SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC LÊÔ XIV CHO NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO LẦN THỨ IX : NGƯỜI NGHÈO LÀ TRUNG TÂM CỦA MỌI HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ

Written by xbvn on Tháng Sáu 14th, 2025. Posted in Học thuyết xã hội, Luân lý, Nhân bản, Sứ điệp, Tâm linh, Thế Giới, Tý Linh

Trong Sứ điệp cho Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ IX vào Chúa Nhật, ngày 16 tháng 11 năm 2025, Đức Lêô XIV đưa ra một sứ điệp tập trung vào chủ đề “Chúa là niềm hy vọng của tôi”, và bày tỏ hy vọng rằng Năm Thánh này có thể khuyến khích việc phát triển các chính sách nhằm chống lại các hình thức nghèo đói cả cũ lẫn mới, cũng như kêu gọi trách nhiệm xã hội của người Kitô hữu đối với công ích. Ngài tuyên bố : « Người nghèo là trung tâm của mọi hoạt động mục vụ…. Mọi hình thức nghèo khó … đều là lời mời gọi sống Tin Mừng một cách cụ thể và mang lại những dấu hiệu hy vọng hữu hiệu ». « Giúp đỡ người nghèo thực sự là một vấn đề công bằng trước khi là một vấn đề bác ái ». Xa hơn, ngài lưu ý : « Người nghèo không phải là đối tượng của sự chăm sóc mục vụ của chúng ta, nhưng là những chủ thể sáng tạo thúc đẩy chúng ta luôn tìm ra những cách thức mới mẻ sống Tin Mừng ngày nay ».

Dưới đây là Sứ điệp của Đức Thánh Cha :

16/11/2025, Chúa Nhật XXXIII Thường niên

Chính Chúa là niềm hy vọng của con (x. Tv 71, 5)

1. “Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi” (Tv 71, 5). Những lời này xuất phát từ một trái tim bị đè nặng bởi những khó khăn trầm trọng, tác giả Thánh Vịnh nói: “Ngài đã bắt con nếm mùi tân khổ” (c. 20). Mặc dù vậy, tâm hồn ông vẫn rộng mở và tin tưởng, bởi vì nó vững vàng trong đức tin, vốn nhận ra sự nâng đỡ của Thiên Chúa và tuyên xưng niềm tin vào Ngài: “Núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài” (c. 3). Từ đó nảy sinh niềm tin tưởng không lay chuyển rằng niềm cậy trông vào Ngài không làm thất vọng: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ” (c. 1).

Trong những thử thách của cuộc sống, niềm hy vọng được sinh động bởi niềm xác tín vững chắc và đầy khích lệ về tình yêu của Thiên Chúa được Chúa Thánh Thần đổ vào tâm hồn. Đây là lý do tại sao đức cậy không làm thất vọng (x. Rm 5,5) và thánh Phaolô có thể viết cho Timôthê: “Chúng ta phải vất vả, phải chiến đấu, bởi đã đặt hy vọng vào Thiên Chúa hằng sống” (1 Tm 4, 10). Thật vậy, Thiên Chúa hằng sống là “Thiên Chúa của niềm hy vọng” (Rm 15, 13), Đấng trong Chúa Kitô, qua cái chết và sự phục sinh của Người, đã trở thành “niềm hy vọng của chúng ta” (1 Tm 1, 1). Chúng ta không thể quên rằng chúng ta đã được cứu độ trong niềm hy vọng này mà chúng ta phải bám rễ vào đó.

2. Người nghèo có thể trở thành chứng nhân cho một niềm hy vọng mạnh mẽ và đáng tin, chính vì họ tuyên xưng niềm hy vọng đó trong những điều kiện sống bấp bênh, được dệt nên bởi những thiếu thốn, mong manh và bị loại trừ. Họ không cậy dựa vào sự chắc chắn của quyền lực và của cải; ngược lại, họ phải chịu đựng và thường là nạn nhân của chúng. Hy vọng của họ có thể nằm ở nơi khác. Khi nhận ra rằng Thiên Chúa là niềm hy vọng đầu tiên và duy nhất của chúng ta, chúng ta cũng thực hiện quá trình chuyển đổi từ những hy vọng phù du sang niềm hy vọng bền vững. Đối mặt với ước muốn có Thiên Chúa là bạn đồng hành, của cải được tương đối hóa vì khám phá được kho tàng đích thực mà chúng ta thực sự cần. Những lời Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đệ vang lên một cách rõ ràng và mạnh mẽ: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6, 19-20).

3. Cái nghèo lớn nhất là không biết Thiên Chúa. Đây là điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta khi viết trong Evangelii gaudium: “Sự phân biệt đối xử tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu sự quan tâm về mặt thiêng liêng. Đại đa số người nghèo có một sự cởi mở đặc biệt với đức tin; họ cần Thiên Chúa và chúng ta không thể không mang lại cho họ tình bạn của Ngài, phúc lành của Ngài, Lời của Ngài, việc cử hành các bí tích và đề xuất một con đường tăng trưởng và trưởng thành trong đức tin” (số 200). Có một nhận thức nền tảng và hoàn toàn độc đáo về cách thức tìm ra kho tàng của mình nơi Thiên Chúa. Quả thật, thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4, 20).

