc Ngài viết ra trên vách cho ta xem mà chép lại, như trường hợp đã xảy ra với vua Bensatsa mà Danien đã giải thích cho[191]. Chính Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biến đổi, kiện toàn đời sống và sứ vụ ơn gọi của chúng ta qua bảy ơn của Ngài:

 Ơn Kính Sợ là hồng ân giúp chúng ta không dám làm bất cứ điều gì khả dĩ làm mất lòng Chúa. Đây là một sự tế nhị của người đang yêu: cậu bé Saviô dóc lòng “thà chết chứ không phạm tội trọng”, mẹ vua thánh Louis luôn nhắc nhở con “thà mẹ nhìn thấy con chết trước mắt mẹ hơn là thấy con phạm tội trọng mất lòng Chúa”, và để bảo vệ đức trinh khiết của mình, Maria Goretti bảo Alexander “Không được làm thế, Chúa không muốn, sa hoả ngục đó”. Như thế, điều quan trọng trong đào tạo kitô giáo là gây nên ý thức sợ tội, vì con người ngày nay bị đánh mất cảm thức về tội, nhất là trong một xã hội dối gian vì thiếu vắng Thiên Chúa. Chính vì vậy, thành công của công việc đào tạo kitô giáo, nhất là đào tạo linh mục và tu sĩ, là biết làm cho người thụ huấn có được lòng kính sợ Thiên Chúa, không dám phạm tội mất lòng Chúa.

 Ơn Đạo Đức giúp chúng ta nhận ra mối tương quan yêu thương giữa chúng ta với Thiên Chúa, và với mọi người, trong tinh thần siêu nhiên và đức tin.

 Ơn Suy Biết giúp chúng ta có thể đánh giá các sự vật ở trên bậc thang giá trị đích thực. Đừng hiểu lầm lời mời gọi quyết liệt từ bỏ cha mẹ để đi theo Ngài của Chúa Giêsu (“Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ” hay “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”)[192]. Chúa không bao giờ bảo ta ghét cha mẹ, gia đình hay bản thân, nhưng là biết đặt nó vào đúng vị trí của nó trên bậc thang giá trị, ví dụ chúng ta có bổn phận thảo kính và mến yêu cha mẹ, nhưng cha mẹ lại không thể được đặt cao hơn Chúa và tình yêu đối với Chúa.

 Ơn Sức Mạnh giúp chúng ta can đảm vượt lên những chướng ngại để chọn lựa như Chúa muốn và sống theo ý Chúa. Thánh nữ Françoise de Chantal khi đã góa chồng và nuôi dạy bốn người con trưởng thành, bà gặp thánh François de Salle, biết được lời mời gọi và ý muốn của Chúa nên muốn đi tu, bốn đứa con nằm dài trên lối đi ngăn cản, bà đã can đảm tay cầm khăn vừa gạt nước mắt vừa bước qua từng người con để từ bỏ gia đình ra đi sống đời tu trì và lập dòng Visitadines.

 Ơn Lo Liệu giúp chúng ta tìm ra những phương thế và cách sống nào thích hợp nhất để thực hiện điều Chúa muốn, đúng theo bậc sống của mình.

 Ơn Thông Hiểu đưa chúng ta vào sự thật viên mãn khi đọc Lời Chúa.[193] Nhiều người có thói quen xin ơn Chúa Thánh Thần mỗi khi giảng hay dạy giáo lý và khuyên bảo: Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục tác động, biến đổi và thánh hóa tâm hồn con cùng tâm hồn những người sẽ lắng nghe con, xin Chúa dùng môi miệng con mà nói điều Chúa muốn nói. Có thế thì bài giảng hay bài giáo lý mới đưa Lời Chúa vào thực tiễn cuộc sống và biến đổi cuộc sống được.

 Ơn Khôn Ngoan mang lại ơn chiêm niệm, cảm nếm được sự dịu ngọt và khôn ngoan của Thiên Chúa.[194] Thánh Phaolô kể lại việc ngài đã được ơn này như thế nào: không còn biết đến thế giới vật chất này nữa, không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian nữa, “ở trong thân xác hay ngoài thân xác” ngài đều không biết[195]. Cụ già Simêon được ơn này lúc bồng Chúa Hài Nhi trên đôi cánh tay cằn cỗi của mình, mà lòng mãn nguyện thốt lên “xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, vì mắt tôi đã được nhìn thấy Ơn cứu độ.”

 Chính Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa, cho họ nói tiếng lạ, biến đổi họ nên can đảm rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh và hôm ấy có khoảng ba ngàn người theo Đạo.[196] Chúng ta hãy luôn trung thành và ngoan ngoãn nghe theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, vì “chính ơn Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta có khả năng thi hành sứ mạng và củng cố chứng tá của chúng ta,”[197] nhờ đó mà chúng ta mang lại hoa trái tồn tại, không những cho mình mà cho mọi người: Bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, tế nhị, tốt bụng, quảng đại, hòa nhã, trung tín, khiêm tốn, tự chủ và thanh khiết.

 Vì tất cả những lẽ đó, thánh Phaolô nhắc đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần,[198] đừng dập tắt Thần Khí.[199] Còn Chúa Giêsu thì khẳng định rằng ai phạm đến Chúa Thánh Thần thì chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.[200] ĐHY Filoni, Tổng trưởng Bộ Phúc Âm Hóa các Dân Tộc, khuyến khích cởi mở hết sức có thể cho sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để có thể trả lời cách thích đáng cho những mong đợi của nhân loại. Ngài tuyên bố: “Cần thiết phải đi vào tương quan thân mật với Chúa Thánh Thần để các ý định của Chúa trên cuộc đời chúng ta trở nên rõ ràng.”[201] Còn ĐTC Phanxicô khuyên: “Chúa Thánh Thần, hồng ân của Đấng Phục Sinh cư ngụ trong chúng ta, thanh tẩy chúng ta, soi sáng chúng ta, đổi mới chúng ta, biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta được thông phần vào chính sự sống của Thiên Chúa… Chúa Thánh Thần dạy chúng ta nhìn bằng đôi mắt của Chúa Kitô, sống cuộc sống của mình như Chúa Kitô đã sống cuộc sống của Người, hiểu cuộc đời như Chúa Kitô đã hiểu… Hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta, nói với tâm hồn chúng ta và cho chúng ta biết Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang chờ đợi chúng ta, Ngài là Cha. Ngài yêu thương chúng ta như một người Cha thật, và chỉ một mình Chúa Thánh Thần nói điều này với tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nghe Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần, và hãy tiến bước trên con đường này của tình yêu, lòng thương xót và tha thứ.[202]

 Chúa Giêsu đã khẳng định rằng người cha trần thế vốn xấu ác mà còn biết lựa của tốt cho con cái, thì ắt Cha trên trời sẽ ban ân huệ quí giá nhất là Chúa Thánh Thần cho những ai kêu xin Người. Chúng ta càng phải cầu xin Chúa Thánh Thần đến sửa lại mọi sự trong ngoài đời sống và sứ vụ ơn gọi của mình, đặc biệt trong việc tìm kiếm và xây dựng tình yêu thương hiệp nhất. Xưa trong Cựu Ước, tháp Babel vì ngôn ngữ bất đồng mà thất bại; nay Chúa Thánh Thần ngự xuống cho các tông đồ nói thứ tiếng mà các dân tộc khác nhau đều hiểu được trong tiếng mẹ đẻ của mình, biến đổi họ nên can đảm rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh[203]. Hẳn đó là ngôn ngữ của Tình Yêu, vì chỉ có tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa mới có khả năng biến đổi như thế. Vì vậy, ĐTC Phanxicô khuyên: “Đừng chống lại Chúa Thánh Thần, vì chính Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta tự do, sự tự do của Chúa Giêsu, sự tự do của con cái Chúa! Đừng kháng cự lại Chúa Thánh Thần. Đó là ơn mà cha mong muốn tất cả chúng ta xin cùng Chúa: ơn dễ bảo và vâng nghe Chúa Thánh Thần, vâng nghe Chúa Thánh Thần đang đến với chúng ta và làm cho chúng ta tiến bước trên con đường thánh thiện, sự thánh thiện thật cao đẹp của Giáo hội. Hãy xin ơn dễ bảo và vâng nghe Chúa Thánh Thần[204]. “Người Kitô hữu nào hay cộng đồng nào bị điếc trước tiếng của Thánh Linh, Đấng thôi thúc chúng ta mang Phúc Âm đến tận cùng trái đất và xã hội, sẽ trở thành một Kitô hữu hay một cộng đồng bị câm không nói năng hay truyền bá Phúc âm. Vậy hãy thường xuyên cầu nguyện cùng Thánh Linh để Ngài có thể trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh, ban cho chúng ta hứng khởi và dẫn chúng ta tiến bước”[205].

3. Sống dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria

Mẹ Maria được kêu cầu là Mẹ của Hội Thánh và Mẹ của chúng ta, vì khi trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó Mẹ mình cho Gioan và ký thác Gioan cho Mẹ[206]. “Chúng ta cũng hãy đón nhận Mẹ Maria vào trong nhà nội tâm của chúng ta.[207] Được sự che chở và hướng dẫn từ mẫu của Mẹ Maria nâng đỡ và tăng sức mạnh, chúng ta có thể luôn bước đi trên con đường thánh thiện cần thiết. Chúng ta cần tăng cường lòng sùng kính Đức Mẹ. Sự hiện diện từ mẫu của Mẹ Maria luôn là sự nâng đỡ cho chúng ta. Mẹ Maria đã luôn theo sát Chúa Giêsu Con Mẹ, bây giờ Mẹ vẫn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta. Thánh Maximilianô Maria Kolbê, người yêu mến nồng nàn Đức Maria Vô Nhiễm, viết: “Khi chúng ta hiến mình cho Mẹ, thì trong tay Mẹ, chúng ta sẽ trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để thi thố lòng thương xót của Người, như chính Mẹ là khí cụ trong tay Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy để Mẹ hướng dẫn, hãy đưa tay cho Mẹ dắt dìu, hãy sống yên hàn dưới sự dẫn dắt của Mẹ, chính Mẹ sẽ chăm sóc và tiên liệu mọi sự cho chúng ta, sẽ mau mắn cứu giúp, đáp ứng những nhu cầu hồn xác, và đẩy lui những khó khăn phiền toái cho chúng ta”[208].

 ĐTC Biển Đức XVI cũng thôi thúc: “Hãy vào trường Đức Maria để học biết yêu thương và bước theo Đức Kitô trên hết mọi sự.” Thật vậy, trong trường của Mẹ Maria, chúng ta học biết đặt Chúa Kitô vào chỗ nhất và trung tâm trong cuộc đời chúng ta, học để hướng tư tưởng cùng hành động của chúng ta theo Ngài: “Người bảo gì hãy làm theo.” Đúng vậy, nơi trường của Mẹ, chúng ta học biết thinh lặng, biết lắng nghe và phục vụ, là những điểm mấu chốt của đời sống người môn đệ. Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta tiến sâu vào mối tương quan nhân vị đích thực hơn với Chúa Giêsu, để chúng ta yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu mến. ĐTC Phanxicô dạy: “Khi tìm kiếm Đức Kitô, Hội Thánh luôn luôn gõ cửa nhà của Mẹ mình và hỏi: “Xin Mẹ chỉ Chúa Giêsu cho chúng con.” Chính từ Mẹ mà chúng ta học cách làm những môn đệ đích thực. Đó là lý do tại sao Hội Thánh khi ra đi truyền giáo luôn luôn đi theo bước chân của Mẹ Maria[209].

 Vâng, qua việc chiêm ngắm và lắng nghe Mẹ Maria, chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh nâng đỡ an ủi hầu tìm lại được nguồn sức mạnh để bước theo Chúa Kitô và phục vụ Ngài trong anh chị em. Chính với tinh thần ấy, ĐTC Biển Đức nói: “Khi chiêm ngắm Mẹ Maria, chúng ta phải tự hỏi xem chúng ta có muốn mở ra cho Chúa hay không, có muốn dâng hiến cuộc sống chúng ta cho Ngài để trở thành một nơi ở cho Ngài hay không; hay là chúng ta sợ sự hiện diện của Chúa giới hạn tự do của chúng ta, phải chăng chúng ta muốn dành riêng cho mình một phần đời sống để nó chỉ thuộc về chúng ta mà thôi? Nhưng chính Thiên Chúa là Đấng giải thoát tự do của chúng ta khỏi sự co cụm vào mình, khỏi sự khát khao quyền lực, chiếm hữu, thống trị, và làm cho nó có khả năng cởi mở với chiều kích làm cho nó được sung mãn trọn nghĩa là hiến thân, yêu thương, phục vụ và chia sẻ.[210]

 Có một việc thật đơn giản nhưng rất quan trọng của lòng sùng kính Mẹ Maria là lần Chuỗi Mân Côi, một bản Phúc Âm tóm tắt.[211] Chúng ta nên giữ sống động thói quen lần chuỗi Mân Côi của các cha già, nhất là khi mắt mờ không còn đọc Kinh Nhật Tụng được nữa, các ngài chỉ biết lần chuỗi, lần đến mòn chuỗi, và hãy khuyến khích nhau lần chuỗi, một mình trong nhiều hoàn cảnh, hoặc chung với người khác, theo nhóm hay hội đoàn, đặc biệt là lần chuỗi trong gia đình, vì chuỗi Mân Côi sẽ đốt nóng và làm mạnh thêm mối giây ràng buộc giữa các thành viên. Lời cầu nguyện này sẽ giúp chúng ta được mạnh mẽ trong đức tin, bền vững trong đức ái, niềm vui và kiên trì trong niềm hy vọng.

 Liên quan đến đời sống dâng hiến khiết tịnh, chúng ta hãy mau mắn chạy đến cùng Mẹ Maria mỗi khi gặp khó khăn, nguy hiểm. Là trinh nữ và là mẹ, Mẹ Maria hiểu rất rõ trái tim chúng ta cần gì, và Mẹ biết làm thế nào để giữ cho chúng ta được trung thành với lời cam kết của mình giữa lòng đời hôm nay sao cho “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Chúng ta sẽ tìm được ẩn náu an toàn nơi Mẹ Maria, người Mẹ trên trời của chúng ta. Chúng ta kêu xin Mẹ bảo vệ và biến đổi chúng ta và những người nữ thân thiết với chúng ta trong đời sống ơn gọi hôm nay, cũng như trong đời sống sứ vụ mai ngày. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Chúa Thánh Thần sẽ gìn giữ sự độc thân trong trắng của chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng dâng mình cho Mẹ, chạy đến tìm trú ẩn nơi sự che chở dịu dàng từ mẫu của Mẹ. Chính Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tận hiến cho Mẹ và chia sẻ: “Suốt cuộc đời tôi, tôi đã cảm nghiệm rõ sự hiện diện đầy yêu thương của Mẹ Chúa chúng ta. Mẹ Maria đồng hành với tôi mọi ngày để giúp tôi chu toàn sứ vụ…” Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết bắt chước Mẹ: Fiat, luôn chấp nhận ý muốn và kế hoạch của Chúa; Magnificat, luôn ca ngợi và cảm tạ mọi ơn lành lớn nhỏ Chúa đã ban cho, và Stabat, luôn sống nhẫn nại và bền đỗ đứng vững trong những thách đố và khó khăn của cuộc sống hằng ngày cho đến hơi thở cuối cùng.

 Tôi xin mượn lời kinh này để kết thúc: Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ nâng đỡ con và những người đau khổ trên đường đời, mà thường con không thể chữa lành chỉ với những lời lẽ của con người. Xin Mẹ ban thêm sức cho những người đau khổ phần xác mà lắm lần con không thể làm gì hơn để cứu giúp họ. Xin Mẹ giúp con biết an ủi những người đau khổ trong tâm hồn, thường là những nỗi đau khổ thầm kín đè nặng bước chân của biết bao nhiêu người, đàn ông cũng như đàn bà, thanh niên cũng như thiếu niên, dâng hiến cũng như giữa đời, ở bình minh cuộc sống hay xế bóng tuổi đời. Lắm khi họ không dám bộc lộ những đau khổ của mình ra, tuy nhiên vẫn như chờ đợi ở người môn đệ của Chúa một lời nói hay một cử chỉ mang dấu hiệu hoạt động an ủi của Chúa Thánh Thần. Amen.

            (Mẹ Tình Yêu)

 4. Bí tích Giải tội hữu hiệu hóa cuộc biến đổi

Có sự biến đổi nào hữu hiệu và sâu xa cho bằng sự biến đổi của Bí tích Giải Tội? Qua Bí tích Giải tội, ơn Chúa biến tội nhân thành thánh nhân, biến một con người cũ thành một con người mới hoàn toàn, vì Chúa tha thứ và xóa bỏ sạch hết mọi lỗi lầm. Trong việc đào tạo Tòa trong về mặt tâm lý, Chủng viện có thể gửi ứng sinh đến với một chuyên gia tâm lý. Vị chuyên gia này có thể giúp ứng sinh bộc lộ hết đến tận những sâu kín của cuộc đời mình mà anh không thể nói với cả vị linh hướng của mình. Nhưng để được chữa lành trọn vẹn, vị chuyên gia tâm lý phải gửi trả lại ứng sinh cho hoạt động của Tòa Trong. Điều đó nói lên giá trị và hiệu quả của Bí tích Giải tội. Chúng ta cảm tạ Chúa và Mẹ Hội Thánh về điều này, đồng thời nỗ lực học hiểu và sử dụng cho nên Bí tích này. ĐTC Biển Đức XVI khẳng định: “bao nhiêu cuộc hoán cải và bao nhiêu cuộc sống thánh thiện thực sự đã bắt đầu từ trong một tòa giải tội!”[212]

 Tội lỗi không chỉ làm cho người ta đoạn tuyệt mình khỏi Thiên Chúa, mà còn đoạn tuyệt mình khỏi người khác và đoạn tuyệt với chính mình nữa. Sự xung đột giữa người với người chỉ chấm dứt khi sự xung đột bên trong bản thân mỗi người chấm dứt. Kinh nghiệm bản thân cho chúng ta biết cõi lòng mình là một bãi chiến trường của những xung đột này: chúng ta muốn tránh sự dữ, nhưng lại sa vào làm mồi cho sự dữ; muốn làm điều tốt, nhưng lại bị kéo lôi bởi điều xấu. Chúng ta dễ quên những cơ sở hạ tầng của tội lỗi bên trong chính mình. Những cơ chế bên ngoài của tội lỗi sẽ chỉ biến mất nếu những cơ chế tội lỗi đồn trú bên trong bản thân mỗi người bị giải thể. Có lẽ tội lớn nhất của thời đại chúng ta chính là việc đánh mất cảm thức về tội lỗi, không còn biết gì là tội và không nhận ra tội mình, coi mình là vô tội nếu không bị bắt quả tang. Đây là căn bệnh thời đại cần được giúp đỡ chữa trị khẩn cấp. Chúa Giêsu cung ứng cho chúng ta sự chữa trị đó bằng cái chết trên thập giá của Ngài.

 Chính Chúa Giêsu đã ban cho các Tông Đồ quyền tha tội[213], và Hội Thánh nắm giữ chìa khóa này để mở ra hoặc đóng lại ơn tha thứ, được chuyển qua thừa tác vụ linh mục. ĐTC Phanxicô nói: “Linh mục chính là khí cụ để tha thứ tội lỗi. Sự tha thứ của Thiên Chúa được trao ban cho chúng ta nơi Giáo Hội, và được thông chuyển cho chúng ta qua thừa tác vụ của một người anh em chúng ta. Các linh mục cũng là một con người như chúng ta, các ngài cũng cần sự thương xót, để trở nên một khí cụ đích thực của lòng thương xót, trao ban cho chúng ta tình yêu vô hạn của Chúa Cha. Các linh mục cũng phải xưng tội, các giám mục cũng vậy: Tất cả chúng ta là tội nhân. Đức Thánh Cha cũng xưng tội 15 ngày một lần, bởi vì Đức Thánh Cha cũng là một tội nhân![214]. Ngài còn dạy: “Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy mở lòng ra với Chúa, nhận biết chúng ta là những kẻ tội lỗi, cần đến ơn cứu độ của Chúa, sự tha thứ của Chúa, và tình thương yêu của Chúa, nhất là lòng khiêm nhường để đón nhận lòng thương xót và để Chúa sửa đổi chúng ta thành con người mới[215]

 Linh mục là thừa tác viên của Bí tích hòa giải này, nhưng trong sâu thẳm lòng mình, linh mục cũng nhìn nhận rằng mình vẫn mang trong bản thân mình những mầm mống của tội lỗi và phải đặt mình qui phục lòng thương xót và sự thiện hảo của Thiên Chúa, cũng cần được hòa giải ngay cả khi mình đem lại sự hòa giải cho người khác.[216] Nhờ bí tích Hòa giải, linh mục nhận lãnh, không chỉ sự thứ tha tội lỗi, mà còn nhận lãnh sức mạnh của ơn Chúa để có thể phá tan những cơ chế tội lỗi bên trong bản thân mình và nơi tha nhân.

 Khi nói chuyện với các chủng sinh và tập sinh, ĐTC Phanxicô khuyên: “Cha muốn cho các con một lời khuyên: hãy luôn luôn thẳng thắn với cha giải tội của các con. Hãy nói với ngài mọi sự, đừng sợ hãi… Hãy nói sự thật, đừng che giấu, lấp lửng gì cả, bởi các con đang nói với chính Chúa Giêsu trong con người cha giải tội. Và Chúa Giêsu biết sự thật, và Ngài muốn các con nói với Ngài điều Ngài đã biết. Hãy minh bạch!… Chính Chúa Giêsu đang lắng nghe các con. Hãy luôn luôn có sự minh bạch này trước mặt Chúa Giêsu nơi cha giải tội! Đây là một ân sủng… Và Chúa ôm các con, hôn các con, nói với các con: Hãy đi và đừng phạm tội nữa![217]

Bản chất con người là lầm lỗi, bản chất Thiên Chúa là tha thứ, không có tội gì nặng quá đỗi Thiên Chúa không thể tha thứ được, nếu ta thực sự ăn năn trở về đón nhận ơn tha thứ của Chúa: tội thì tha lỗi thì sửa, mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai... Hãy tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, nhờ ơn Chúa, với cố gắng bản thân và sự giúp đỡ của kẻ khác[218]. Trong chuyến viếng thăm mục vụ Hàn Quốc, Ngài “kêu gọi mọi người không bao giờ mất hy vọng và khích lệ linh mục, giám mục hãy ôm lấy các tội nhân và tỏ lòng thương xót họ; vì Thiên Chúa không mệt mỏi để tha thứ[219].