Đây là một quy luật của đức tin và một bí quyết của đức cậy: tất cả của cải trên trái đất này, những thực tại vật chất, những thú vui trần thế, phúc lợi kinh tế, dù quan trọng, cũng không đủ để làm cho tâm hồn hạnh phúc. Của cải thường lừa dối và dẫn đến những hoàn cảnh nghèo khó bi thảm, bắt đầu bằng sự nghèo nàn khi nghĩ rằng chúng ta không cần Thiên Chúa và sống độc lập với Ngài. Những lời của thánh Augustinô hiện lên trong tâm trí tôi: “Hãy đặt tất cả niềm hy vọng vào Thiên Chúa: hãy cảm thấy rằng bạn cần Ngài để được Ngài đổ đầy. Không có Ngài, mọi thứ bạn có sẽ chỉ khiến bạn càng trở nên trống rỗng hơn” (Enarr. in Ps 85,3).

4. Niềm hy vọng Kitô giáo mà Lời Chúa đề cập tới là một điều chắc chắn trên con đường sự sống, bởi vì nó không phụ thuộc vào sức mạnh con người, nhưng vào lời hứa của Thiên Chúa, Đâng luôn trung tín. Đây là lý do tại sao ngay từ đầu các Kitô hữu đã muốn đồng nhất niềm hy vọng với biểu tượng chiếc neo mang lại sự ổn định và an ninh. Niềm hy vọng Kitô giáo giống như chiếc neo neo giữ tâm hồn chúng ta vào lời hứa của Chúa Giêsu, Đấng đã cứu chúng ta bằng cái chết và sự phục sinh của Người, và là Đấng sẽ trở lại giữa chúng ta. Niềm hy vọng này tiếp tục cho thấy chân trời đích thực của sự sống là “trời mới” và “đất mới” (2 Pr 3, 13), nơi mà sự tồn tại của mọi thụ tạo sẽ tìm được ý nghĩa đích thực của nó, bởi vì quê hương đích thực của chúng ta ở trên trời (x. Pl 3, 20).

Do đó, thành quốc của Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta vào thành quốc con người. Từ bây giờ, thành quốc con người phải bắt đầu giống Ngài. Niềm hy vọng, được nâng đỡ bởi tình yêu Thiên Chúa, mà Chúa Thánh Thần đổ vào tâm hồn chúng ta (x. Rm 5,5), biến đổi tâm hồn con người thành mảnh đất phong nhiêu, nơi đức ái có thể nảy mầm cho thế gian được sống. Truyền Thống của Giáo hội không ngừng tái khẳng định tính tuần hoàn này giữa ba nhân đức đối thần: đức tin, đức cậy và đức mến. Đức cậy phát sinh từ đức tin vốn nuôi dưỡng và nâng đỡ nó trên nền tảng đức mến, là mẹ của mọi nhân đức. Và chính đức mến này mà chúng ta cần hôm nay, bây giờ. Đó không phải là một lời hứa, nhưng là một thực tại mà chúng ta vui mừng và có trách nhiệm hướng tới: nó dấn thân và hướng các quyết định của chúng ta đến công ích. Ngược lại, ai thiếu đức mến, không chỉ thiếu đức tin và đức vọng, nhưng còn lấy đi đức cậy của người lân cận.

5. Do đó, lời mời gọi hy vọng của Thánh Kinh bao gồm nghĩa vụ đảm nhận, không chậm trễ, những trách nhiệm nhất quán trong lịch sử. Thật vậy, đức mến “đại diện cho điều răn xã hội lớn nhất” (Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1889). Nghèo đói có những nguyên nhân cơ cấu cần phải được đương đầu và loại bỏ. Trong thời gian này, tất cả chúng ta đều được mời gọi tạo ra những dấu chỉ hy vọng mới làm chứng cho đức mến Kitô giáo, như rất nhiều vị thánh đã làm qua mọi thời đại. Chẳng hạn, các bệnh viện và trường học là những tổ chức được tạo ra để đón tiếp những người yếu thế và bị thiệt thòi nhất. Giờ đây, lẽ ra họ phải là một phần trong chính sách công của mỗi quốc gia, nhưng chiến tranh và sự bất bình đẳng vẫn thường ngăn cản điều này. Càng ngày, các mái ấm đón tiếp, các cộng đoàn dành cho trẻ vị thành niên, các trung tâm lắng nghe và tiếp nhận, các căng tin dành cho người nghèo, các ký túc xá, các trường học bình dân ngày nay đang trở thành những dấu hiệu của niềm hy vọng: rất nhiều dấu hiệu thường ẩn giấu mà có lẽ chúng ta không chú ý đến nhưng lại rất quan trọng để lay động sự thờ ơ và khuyến khích dấn thân vào các hình thức tình nguyện khác nhau!