 Việc cử hành Bí tích Giải Tội luôn là một cử hành phụng vụ, ngay cả với hình thức riêng tư của nó. Thực hành bí tích Giải Tội là một yếu tố trong đời sống cầu nguyện của cả hai người, người xưng thú lẫn người nghe xưng thú. Linh mục là thừa tác viên thường xuyên của Bí tích Giải Tội. Ngài không chỉ đều đặn thực hành bí tích này, mà còn cố gắng hiểu biết tốt hơn và cử hành nghiêm túc, vì bí tích này cũng là một tập luyện tuyệt vời về nhân đức, đền tội…, là trường tu đức không thể thay thế, là một sự trợ giúp thực sự trên con đường đổi mới và nên thánh. Bí tích giải tội là một trong những quà tặng đặc biệt của linh mục cho kẻ khác, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho linh mục tăng trưởng trong đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử.

 Nhưng trong cuộc cử hành Bí tích Giải tội, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh tới sự cần thiết phải mở ra một cuộc “đối thoại cứu độ”. Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với mọi tình huống cụ thể của hối nhân, như nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa; nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng; cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi; khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời tu. Nhờ những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử hành này có thể liên kết với việc linh hướng. Trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân; phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi và trả lời để vừa bảo đảm được tính cách riêng tư của hối nhân, vừa tránh nguy cơ tố cáo người thứ ba. Cuộc đối thoại tế nhị này sẽ giúp làm sáng tỏ các yếu tố cần thiết hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng giúp hối nhân thay đổi lật sang một trang mới của cuộc đời mà trở nên tốt hơn. Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ những người khác cách hữu hiệu.

 Nhưng để làm việc này, tâm hồn linh mục phải ở trong tình trạng ơn thánh hóa và bình an, nhất là khỏi ba thứ tội tối kỵ kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh: Lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm. ĐTC Phanxicô nói: “Việc phục vụ mà linh mục thực hiện như một thừa tác viên của Thiên Chúa để tha thứ tội lỗi của chúng ta là một điều rất tế nhị và đòi hỏi tâm hồn của ngài phải bình an, một vị linh mục có tâm hồn bình an không đối xử tệ với các tín hữu, nhưng dịu dàng, nhân từ và thương xót; ngài biết cách gieo niềm hy vọng vào các tâm hồn, và trên hết, ngài phải nhớ rằng người anh chị em đến cùng Bí Tích Hòa Giải để tìm kiếm sự tha thứ và làm điều ấy như nhiều người đã đến gần Chúa Giêsu để được Người chữa lành. Nếu linh mục không ở trong tình trạng chuẩn bị tâm hồn bình an, thì tốt hơn là ngài đừng ban Bí Tích này cho đến khi sửa đổi[220].

 Toà giải tội không phải là một tiệm giặt mà thuốc nhuộm sẽ xoá mờ đi các vết tội của chúng ta. Tòa giải tội cũng không phải là một nơi tra tấn. Tòa giải tội là nơi gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đang chờ con người thật của chúng ta, dù có phải xấu hổ khi nói ra sự thật. Biết xấu hổ là một đức tính của khiêm nhường Kitô giáo và cũng là một đức tính nhân bản… “Ước gì tấm lòng biết xấu hổ này được chúc phúc vì nó là một đức hạnh. Xin Chúa cho chúng ta ơn này, can đảm để luôn luôn đến cùng Ngài với sự thật, vì sự thật là ánh sáng giải thoát chúng ta. Và cũng không đến với bóng tối của những sự thật nửa chừng hay với lời nói dối trước mặt Thiên Chúa… Chúa luôn chờ tôi với tấm lòng yêu thương để tha thứ cho tôi. Và nếu ngày mai tôi phạm tội lại thì sao? Thì đi xưng tội thêm một lần nữa, thêm một lần nữa, thêm một lần nữa và thêm một lần nữa. Chúa luôn luôn chờ chúng ta, với tấm lòng dịu dàng, hiền hậu và khiêm nhường của Chúa[221].

 ĐTC Phanxicô nhấn mạnh: “Thiên Chúa không bao giờ biết mệt mỏi khi tha thứ, qua thừa tác vụ của linh mục, Ngài giữ chúng ta trong vòng tay ôm ấp mới, là vòng tay có khả năng tái tạo chúng ta, cùng giúp chúng ta tự mình đứng dậy một lần nữa và tiếp tục cuộc hành trình, bởi vì đây là cuộc sống của chúng ta: không ngừng đứng lên và tiếp tục cuộc hành trình của mình[222].

            Bí tích Giải tội giúp thay đổi trí não và con tim chúng ta. Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định. Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài, xuyên qua Phúc Âm, các dấu chỉ thời đại, các biến cố thăng trầm của cuộc sống mỗi ngày, thì chúng ta cũng phải đổi mới lời đáp trả của mình cho tương xứng. Mọi việc Chúa làm đều mang dấu ấn của thay đổi và qua những thay đổi ấy, chúng ta được tái sinh, được tồn tại, ngày một tích cực hơn, thánh thiện hơn, nhờ giết chết cái chất trần tục quá khứ và lớn lên trong con người tu đích thực: thay đổi con tim, thay đổi tâm thức, thay đổi lối sống và cuộc sống[223].

5.  Con đường Thập Giá

 (Có một con đường Chúa muốn con đi)

Thiên Chúa toàn năng có thể dùng nhiều con đường khác để cứu độ loài người, nhưng Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá, nên thập giá là con đường tốt nhất, hiệu quả nhất.[224] Chính Ngài đã minh định rất rõ ràng chỉ có một con đường duy nhất để đi theo Ngài: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mọi ngày mà theo”[225]. Và người môn đệ đích thực là người tự do tự nguyện bước đi trên con đường Thập Giá và trung kiên theo Thầy cho đến cuối cuộc đời.

 Nhưng có một điều chúng ta thường hay quên là lắm khi chúng ta không vui vẻ chấp nhận thập giá của mình, mà còn phàn nàn so sánh để rồi đi vác thập giá của người khác và bắt người khác vác thập giá của mình. Chúng ta cũng thường rất lắm lần nghĩ người khác là thập giá nặng cho chúng ta, mà quên đi rất nhiều khi chính chúng ta lại là thập giá nặng hơn cho người khác, nặng đến đỗi người khác không thể vác nổi đành phải buông xuống. Chúng ta cần nhớ điều đó để biết nâng đỡ nhau, nhất là khi gặp thử thách, yếu đuối, thất bại, bệnh tật.

 Thập Giá gắn kết không rời Chúa Giêsu, ngay cả sau khi sống lại thì những dấu khổ nạn vẫn không bị xóa nhòa: “Các con hãy nhìn xem chân tay Thầy, chính Thầy đây, cứ sờ mà xem, ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây[226] – “Tôma, hãy đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay con ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin[227]. Như vậy, thập giá là dấu chỉ cho ta tìm gặp Chúa Kitô đích thực: “Nếu Chúa Kitô mà chúng ta mường tượng không phải là ‘Chúa Kitô Khổ Nạn’, thì đấy là chúng ta đang mường tượng một ai đó khác, chứ không phải là Chúa Kitô thực.” Nhưng đứng trước thập giá cuộc đời, chúng ta thường phải chịu cơn cám dỗ tìm kiếm một Chúa Giêsu không thập giá. Thật vậy, Phêrô kéo Chúa Giêsu ra ngoài và can ngăn về chuyện Ngài tuyên bố quá rõ ràng về cuộc khổ nạn và cương quyết đi lên Giêrusalem. Nhiều lúc chúng ta cũng làm như Phêrô và đáng bị lời quở trách “Satan, hãy xéo đi!” bởi vì chúng ta không biết việc của Thiên Chúa mà chỉ biết việc của loài người[228]. Nếu cố tìm một Chúa Giêsu không có thập giá, chúng ta sẽ có nguy cơ gặp phải thập giá mà không có Chúa Giêsu, và làm thế là tự hại mình, tự chuốc khổ cho chính mình!

 Là môn đệ của Chúa Kitô chịu đóng đinh, chúng ta được mời gọi cách đặc biệt rảo qua con đường thập giá này. Mỗi ngày chúng ta được dấn sâu vào mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm của hy tế, dù lắm khi thập giá dường như quá nặng khiến chúng ta muốn qụy ngã. Nhưng mầu nhiệm thập giá không được hoàn tất bởi cái chết, song bởi đời sống mới của sự sống lại. Suốt dòng lịch sử của mình, Giáo Hội hầu như luôn luôn bước đi trên con đường hy tế thập giá này. Trong nhiều đất nước, các nhà truyền giáo đã tiến bước suốt nhiều năm hướng về Golgotha, vác lấy thập giá hy sinh và bách hại. Nhiều người trong chúng ta cũng đã hay đang trèo lên con đường dốc đứng đó, dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Con đường thập giá của Giáo Hội, của các tín hữu, và của chúng ta vẫn kéo dài mãi. Những cuộc bách hại, từ ngoài lẫn từ trong, vẫn còn đó hay đã thay đổi chút ít, nhưng thập giá vẫn không thay đổi và vẫn đè nặng, khiến lắm lần chúng ta dường như bị oằn xuống dưới sức nặng của thập giá.

 Thập giá là một trong những nghịch lý lạ lùng của Kitô giáo[229], nhưng thập giá không phải là kết điểm của con đường, mà là cánh cổng dẫn vào sự sống: thất bại chuyển hóa thành chiến thắng, chính chỗ sự sống bị tước đoạt lại trở thành nơi sự sống được phục hồi, như khi toan trút hơi thở sau hết, Chúa Giêsu tuyên bố “mọi sự đã hoàn tất.” Cũng là nghịch lý rằng cuộc sống chúng ta càng cắm rễ sâu vào thập giá càng trổ sinh hoa trái nhiều hơn, như Chúa Giêsu, chính khi đi đến cùng con đường trút bỏ trở thành trống không mà đạt đến mức tuyệt đỉnh: cứu vớt nhân loại khỏi tội lỗi và giải hòa toàn thể nhân loại với Thiên Chúa.

 Nếu chúng ta muốn sống cuộc đời ơn gọi của mình theo Chúa Kitô, chúng ta phải theo Ngài đến tận cùng trong con đường thập giá của Ngài. Đường thập giá của Chúa Giêsu đã là con đường đầu tiên, nhưng không phải là con đường cuối cùng, vì còn có chúng ta và bao nhiêu người khác đang bước theo Ngài, đang muốn đi cùng Ngài đến tận cùng trong con đường thập giá. Giáo Hội đã không quên con đường thập giá. Giáo Hội không bao giờ che giấu thập giá. Thập giá vẫn luôn có mặt trong Phụng vụ: Giáo Hội tán dương và suy tôn thập giá Chúa Giêsu cùng nỗi đau đồng công cứu chuộc của Đức Mẹ Sầu Bi. Hằng năm chúng ta được mời gọi sống cao độ ý nghĩa của hai ngày lễ này. Thập giá không chỉ là gánh nặng, nhưng phải được xem là cây gậy nâng đỡ, như đối với người già yếu và bệnh tật: vào mọi thời và ở mọi nơi, bao nhiêu người vẫn không ngừng hăm hở đến với thập giá, chiêm ngắm thập giá, yêu mến thập giá. ĐGH Phanxicô đã nói ngay sau ngày được bầu chọn rằng: “Khi chúng ta bước đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng Giáo hội mà không có Thánh Giá, khi chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô mà không có Thánh Giá, thì chúng ta không phải là môn đệ của Chúa. Cầu mong tất cả chúng ta có được sự can đảm bước đi cùng với Thánh Giá của Chúa Kitô, xây dựng trên máu Chúa Kitô đổ ra trên Thánh  Giá, và tuyên xưng một vinh quang duy nhất là Chúa Kitô bị đóng đinh trên Thánh Giá”. Còn thánh Phaolô hãnh diện: “Tôi chẳng hãnh diện về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian[230].

 Đường thập giá là trường dạy chúng ta sống thánh thiện. Chúa Giêsu ngã xuống rồi lại chỗi dậy mời gọi chúng ta đừng bao giờ ngã lòng vì yếu đuối tội lỗi của chúng ta. Ngài chịu đựng nỗi cô đơn, chịu hành hạ và lăng nhục, nhưng Ngài luôn tha thứ. Mẹ Maria cũng đã đi theo Con Mẹ trên đường thập giá. Mẹ bước đi trong thinh lặng, Mẹ và Con nhìn nhau tận trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ và Con kết hiệp với nhau bởi tình yêu bao la, sâu thẳm và trong trắng. Tình yêu này sẽ làm thế giới thay đổi. Xin cho chúng ta được thấm nhuần tình yêu của Chúa và tình yêu của Mẹ Maria. Mẹ đã đứng kề thập giá Chúa Giêsu, Mẹ cũng luôn đứng kề thập giá cuộc đời và sứ vụ ơn gọi của chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ như đang ở trên đỉnh đồi Golgotha, dưới chân thập giá, bên cạnh Mẹ Maria, nơi đã và đang mãi mãi tập trung sức mạnh lớn nhất của thế giới: tình yêu của Thiên Chúa trong Con của Ngài[231]. Tình yêu này không bao giờ cạn kiệt, không bao giờ thôi là sức mạnh cứu độ của thế giới, một khi Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha đời sống mình làm hy tế. Chúng ta hãy chạy tới chỗ của mình bên cạnh Mẹ Maria và Gioan ở gần chân thập giá, ý thức thân phận con người mỏng dòn yếu đuối và tội lỗi của mình, trao phó cho Chúa những nỗi sợ hãi và do dự của chúng ta trước những khó khăn thử thách, nhất là trong bối cảnh Giáo Hội và Xã hội Việt Nam hôm nay.

 Chúng ta cứ kiên trì trèo lên con đường thập giá kết hợp với Chúa Kitô toàn thể vừa với thập giá và mão gai trên đồi Golgotha, vừa với vinh quang trên núi Tabôrê và chiến thắng phục sinh vinh hiển, như ĐTC Phanxicô đã nói: “Không ai có thể tiếp cận và chạm vào Thánh Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính họ dưới chân Thánh Giá, và không mang lấy một cái gì đó của Thánh Giá Chúa Giêsu vào cuộc sống riêng của mình[232]. Chúng ta phải luôn sống và làm chứng tá cho niềm tín thác ấy, tin tưởng Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta, luôn đứng bên thập giá của chúng ta và che chở chúng ta, dù có khi phải trả giá đắt bằng cả mạng sống: Hỏi rằng sao trả quá đắt, đồi cao thánh giá ai dắt ai dìu? – Dẫu rằng phải trả quá đắt, đồi cao thánh giá Mẹ dắt Mẹ dìu.  

(Mẹ dẫn dắt con)

NGHI THỨC SÁM HỐI CỘNG ĐỒNG

Chiều Thứ Năm 5/3/2015

 I.       Nghi thức mở đầu và Lời Chúa

Chủ sự tiến ra bàn thờ chào cộng đồng:

Nguyện xin ân sủng, lòng từ bi và phúc lành của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh ở cùng anh em. – Và ở cùng cha.

             Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn sám hối thực sự và xưng tội cho nên. (Thinh lặng giây lát). Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa nhận lời chúng con cầu khẩn và tha các tội chúng con đã phạm, ngõ hầu cuộc đời chúng con được canh tân đổi mới và lòng chúng con được bằng an trong giai đoạn được đào tạo và tự đào tạo này. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. – Amen.

 Mọi người đứng nghe đọc Lời Chúa

Lc 15,1-10:

Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó’. Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn. “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất’. Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.

 II.    Xét mình

Chúng ta được mời gọi suy tư về chính mình, tìm lại sự thật về đời sống chúng ta, vì sự hoán cải nội tâm trở về cùng Chúa chỉ thực hiện được trong tận đáy lòng chúng ta, chứ không phải chỉ dốc lòng cách hời hợt thoáng qua[233]. ĐTC Phanxicô nói “Thiên Chúa không bao giờ mỏi mệt để tha thứ, chúng ta cũng đừng bao giờ mỏi mệt để xin ơn tha thứ”. Chúng ta chân thành đặt mình trước mặt Chúa, sống kinh nghiệm được tha thứ, và được yêu mến mặc dù chúng ta là người tội lỗi.

Mọi người thinh lặng ngồi nghe bài hát “Vết nhơ cuộc đời”. Xong Chủ sự đọc: ĐTC Biển Đức XVI dạy “Việc xét mình giúp hối nhân chân thành cứu xét cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý Phúc Âm và đánh giá nó không chỉ theo các tiêu chuẩn con người, mà nhất là theo các tiêu chuẩn của Mạc Khải. Sự đối chiếu cuộc sống với các giới răn, các mối phúc thật và nhất là với giới luật yêu thương, chính là một trường học lớn của bí tích giải tội[234], và là con đường nên thánh mỗi ngày một hơn.

Rồi hai Thầy thay nhau đọc bản Xét Mình:

A. Bảo vệ đời sống thiêng liêng và ơn gọi

1. Diệt trừ tội lỗi nhờ Bí Tích Giải Tội
  • Tôi có tuyệt đối tránh tội trọng vì nó giết chết sự sống siêu nhiên và làm mất ơn thánh hóa không?
  • Tôi có tránh cả tội nhẹ cố tình vì nó làm suy yếu sự sống siêu nhiên và có nguy cơ dẫn đến tội trọng không?
  • Tôi có tìm biết tại sao tôi đã phạm tội ấy và chọn phương thế thích hợp để tránh không?
  • Tôi có bày tỏ hết với cha linh hướng, để nhờ đó nhận diện được nguyên nhân tội hầu chữa trị tận gốc và trở nên con người mới thuộc về Chúa Kitô mỗi ngày một hơn, trong tương quan với Chúa, với tha nhân, và với bản thân không?
  • Đâu là tính xấu làm đầu của tôi trong bảy mối tội đầu?
  • Tôi đã tập luyện nhân đức đối lập để bài trừ tận tuyệt nó như thế nào?
  • Tôi có ghi ra các tính xấu hay mắc phải và những nhân đức đối lập để tìm ra phương thế cụ thể hầu luyện tập nhân đức và nên thánh không?
  • Tông Huấn Pastores Dabo Vobis đã khẳng định rõ: “Chức linh mục chỉ được phong ban cho những người đã lãnh nhận từ Thiên Chúa hồng ân có được ơn gọi sống tinh khiết trong bậc sống độc thân[235]. Vậy độc thân khiết tịnh có là thách đố quá lớn cho tôi không?
  • Tôi có biết rằng Giáo Hội đòi linh mục phải tiết dục trọn vẹn và trường kỳ không?
  • Tôi có hiểu rằng độc thân khiết tịnh linh mục là khó, cần phải có ơn Chúa và cố gắng liên lỉ không?
  • Tôi có thường xuyên bị cám dỗ trong tư tưởng và đưa tới thủ dâm không? Tôi làm sao để vượt thắng?
  • Tôi có biết rằng nếu một mình mà không làm chủ được mình và cứ thủ dâm dai dẳng thì làm sao tôi vượt lên được cám dỗ bằng xương bằng thịt tấn công? Và như thế thì làm sao mà sống ơn gọi suốt đời được?
  • Tôi có thật tình tin tưởng trình bày và bàn hỏi với cha linh hướng không? Tôi có giấu ngài điều gì không?
  • Tôi có can đảm làm theo hướng dẫn của cha linh hướng, dù trái với ước vọng của tôi và sự đánh giá của tòa ngoài không?
  • Khi cha linh hướng bảo phải trình bày riêng với Bề trên hay Đấng Bản Quyền, tôi có trình bày không?
2. Diệt trừ tính xấu làm đầu và tập nhân đức đối nghịch
3. Độc thân khiết tịnh

4. Xưng tội

  • Tôi nên xưng tội với cha linh hướng để ngài hiểu rõ tôi và giúp tôi hữu hiệu hơn, dù không buộc không?
  • Tôi thường xưng tội với cha linh hướng hay tìm xưng tội với cha khác và không nói gì với cha linh hướng về những lỗi quan trọng?
  • Tôi có biết nếu tôi nói hết, cha linh hướng sẽ chia sẻ trách nhiệm với tôi, còn nếu tôi giấu diếm thì tôi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước mặt Chúa không?
  • Tôi có chọn một ý hướng hay một ý chỉ cụ thể để dâng ngày và cầu nguyện, rồi năng lặp lại trong ngày sống không?
  • Tôi có coi việc sống Mầu Nhiệm Thánh Thể, sùng kính Mẹ Maria và đón nhận Thập giá là phương thế nâng đỡ, giúp tôi trung thành trong đời sống ơn gọi hôm nay trong Chủng viện và trong sứ vụ linh mục mai ngày của tôi không?
  • Tôi có trao đổi với các cha giáo, nhất là cha linh hướng, để có sách thiêng liêng thích hợp mà đọc không? Và tôi có trung thành đọc không?
  • Tôi có quan niệm môn Tu đức phải tương tác với các môn học khác không?
  • Tôi có cầu nguyện và chiêm ngắm trong và qua các môn học khác, để nuôi dưỡng đời sống nội tâm và lớn lên trong đời sống thiêng liêng không?
  • Tôi có coi đời sống chủng viện là một cuộc sống luôn được chỉnh sửa, canh tân và biến đổi nhờ tác động của Chúa Thánh Thần không?
    •    Socrate dạy “Hãy tự biết mình”. Thánh Augustinô cầu nguyện mỗi ngày “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Tôi có trung thành xét mình mỗi ngày không?
    •    Tôi có ghi lại nhật ký tĩnh tâm để giúp tôi dễ xét mình xem mỗi năm tôi tiến bộ, dẫm chân tại chỗ hay thụt lùi thế nào không?
    •    Có nhiều phương pháp nguyện gẫm theo nhiều linh đạo khác nhau, tôi có chọn xây dựng cho mình một cách nguyện gẫm thích hợp không?
    •    Khi nguyện gẫm, tôi có đặt Chúa Giêsu trước mắt (thờ lạy), chăm nhìn Chúa trong Phúc Âm, xem việc Chúa làm, lời Chúa giảng dạy, thái độ và tâm tình của Chúa; đặt Chúa Giêsu trong tim (hiệp thông), yêu mến Chúa và yêu mến như Chúa Giêsu yêu mến, hòa cùng một nhịp tim với Chúa Giêsu; đặt Chúa Giêsu trên bàn tay (hợp tác), nỗ lực đem Chúa đến cho những người tôi gặp gỡ không?
    •    Việc nguyện gẫm chỉ có hiệu quả khi kèm theo một lời dóc lòng cụ thể, khả thi để xét mình và dóc lòng lại cho đến khi làm được mới thôi. Tôi có làm như vậy không?
    •    Tôi có xác tín rằng Thánh Thể là nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống học làm linh mục hôm nay, và của sứ vụ linh mục mai ngày của tôi không?
    •    Tôi có tập sống thân mật với Chúa Giêsu Thánh Thể, năng rước lễ thiêng liêng, viếng Mình Thánh Chúa riêng, ngoài giờ chung của chủng viện không?
    •    Chúa Giêsu mời gọi “Hỡi những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho.” Khi gặp thử thách, tôi có chạy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, trao trút nỗi lòng[236] của tôi cho Ngài như thánh Phêrô khuyên không?
    •    Tôi có ý thức linh mục là “con người của tương quan”[237] và tình huynh đệ giữa các linh mục là tình huynh đệ Bí Tích không?
    •    Tôi đã làm gì để vun đắp cho tình huynh đệ này? Tôi có sẵn lòng giúp đỡ, chỉ bảo anh em, và để anh em giúp đỡ, chỉ bảo cho tôi không?
    •    Tinh thần hợp tác của tôi với anh em, với các nhà đào tạo thế nào?
    •    Dấu chỉ môn đệ của Chúa Giêsu là “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Tôi có nỗ lực làm vô hiệu câu nói chua chát: “Người với người là lang sói, nữ tu với nữ tu là lang sói hơn, và linh mục với linh mục là lang sói nhất” không?
    •    Tôi có xác tín rằng “Ai tuân giữ kỷ luật, thì kỷ luật sẽ gìn giữ người đó” không?
    •    Tôi có suy nghĩ gì về tự do, quyền bính và vâng lời trong Hội Thánh?
    •    Tôi có những điểm kỷ luật nào cảm thấy khó giữ và có tìm biết nguyên nhân để khắc phục không?
    •    Tôi có sẵn lòng mau mắn vâng lời Bề Trên và các nhà đào tạo vì biết rằng các ngài có trách nhiệm, ơn đoàn sủng, ơn biện phân của Chúa Thánh Thần mà tôi không có được không?
      • Tôi có buông mình để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn với bảy ơn của Ngài không?
      • Tôi có chống lại ơn thúc giục của Chúa Thánh Thần không?
      • Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong tôi: Ngài nhắc tôi mọi điều Chúa Giêsu đã dạy, Ngài dạy tôi phải nói gì và nói thế nào, Ngài nói thay cho tôi, và Ngài còn dùng môi miệng tôi mà nói nữa. Tôi có để Ngài làm như vậy cho tôi không?
  • Tôi hiểu và chuẩn bị thế nào cho đời sống linh mục mai ngày của tôi?
  • Tôi có phác họa và xây dựng cho mình mẫu linh mục tôi sẽ thực hiện trong tương lai không? Trong tư cách thầy dạy đức tin, thừa tác viên bí tích và người hướng dẫn cộng đoàn?

B. Tăng trưởng đời sống thiêng liêng

1. Dâng ngày, Thánh Lễ, Chuỗi Mân Côi
2. Sách Thiêng Liêng
3. Xét mình- Nhật ký Tĩnh tâm
4. Nguyện gẫm
5. Viếng Thánh Thể
6. Đời sống bác ái huynh đệ
7. Kỷ Luật Chủng Viện
8. Hướng dẫn của Chúa Thánh Thần

C. Thao thức Tông đồ

1. Thấu hiểu ơn gọi linh mục giáo phận[238]
2. Tinh thần Mục Vụ
  • Tôi có ý thức rằng công tác mục vụ là nhiệm vụ hàng đầu trong sứ vụ linh mục không?
  • Tôi có tập trung tất cả những công việc, học hành hiện tại để chuẩn bị cho các công tác mục vụ tương lai của tôi không?
  • Hướng mục vụ của tôi được gợi hứng từ tinh thần công đồng Vatican II và từ ĐTC Phanxicô là gì?

 Thinh lặng xét mình.

Chủ sự: Anh em thân mến, chúng ta hãy nhớ lại lòng nhân hậu của Chúa mà thú nhận tội lỗi, để lãnh nhận lòng thương xót của Ngài. Tôi thú nhận…

 III.      Lời nguyện cộng đồng và xưng tội

Chúa không đến kêu gọi người công chính, nhưng tìm kiếm người tội lỗi.

Đáp: Xin Chúa thương xót con là kẻ có tội.

Chúa không kết án ai, nhưng tha thứ và cho về bình an.

Đáp: Xin Chúa thương xót con là kẻ có tội.

Chúa tìm kiếm và vác chiên lạc trên vai mà đưa về đàn.

Đáp: Xin Chúa thương xót con là kẻ có tội.

Chúa kêu gọi người thủ lãnh thu thuế hối cải và sống đời sống mới.

Đáp: Xin Chúa thương xót con là kẻ có tội.

Chúa hứa thiên đàng cho người trộm lành ăn năn hối cải.

Đáp: Xin Chúa thương xót con là kẻ có tội.

Chúa ngự bên hữu Chúa Cha và hằng cầu bàu cho chúng con.

Đáp: Xin Chúa thương xót con là kẻ có tội.

Như Chúa Giêsu đã truyền dạy, chúng ta nài xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, như chúng ta cũng cố gắng tha thứ cho nhau. Lạy Cha chúng con ở trên trời…

Thinh lặng để mọi người xưng tội.

IV.       Nghi thức kết thúc

Xưng tội xong, đoàn chủ sự tiến ra bàn thờ đọc lời nguyện:

Lạy Thiên Chúa toàn năng và từ bi, Chúa đã tác thành con người cách lạ lùng và còn tái tạo cách lạ lùng hơn nữa. Khi con người phạm tội, Chúa không từ bỏ nhưng lấy tình phụ tử tìm kiếm và dẫn đưa về. Chúa đã sai Con Chúa đến chịu khổ nạn để hủy diệt tội lỗi và sự chết, cùng sống lại để ban cho chúng con sự sống mới và niềm hoan lạc. Chúa đã ban Thánh Thần xuống canh tân chúng con bằng các bí tích cứu độ của Hội Thánh và cho chúng con ngày càng trở nên giống Con Yêu Dấu Chúa. Chúng con tạ ơn Chúa và cùng toàn thể Hội Thánh, chúng con ca tụng Chúa hết lòng. Nhờ Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng con nguyện xin Danh Chúa được vinh hiển, bây giời và muôn đời. Amen.

Nguyện xin Chúa hướng dẫn anh em tiến bước trên đời sống mới và sống đẹp lòng Chúa trong mọi sự. Amen

Xin Thiên Chúa toàn năng là Cha, và Con, và Thánh Thần ban phúc lành cho anh em. Amen

Chúc anh em đi bình an. Tạ ơn Chúa.

Hát bài “Lạy Mẹ Fatima” để kết thúc.

(9)

BÀI BẾ MẠC

Kính thưa Quý Thầy,

Đây là bài chia sẻ cuối cùng của tuần tĩnh tâm năm. Ngày mai, chúng ta sẽ trở lại nếp sống bình thường của mọi ngày, nhưng hy vọng với một tinh thần mới và một bầu nhiệt huyết tông đồ sẵn sàng được sai đi loan báo Tin Mừng Tình Yêu của Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con ra đi, để các con sinh hoa trái và hoa trái các con tồn tại”[239].

 Qua những lời ấy, tôi muốn nói đôi chút về sứ mệnh truyền giáo của chúng ta. Chúa Giêsu là nhà truyền giáo được Chúa Cha thánh hóa và sai đi đầu tiên.[240] Đức Mẹ thực hiện sứ mệnh truyền giáo khi mang Chúa Giêsu đến thăm bà Elizabeth. Các tín hữu sơ khai bị bách hại đã hăng say truyền giáo tại những nơi họ phải tản mác tới[241]. Ngày nay chúng ta cũng thấy được tính tinh vi xóa bỏ cơ sở tôn giáo trong việc xây dựng và di dời dân chúng tới các khu đô thị và khu dân cư mới. Nhưng đồng thời chúng ta cũng cảm tạ Chúa quan phòng cho thấy đây là một cơ may để thực hiện mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Cứu Thế.[242] Điều quan trọng là liệu các tín hữu chúng ta có sống một đức tin vững mạnh có sức truyền lây như các tín hữu đầu tiên khi bị bách hại phân tán không? Chúng ta có là chứng tá đức ái có sức thuyết phục, và là men làm bột xã hội dậy men Phúc âm không?

 ĐTC Biển Đức XVI nói: “Cha cũng nghĩ về những nhóm di dân gồm hàng triệu người, và thường là những người trẻ. Họ di chuyển đến vùng khác hay quốc gia khác vì lý do tài chính và xã hội. Trong những địa hạt này, chúng ta cũng hãy đón lấy cơ hội để chia sẻ Tin Mừng. Các con đừng sợ làm chứng cho Tin Mừng trong những bối cảnh này. Thật là một món quà quý giá đối với những ai gặp gỡ các con nếu họ nhận được nơi các con sự sẻ chia niềm vui của cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu.[243]

 Công Đồng Vaticanô II, đặc biệt qua Sắc lệnh Ad Gentes, giúp Giáo Hội tái khám phá căn tính truyền giáo của mình. Truyền giáo là bản chất, là lẽ sống, là ý nghĩa, là nguồn gốc và mục đích của Giáo Hội.[244] Do đó, chúng ta phải là những nhà truyền giáo tự bản chất và phải luôn hăng say truyền giáo. Nếu không thế, chúng ta sẽ đánh mất căn tính của mình: “Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm.”[245]

             Đấng Cứu Thế đã sinh ra ở Á Châu, nhưng Kitô giáo ở Á châu ngày nay vẫn còn là một thiểu số tuyệt đối ở cái lục địa rộng lớn nhất địa cầu với gần 2/3 dân số thế giới.[246] Vậy chúng ta phải có trong trí óc và con tim lời kêu gọi khẩn thiết tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu cho đồng bào mình, với ước vọng nồng cháy làm cho Ngài được nhận biết, yêu mến và phụng thờ. Chúng ta phải “tự vấn lương tâm rằng chúng ta có thể sống đức tin thế nào cho tốt hơn và có thể thực hành khá hơn sứ mệnh truyền giáo chúng ta đã nhận lãnh từ Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”(Mt 28, 19-20). Huấn lệnh này ngày nay rất khẩn trương và nghiêm khắc hạch hỏi lương tâm chúng ta, khi chúng ta nghĩ đến 94% người Việt Nam chưa biết Chúa Giêsu.[247]

             Công đồng Vaticanô II mở rộng tầm nhìn của chúng ta ra với Nước Thiên Chúa (lớn hơn là Giáo Hội mà chúng ta thường quan niệm). ĐTC Biển Đức XVI dùng hình ảnh ngôi nhà chung của mọi dân tộc để diễn tả Nước Thiên Chúa này trong ý hướng truyền giáo như sau: “Trong một xã hội đa sắc tộc càng ngày càng kinh nghiệm những hình thức cô độc và dửng dưng đầy quan ngại, các kitô hữu phải học biết đề nghị những dấu chỉ hy vọng và trở nên những người anh em đại đồng, bằng việc vun trồng những lý tưởng lớn lao biến đổi lịch sử, và không ảo tưởng sai lạc hay sợ hãi vô ích, dấn thân biến hành tinh này thành ngôi nhà chung của mọi dân tộc.”[248]

            Có một tương tác chặt chẽ giữa phụng vụ đích thực và truyền giáo. Truyền giáo là để đưa mọi người vào hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống trong phụng vụ Thánh Thể. Và chính kinh nghiệm hiệp thông với Thiên Chúa sẽ thúc đẩy chúng ta truyền giáo. Phụng vụ mang lại cho chúng ta lòng nhiệt thành truyền giáo và thánh hóa thế giới. Phụng vụ Thánh Thể còn được kết thúc bằng dấu chỉ truyền giáo, nghĩa là chúng ta được sai đi, được trao sứ vụ chia sẻ với tất cả mọi người kho tàng chúng ta đã khám phá trong thánh lễ qua hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.

            Nhưng truyền giáo không chỉ nhắm tới lương dân, nhằm đưa người ngoài vào trong Giáo Hội, mà còn nhằm thăng tiến người ở trong Giáo Hội, nhằm làm cho Phúc Âm thấm nhuần đời sống người tín hữu, đời sống và mọi hoạt động của Giáo Hội. Từ đó, chúng ta có cụm từ tái Phúc Âm hóa[249] và có thể liên kết với bất cứ phạm trù nào, ví dụ tái Phúc Âm hóa Phụng vụ, tái Phúc Âm hóa nhân sự, tái Phúc Âm hóa cơ cấu, tái Phúc Âm hóa cộng đoàn, tái Phúc Âm hóa giảng thuyết v.v… Và chính việc tái Phúc Âm hóa này làm cho chúng ta có đủ nội lực và khả năng thực hiện công cuộc truyền giáo hiệu quả, như thánh Phaolô quả quyết “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” khiến “tôi có thể làm đuợc mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.[250]

            Chúng ta cảm tạ Chúa về Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới kỳ XIII (7-28/10/2012) với chủ đề “Tân Phúc Âm hóa để loan truyền đức tin Kitô giáo” nhằm tái khám phá những cách thức mà các cá nhân đến được với Chúa Giêsu, tin tưởng vào ơn linh ứng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ dạy chúng ta những gì chúng ta cần nói và những gì chúng ta cần làm, kể cả trong những thời khắc khó khăn nhất, để đem người ta đến với Chúa Kitô. Trong Sứ Điệp cho Dân Chúa, THĐ nói riêng với Giáo hội tại Á châu: “Là thiểu số nhỏ trong châu lục chiếm gần 2/3 dân số thế giới, sự hiện diện của anh chị em là hạt giống tốt được giao phó cho quyền năng Chúa Thánh Linh phát triển trong đối thoại với các nền văn hóa khác nhau, với các tôn giáo truyền thống và với vô số người nghèo… Mặc dù thường bị xã hội ruồng bỏ và ở nhiều nơi còn bị ngược đãi, Giáo hội Á châu với niềm tin vững chắc là nơi hiện diện quan trọng của Tin Mừng Đức Kitô để công bố công lý, sự sống và hòa hợp.[251]

ĐTC Phanxicô rất năng nhấn mạnh việc đi ra vùng ngoại biên của cuộc đời để gặp gỡ, để đối thoại, để loan truyền tin Mừng cứu độ. Tôi xin gửi đến Quý Thầy những lời tâm huyết Ngài viết cho các người thánh hiến trong Tông Thư Năm Đời Sống Thánh Hiến:

Tôi mong đợi nơi anh chị em điều mà tôi yêu cầu tất cả mọi thành phần của Giáo hội, là ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại biên của cuộc đời: ‘Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ’, đó là những lời cuối cùng của Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ và hôm nay vẫn còn ngỏ cho tất cả mỗi người chúng ta (x. Mc 16,15). Cả một nhân loại đang chờ đợi: những người đã mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước tương lai, những người già lão bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trống rỗng trong lòng, những người đang tìm ý nghĩa cuộc đời, khao khát đời sống tâm linh… Anh chị em đừng khép lại trong chính mình, đừng để mình bị ngột ngạt với những chuyện lẩm cẩm trong nhà, đừng bị giam hãm trong những vấn đề nội bộ. Những vấn đề này sẽ được giải quyết nếu anh chị em đi ra ngoài để giúp những người khác giải quyết những vấn đề của họ và loan báo Tin mừng. Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi trao ban sự sống, tìm thấy hy vọng khi trao ban hy vọng, tìm thấy tình thương bằng cách yêu thương. Tôi mong đợi nơi anh chị em những cử chỉ cụ thể của việc đón tiếp người di dân, gần gũi những người nghèo, những cử chỉ sáng tạo trong việc huấn giáo, rao giảng Tin mừng, hướng dẫn cầu nguyện”.

Hai chiều kích dưỡng giáo và truyền giáo phải tương tác với nhau: càng đào hào đắp lủy bảo vệ pháo đài càng bị thu hẹp phạm vi và càng bị cô lập yếu thế; trái lại càng mở rộng vòng vây càng có ảnh hưởng và sức mạnh. Hình ảnh đó thật đẹp, càng truyền giáo càng làm cho công cuộc dưỡng giáo của Giáo hội đầy sức sống, và càng sống thấm nhuần Phúc Âm thì việc làm chứng tá và truyền bá Phúc Âm càng hiệu quả, vì không ai có thể cho cái mình không có. Chính trong tầm nhìn đó mà ĐTC Phanxicô thường nhấn mạnh đến văn hóa gặp gỡ, đi ra vùng ngoại biên để chia sẻ cảm thông và truyền bá Tin Mừng.

Tôi xin được dừng lại ở đây để chúng ta cử hành Giờ Thánh Bế Mạc Tuần Tĩnh Tâm Năm với ý nghĩa Được Sai Đi, trong đó, mỗi người chúng ta sẽ bốc lấy một câu lời Chúa bất kỳ, như sứ điệp của Chúa trao cho chúng ta sống trong Năm Mới, mà chúng ta tin tưởng tín thác cho Mẹ Maria. Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến kiện toàn những gì Ngài đã thương khởi sự với chúng ta và cho chúng ta. Amen.

GIỜ THÁNH BẾ MẠC TĨNH TÂM

SỨ ĐiỆp LỜi Chúa cho Năm MỚi

(Chuẩn bị: Trước Bàn thờ, đặt một bàn nhỏ sẽ để cuốn Kinh Thánh mở với hai đèn chầu và hộp đựng các phiếu lời Chúa, sau khi được cung kính rước từ cuối lòng nhà thờ lên).

  1. Hát Kinh Chúa Thánh Thần
  2. Cung nghinh Thánh Kinh và hộp phiếu Lời Chúa

     Đặt MTC lên hào quang

     Hát một bài kính Thánh Thể

     Thinh lặng 5 phút

3. Mở mp3 giờ thánh bế mạc

4. Chủ sự: Hôm nay kết thúc tĩnh tâm, chúng ta sẽ trở lại nếp sống chuẩn bị thường ngày để sẽ ra đi truyền giáo, tìm các linh hồn mà Chúa khao khát về cho Chúa. Để hỗ trợ cuộc chuẩn bị đó, mỗi người chúng ta sẽ cầu nguyện và lên chọn lấy cho mình một câu Lời Chúa, như là Sứ Điệp của Chúa cho mình trong Năm Mới: Qua câu Lời Chúa này, chúng ta cầu nguyện và trao đổi để xem Chúa muốn chúng ta làm gì, thay đổi và chỉnh sửa cái gì, đương đầu với cám dỗ nào và làm sao để vượt thắng? Chúa Giêsu đã dạy rằng “chỉ những ai thực hành Ý Cha trên trời mới vào được Nước Trời”[252]. Lời Chúa cho chúng ta biết được ý Chúa. Xin cho Lời Chúa thực sự soi sáng trí khôn, mời gọi tới đức tin, mở lớn niềm hy vọng, thức tỉnh và đổi mới tình yêu của chúng ta: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người[253]. Chúng ta hãy đặt cuộc sống mình dưới sức mạnh của Lời Chúa và làm cho Lời Chúa phát sinh hiệu quả: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.[254]

 Mọi người thinh lặng ra giữa lòng nhà thờ đi lên từng đôi bốc lấy một câu Lời Chúa, vái chào Thánh Thể và Phúc âm rồi về chỗ. Trong khi đó, mở hai bài hát mp3 Lời Chúamp3 Lắng nghe Lời Chúa.

5. Thinh lặng cầu nguyện riêng vài phút

6. Phép Lành MTC như thường lệ

7. Kinh Tối


[1] Tông huấn đầu tiên của ĐTC Phanxicô, ban hành ngày 24/11/2013.

[2] Lời phát biểu của Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Tân Phúc Âm Hoá –  http://www.vietcatholic.net/News/Html/119273.htm.

[3] Được ban hành ngày 21/11/2014, diễn ra từ 30/11/2014 đến ngày 2/2/2016.

[4] Gioan Phaolô II, Pastores Dabo Vobis, số 45.

[5] ĐTC Phanxicô nói ngày 3/3/2014 với Liên đoàn Linh Thao Italia – http://vietcatholic.org/News/Html/121916.htm

[6] Trích bài giảng Lễ Tro ngày 5/3/2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

[7] x. Mc 14, 32-41.

[8] Trích huấn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi tiếp kiến các các giáo lý viên ngày 27 tháng 9 năm 2013.

[9] Bài giảng của ĐTC Phanxicô ngày 21/9/2013 tại Nhà Martha, CNA / EWTN News.

[10] Mt 11, 28.

[11] Tv 34.

[12] Trong bài giảng lễ ngày 13/4/2013.

[13] Được tổ chức năm 2007 tại Đồng Nai – Trích Tin Việt Nam ngày 7/8/2008.

[14] * Chúng ta biết việc quan hệ tình dục trước khi kết hôn là hành vi xúc phạm tới giới răn thứ sáu, là tội gian dâm. Tội này trái nghịch cách nghiêm trọng với nhân phẩm và tính dục của con người. Ngoài ra, nó còn liên quan tới một người khác nữa và cũng có thể là một gương xấu công khai nghiêm trọng khi làm băng hoại giới trẻ (xem GLCG 2353).

[15] Quan điểm của HĐGMVN làm tại Xuân Lộc ngày 25/9/2008 về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay, I, 2&3.

[16] Bộ Tu Sĩ, Huấn thị Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các Dòng, 2/2/1990 số 88-89.

[17] x. GL 233.

[18] Micae-Phaolô Trần Minh Huy, Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của các Linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, 2006, tr. 51-52.

[19] Bộ GDCG, Chỉ dẫn việc huấn luyện độc thân linh mục tr.7-75.

[20] GL 1024-1052.

[21] Theo Health Times và China Daily, Bộ Y tế Trung quốc cho biết sữa bột của công ty Synutra của Trung quốc có chứa hormone sinh dục cao hơn mức bình thường ở người lớn kích thích gây dậy thì sớm ở trẻ 4-15 tháng tuổi.

[22] Xin xem Ephesô 2,1-10.

[23] Xem CWNews 18.03.2010: Một giới chức Vatican nhắc nhở trong tờ Osservatore Romano: Nếu một linh mục thú nhận lạm dụng các trẻ em trong một lần đến bí tích thống hối, thì cha giải tội không được tố cáo vụ lạm dụng ấy cho các thẩm quyền hợp pháp. ĐGM Gianfranco Girotti, một giới chức của Toà Ân Giải, nhấn mạnh rằng ấn toà trong là tuyệt đối. Cha giải tội không được làm bất cứ điều gì dựa trên những lời thú tội của hối nhân hoặc tiết lộ những tội đã được xưng ra cho bất kỳ người nào. Ngài nói: “Việc duy nhất toà giải tội có thể làm là xá tội”. Lời chỉ trích các giám mục Công giáo về việc xử lý và giải quyết các linh mục lạm dụng tập trung vào những trường hợp trong đó những phát hiện lạm dụng là ở ngoài toà giải tội – hoặc qua những khiếu nại từ các nạn nhân hoặc qua những lời thú nhận do các linh mục trong những phỏng vấn hành chính.

[24] Con cóc đẻ trứng dưới nước, nở ra nòng nọc. Khi nòng nọc biến thái, đứt đuôi thành cóc thì lên sống trên khô. Cóc không xuống sống dưới nước, nếu lỡ bị rơi hay bị ném xuống nước, cóc sẽ vội vả tìm cách lên khô. Sự dứt khoát đoạn tuyệt với các tình huống tình cũ cũng phải như thế.

[25] Theo CWNews 26.03.2010, ĐGH Biển-Đức XVI đã rất kiên quyết và dứt khoát trong việc xử lý những trường hợp lạm dụng tính dục.

[26] GL 1043.

[27] Xin xem các biện pháp đối với tệ nạn lạm dụng tình dục.

[28] Nửa Chừng Xuân.

[30] x. GL 241.

[31] Cha Felix M. Padimatham chỉ ra nhiều mẫu gương các Thánh và Chân Phước đã có loại tình bạn này trong cuộc đời các ngài, như thánh Hiêrônimô và bà quả phụ Paula, thánh Gioan Kim Khẩu và nữ trợ tế Olympias, thánh Phanxicô Assisi và thánh nữ Clara, thánh nữ Catarina Siena và Chân Phước Raymon Capua, thánh nữ Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá, v.v…

[32] x. Câu chuyện ‘một nơi kín đáo không ai nhìn thấy’ của thầy Dòng nọ.

[33] 2 Cr 4,7.

[34] CNS 25.11.2010 ghi lại bài giáo lý của ĐTC Biển Đức trong buổi triều yết chung ngày 24/11/2010.

[35] x. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của linh mục tương lai trong bối cảnh Việt Nam ngày nay, tr.283-291.

[36] St 2, 18-24.

[37] Mc 12,17.

[38] x. Mt 26,41; Mc 14,38.

[39] Chúa đã gọi cha, Chúa đã gọi con. Chúa đã gọi, sao còn một tiếng gọi? Lòng nhủ lòng can đảm dẹp mến thương, Vâng tiếng Chúa, quyết giúp nhau sống cho tròn sứ mệnh.

[40] Theo Anita S. Bourdin – http://www.zenit.org/article-25377?l=french, ngày 15/9/2010.

[41] Gl 5,17.24-25.

[42] Ga 17,11.15-19.

[43] Nhớ bài “Lý Con Quạ” Nam Bộ: “Quạ kêu, cái mạ quạ kêu, nam đáo bất đáo nữ phong, người dưng khác họ, chẳng nọ thời kia, ban ngày mắc cỡ, tối ở quên về, chừng ra í a ra về, tình tình mà nhớ thương, chừng ra í a ra về, tình tình mà nhớ thương.”

[44] 1 Cr 9,27.

[45] 1 Tm 5,2.

[46] x. Bài thuyết trình “Giáo Hội cảm phục và biết ơn những người nữ sống đời thánh hiến” của lm. Micae-Phalô Trần Minh Huy pss tại Đại Hội Tu sĩ tòan quốc lần thứ IV ngày 8-10/3/2010 tại Bùi Chu..

[47] Vatican CNA ngày 21/1/2010 http://www.catholicnewsagency.com. Hãng CWN ngày 22/1/2010 còn ghi thêm: “Một nữ giáo dân người Úc, Rosemary Goldie, cũng đã ở vị trí tương đương tại HĐ giáo hoàng về Giáo Dân từ 1966 đến 1976.

[48] CWN ngày 22/1/2010.

[49] Trích bài phát biểu trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 25/1/2014, dành cho 300 tham dự viên hội nghị toàn quốc do Trung Tâm Phụ Nữ Italia tổ chức.

[50] ĐTC nói trong ngày đời sống thánh hiến 2/2/2014.

[51] x. 2 Cr 12,7-10.

[52] Tl 16,4-6.16-21.

[53] Tl 16, 22-31.

[54] 2 Cr 11, 29.

[55] 2 Cr 11,29; 1 Cr 10,12.

[56] Hc 47,13-20.

[57] Mc 14,38.

[58] ĐHY Carlo Maria Martini, Phaolô đối diện với chính mình, trích Alleluiah số 109.

[59] Báo cáo của Philip Pullella, Editing by Rosalind Russell – Roma (Reuters).

[60] Theo thông báo ngày 04/01/2012.

[61] x. Rm 13,11-14.

[62] x. câu chuyện xảy ra tại Ba Lan.

[63] Ra ngày 3/5/2011 và công bố hôm 16/5/2011.

[64] Có ai biết bản kế hoạch và biện pháp của HĐGMVN thế nào không?

[65] Có thể không có cơ hội chăng?! ĐTC Phanxicô trong chuyến tông du 14-18/8/2014 đã nói với các Giám Mục Đại Hàn như sau: “Các vị giám mục không được xa cách thành phần linh mục của mình, hoặc tệ hơn nữa là bất khả đến gần. Tôi cảm thấy nhức nhối khi nói đến điều ấy. Nơi tôi ở có một số linh mục nói với tôi rằng: ‘Con đã gọi cho đức giám mục, con đã xin được gặp ngài; những đã ba tháng rồi mà con vẫn chưa nhận được hồi âm’. Quí huynh ơi, nếu có vị linh mục nào gọi điện thoại cho quí huynh hôm nay và xin gặp quí huynh thì hãy gọi lại cho họ lập tức, hoặc là hôm nay hay là ngày mai. Nếu quí huynh không có giờ gặp họ thì hãy nói cho họ biết rằng: ‘Cha không thể gặp con vì thế này thế nọ thế kia, nhưng cha muốn gọi cho con hay là cha ở đây vì con’. Tuy nhiên, hãy cho họ thấy được việc đáp ứng từ người cha của họ, nhanh bao nhiêu có thể. Xin đừng xa cách các vị linh mục của quí huynh nhé…”

[66] ĐTC Phanxicô phát biểu hôm 5/4/2013, theo CNA/EWTN News.

[67] WASHINGTON DC, 08 Tháng 12 (CNA / EWTN Tin tức).

[68] CNS 3-1-2014.

[69] SD 16-1-2014 – http://vietvatican.net/

[70] Trích từ cuộc phỏng vấn ngày 5/3/2014 ĐTC Phanxicô của nhật báo Ý Corriere della SeraCNA/EWTN News.

[73] Theo Giáo sư Dan B. Allender và cũng là nhà trị liệu tâm lý Kitô giáo, là chuyên gia về việc lạm dụng tình dục.

[74] ĐTC đã khẳng định với các ký giả trên máy bay từ Đất Thánh về Vatican.

[76] http://www.hdgmvietnam.org/uy-ban-toa-thanh-bao-ve-tre-vi-thanh-nien-trach-nhiem-chinh-la-cua-cac-giam-muc/6735.57.7.aspx

[78] Được đăng lại ở Vatican Radio Eng. 13/3/15, J.B. Thái Hòa chuyển dịch.

[79] Các nước Á châu, và ngay cả tại Việt Nam, không phải là không có đâu, nhưng không bị bạch hóa ồn ào vì tâm thức dè dặt kín đáo và tế nhị của người mình thôi.

[80] Presbyterorum Ordinis, số 16.

[81] Sacerdotalis Coelibatus số 12.

[82] Pastores Dabo Vobis số 29.

[83] x. GL 277,1.

[84] PDV. 29; PO. 16; Sacerdotalis Coelibatus 14; GL 277,1.

[85] Chỉ Nam 1994 số 57.

[86] x. 2 Th 2,15; 1 Cor 7,5; Tt 1,6-8; Chỉ nam 1994 số 59.

[87] Bộ GDCG, Đường hướng giáo dục trong việc huấn luyện độc thân linh mục số 16.

[88] Ph 2,7; Ga 3,30; Gal 2,19-20; Ga 10,11.

[89] 2 Cr 4,10; 2 Tim 4,2.

[90] 1 Tm 6,11.

[91] x. Những khái niệm về việc đào tạo bậc độc thân linh mục của Hội Xuân Bích số 27.

[92] x. Bộ Giáo dục Công giáo, Huấn luyện thiêng liêng trong các chủng viện II,3 “những khổ chế thiêng liêng”; Jean-Jacques OLIER, “Con đường nên thánh là con đường thập giá.”

[93] x. 1 Co 4, 14-15 về tình phụ tử của thánh Phaolô đối với các tín hữu.

[94] GL 1026.

[95] Chỉ Nam 1994 số 58.

[96] Lc  6, 12-13.

[97] Lc 10, 2.

[98] Mt 9,36-38.

[99] Is 6, 8.

[100] 1 Sm 3, 1-10.

[101] Lc 1, 26-38.

[102] Lc 5,1-11.

[103] Trích bài giảng trong chuyến Viếng Thăm Mục Vụ Cagliari Chủ Nhật 22/9/2013.

[104] Mt 9,9.

[105] Ga 8, 2-11.

[106] Cv 9, 1-18.

[107] Ga 1,35-50.

[108] Thư ĐTC Biển Đức XVI gửi Người Công giáo Ái Nhĩ Lan, Vatican ngày 20/3/2010.

[109] Nói với hơn 6.000 chủng sinh đến từ khắp nơi trên thế giới trong thánh lễ ngày 20/8/2011 –  http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2011/08/20/duc-thanh-cha-voi-chung-sinh/

[110] Nói trong cuộc gặp các chủng sinh và tập sinh hôm 6/7/2013.

[111] ĐGH Biển Đức XVI, Deus Caritas Est, số 1.

 

[112] Trích huấn từ buổi tiếp kiến chung ngày 23/6/2013.

[113] Optatam Totius số 21.

[114] GL 239,2; 240,2; 246,4; FABC, 7th Plenary Assembly, Spiritual Direction.

[115] ĐTC Biển Đức XVI nói với các chủng sinh ngày 20/8/2011.

[116] Ga 15,16-17.

[117] Gal 2,20.

[118] x. Pl 3,7-14.

[119] Rm 8, 35 – 39.

[120] Ga 1, 40-42.

[121] Vatican Radio ngày 4/10/2013.

[122] Pl 3, 7-9.

[123] Cl 3, 7-8.

[124] 2 Cr 5,17.

[125] Trích Bài đọc 2 Kinh Sách ngày thứ ba Tuần Thánh.

[126] Bài giảng của ĐTC Phanxicô ngày 21/9/2013 tại Nhà Martha, CNA / EWTN News.

[127] Xem bài giảng lễ ngày 17/5/2013 tại Nhà trọ thánh Matta.

[128] ĐTC Biển Đức XVI nói với các tham dự viên khóa học về bí tích giải tội do Tòa Ân Giải Tối Cao tổ chức từ 21/3-11/4/2011 tại Rôma.

[129] x. 1 Cr 6,11.

[130] http://vietnam.ucanews.com/2014/08/17/thien-chua-khong-bao-gio-met-moi-tha-thu-cho-chung-ta/

[131] x. 2 Cr 5,16.

[132] Lc 8, 11-15.

[133] Lc 21,19.

[134] 2 Cr 1,6.

[135] 2 Cr 6, 4-5.

[136] Cl 1,11.

[137] 1 Tm 4,16.

[138] Dt 12,1-2.7.

[139] Gc 1, 12.

[140] Lc 16, 10-12.

[141] 1 Cr 10, 13.

[142] Dt 10, 23-24.

[143] Mt 25, 20-23.

[144] Lc 19, 16-19.

[145] 1 Cr 4,1-2.

[146] 1 Tx 5, 23-24.

[147] Dt 3, 1.6.

[148] Gc 1, 23-25.

[149] Mt 10, 22; 24,13; Mc 13,13.

[150] Ga 16,33.

[151] 2 Cr 1,4.

[152] 1 Pr 4,19.

[153] Kh 2,10.

[154] Kh 2,26.

[155] Kh 17,14.

[156] 1 Cr 1,8.

[157] Ga 13,1.

[158] ĐTC Biển Đức nói với gần 6000 chủng sinh ngày 20/8/2011.

[159] ĐTC Phanxicô nói trong thánh lễ dâng hiến thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria ngày 13/10/2013.

[160] Theo Giáo Luật 1026.

[161] Trích chia sẻ của  ĐTC Phanxicô với giới trẻ Sardinia trong chuyến Viếng Thăm Mục Vụ Cagliari Chủ Nhật 22 /9/2013.

[162] PDV. 28; LG. 28; PO 7,15; GL 245,2.

[163] Chỉ Nam 1994 số 25-29.

[164] Vat. II, Presbyterorum Ordinis, số 8.

[165] Sứ điệp THĐGMTG kỳ XIII số 8.

[166] Chỉ Nam 1994 số 30-31; Công nghị giáo phận Rôma 26-29/5/2009: Mọi thành viên Giáo hội và sự đồng trách nhiệm mục vụ.”

[167] x. Sắc lệnh Chức Vụ và đời sống linh mục, số 9.

[168] Chỉ Nam 1994, số 32.

[169] Trích Sứ điệp ĐTC Biển Đức XVI gửi Diễn Đàn Quốc Tế của Phong Trào Công giáo Tiến Hành họp Đại hội tại Rumani ngày 22-26/8/2012.

[170] 1 Cr 12,31.

[171] 1 Cr 13, 4-7.

[172] Ep 4,2-3.

[173] ĐTC Phanxicô nói trong bài giảng lễ ngày 7/10/2013 tại Nhà Matta.

[174] Trích bài giảng bế mạc Năm Đức Tin ngày 24/11/2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

[175] Porta Fidei, 9.

[176] Lc 22, 14-20.

[177] x. John Paul II, Ecclesia de Eucharistia, số 31.

[178] Sứ điệp Mùa Chay 2015 của ĐTC Phanxicô.

[179] Presbyterorum Ordinis, số 18; 1 Cor 11,27-29.

[180] 2 Cr 12,15.

[181] Cl 1,24.

[182] ĐTC Phanxicô nói trong buổi kinh Truyền Tin ngày 9/6/2013.

[183] John Paul II, Ecclesia de Eucharistia, số 34-36.

[184] John Paul II, Ecclesia de Eucharistia, số 1.

[185] Mt 11,28.

[186] 1 Pr 5,7.

[187] Huấn từ của ĐTC Biển Đức XVI trong Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế 49.

[188] Ga 14,26.

[189] Lc 12,11-12.

[190] Mt 10,20; Mc 13,11.

[191] Dn 5,24-28.

[192] Lc 9,59-62.

[193] x. Ga 16, 13.

[194] Tv 33.

[195] x. 2 Cr 12, 2-10.

[196] x. Cv 2,1-41.

[197] Tông thư Cánh Cửa Đức Tin, số 10.

[198] Eph 4,30: Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc.

[199] 1 Tx 5,19.

[200] Mt 12,31-32: Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.

[201] Trích Bài giảng lễ của ĐHY Filoni tại Chủng viện Owerri ngày 9/11/2012 http://www.news.va/fr/news/vatican-homelie-de-sem-le-cardinal-filoni-aux-semi.

[202] Trích bài giáo lý buổi triều yết chung ngày 8/5/2013.

[203] x. Cv 2,1-41.

[204] Trích bài giảng thánh lễ mừng sinh nhật thứ 86 của đức giáo hoàng Bênêđictô XVI ngày 16/4/2013).

[205] ĐTC Phanxicô huấn từ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa.

[206] Ga 19, 26-27.

[207] John Paul II, Thư gửi các linh mục Thứ Năm Tuần Thánh 1988, số 6.

[208] Trích Bài đọc 2 Kinh Sách lễ thánh Maximilianô Maria Kolbê ngày 14/8.

[209] ĐTC Phanxicô đã nói như vậy trong Thánh Lễ ngày 24/7/2013 tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm tức là Đền thờ Quốc Gia Aparecida – Ba Tây, dịp đến chủ tọa Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 28.

[210] ĐTC Biển Đức XVI nói trong cuộc hành hương Đền thánh Đức Mẹ Lorettô ngày 4/10/2012,nguồn: vietvatican.net.

[211] x. Paul VI, Marialis Cultus: The Angelus and the Rosarry.

[212] ĐTC Biển Đức XVI nói với các tham dự viên khóa học về bí tích giải tội do Tòa Ân Giải Tối Cao tổ chức từ 21/3-11/4/2011 tại Rôma.

[213] Ga 20, 22-23.

[214] Buổi triều yết ngày 20/11/2013 –http://vietcatholic.org/News/Html/119161.htm

[215] Trích bài giáo lý ngày 26/8/2013 – http://vietcatholic.org/News/Html/113657.htm.

[216] Gc 5, 19-20: Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.

[218] x. 1 Cr 6,11.

[219] http://vietnam.ucanews.com/2014/08/17/thien-chua-khong-bao-gio-met-moi-tha-thu-cho-chung-ta/

[220] Trích bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô trong buổi yết kiến chung ngày 20/11/2013.

[221] Trích bài giảng của ĐTC Phanxicô ngày 29/4/2013 tại nhà khách Matta.

[222] Trích bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô trong buổi yết kiến chung ngày 20/11/2013.

[223] x. 2 Cr 5,16.

[224] Mt 16, 21-26 – Câu chuyện “Cưa bớt thập giá”.

[225] Mt 16,24.

[226] Lc 24,39.

[227] Ga 20, 24-29.

[228] x. Mt 16,23.

[229] x.1Cr.1,18.

[230] Gl 6, 14.

[231] x. Ga 3,16.

[232] ĐTC Phanxicô nói trong buổi đi Đàng Thánh Giá với Giới Trẻ Thế Giới tại bãi biển Copacabana – http://www.vietcatholic.net/News/Html/113090.htm .

[233] Trích bài giảng Lễ Tro của ĐTC Phanxicô – Theo VIS – http://www.hdgmvietnam.org/duc-thanh-cha-phanxico-khai-mac-mua-chay/6763.57.7.aspx

[234] ĐTC Biển Đức XVI nói trong buổi tiếp kiến ngày 25/3/2011 với 800 tham dự viên khóa học về Bí tích Giải tội.

 

[235] Tông Huấn Pastores Dabo Vobis số 29.

[236] 1 Pr 5,7.

[237] x. Pastores Dabo Vobis số 43.

[238] Xin xem Linh mục Giáo phận như lòng mong ước của Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS.

[239] Ga 15,16-17.

[240] Ga 10,36.

[241] Cv 8,1.4.

[242] Mc 16, 15-16.

[243] Trích Sứ điệp Ngày quốc tế giới trẻ 2013 công bố ngày 16/11/2012 của ĐTC Niển Đức XVI, số 4.

[244] x. Ad Gentes số 2

[245] 1 Cr 9,16

[246] Tính theo tỷ lệ, người Kitô hữu chiếm 33,1% và Công giáo chiếm 17,2% dân số trên toàn thế giới. Nhưng tại châu Á, tỷ lệ dân số Công giáo chỉ là 110 triệu trên tổng số 3,5 tỷ dân, nghĩa là khoảng 2,9%. Tuy nhiên, Giáo Hội tại Châu Á vẫn không ngừng phát triển: Năm 1988, dân số Công giáo tại đây là 84,3 triệu, nay tổng số đã là 110 triệu, tức tăng 25%. Cũng trong thời gian trên, số các linh mục tăng từ 27.700 đến 32.291. Các quốc gia có nhiều chủng sinh nhất là Ấn Độ, Philippines, Hàn Quốc và Việt Nam. Ơn gọi tu sĩ cũng phát triển mạnh tại châu Á.

[247] Trích bài giảng của ĐHY Ivan Dias, đặc sứ của ĐTC Biển Đức tại Lavang ngày 6/1/2011.

[248] x. Zenit.org Rôma này 25/3/2010.

[249] Người ta đếm được trong các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II 49 lần cụm từ tái Phúc Âm hóa được sử dụng.

[250] 2Cr 5,14; Phil 4:13.

[252] “Không phải bất ai thưa với Thầy: Lậy Chúa, lậy Chúa mà được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)

[253] Dt 4,12

[254] Is 55,10-11

 

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Mười Hai 2024
H B T N S B C
« Th11    
  1
2 3 4 5 6 7 8
9 10 11 12 13 14 15
16 17 18 19 20 21 22
23 24 25 26 27 28 29
30 31