Người nghèo không phải là trò tiêu khiển đối với Giáo hội, họ là những anh chị em yêu quý nhất của chúng ta, bởi vì mỗi người trong số họ, bằng cuộc sống của họ cũng như bằng những lời nói và sự khôn ngoan mà họ thể hiện, mời gọi chúng ta chạm tới chân lý của Tin Mừng. Đây là lý do tại sao Ngày Thế giới Người nghèo muốn nhắc nhở các cộng đoàn của chúng ta rằng người nghèo là trung tâm của mọi hoạt động mục vụ. Không chỉ ở khía cạnh bác ái, mà còn ở những gì Giáo hội cử hành và rao giảng. Thiên Chúa đã nhận lấy sự nghèo khó của họ để làm cho chúng ta trở nên giàu có thông qua tiếng nói, câu chuyện, khuôn mặt của họ. Mọi hình thức nghèo khó, không có ngoại lệ, đều là lời mời gọi sống Tin Mừng một cách cụ thể và mang lại những dấu hiệu hy vọng hữu hiệu.

6. Đó là lời mời gọi được đưa ra cho chúng ta qua việc cử hành Năm Thánh. Không phải ngẫu nhiên mà Ngày Thế giới Người nghèo được cử hành vào cuối Năm Ân Sủng này. Khi Cửa Thánh đóng lại, chúng ta sẽ phải canh giữ và truyền đạt những ân huệ của Thiên Chúa đã được đổ vào tay chúng ta trong suốt một năm cầu nguyện, hoán cải và làm chứng. Người nghèo không phải là đối tượng của sự chăm sóc mục vụ của chúng ta, nhưng là những chủ thể sáng tạo thúc đẩy chúng ta luôn tìm ra những cách thức mới mẻ sống Tin Mừng ngày nay. Đối mặt với sự nối tiếp của những làn sóng bần cùng hóa mới, nguy cơ là quen cam chịu. Chúng ta gặp những người nghèo hoặc khốn cực mỗi ngày và đôi khi chính chúng ta là những người có ít hơn, mất đi những gì xưa kia có vẻ an toàn đối với chúng ta: nhà ở, đủ thức ăn trong ngày, khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc, trình độ học vấn và thông tin tốt, tự do tôn giáo và ngôn luận.

Khi cổ võ công ích, trách nhiệm xã hội của chúng ta tìm thấy nền tảng trong cử chỉ sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng ban phát mọi của cải trên trái đất: như những của cải này, thành quả lao động của con người cũng phải có thể tiếp cận được với tất cả mọi người một cách công bằng. Giúp đỡ người nghèo thực sự là một vấn đề công bằng trước khi là một vấn đề bác ái. Như thánh Augustinô đã nhận xét: “Bạn cho người đói bánh mì, nhưng sẽ tốt hơn khi không có ai đói, cho dù điều đó có nghĩa là sẽ không có ai để cho. Bạn tặng quần áo cho người trần truồng, nhưng sẽ tốt hơn biết bao nếu mọi người đều có quần áo và không còn cảnh nghèo đói này” (Commentaire sur 1Jn, VIII, 5).

Vì vậy, tôi mong muốn rằng Năm Thánh này có thể khuyến khích việc phát triển các chính sách chống lại các hình thức nghèo khổ cũ và mới, cũng như các sáng kiến ​​mới để hỗ trợ và giúp đỡ những người nghèo nhất trong số những người nghèo. Lao động, giáo dục, nhà ở, y tế là những điều kiện cho một sự an toàn mà vũ khí không bao giờ đảm bảo được. Tôi hoan nghênh những sáng kiến ​​hiện có và sự cam kết dấn thân hàng ngày ở cấp độ quốc tế của một số lượng lớn những người nam và người nữ có thiện chí.

Chúng ta hãy phó thác mình cho Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, Đấng An ủi những người đau khổ, và cùng với Mẹ, chúng ta hãy cất lên một bài ca hy vọng bằng cách biến những lời của kinh Te Deum thành của chúng ta: “In Te, Domine, speravi, non confundar in aeternum – Lạy Chúa, con đã hy vọng ở nơi Ngài, con sẽ không bao giờ thất vọng”.

Từ Vatican, ngày 13 tháng 6 năm 2025, lễ nhớ thánh Antôn Padua, Bổn mạng người nghèo

LÊÔ XIV, Mục tử của các mục tử

—————————————–

Tý Linh chuyển ngữ

(nguồn : vatican.va)

Tags:

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Online

Lịch đăng bài

Tháng Sáu 2025
H B T N S B C
  1
2 3 4 5 6 7 8
9 10 11 12 13 14 15
16 17 18 19 20 21 22
23 24 25 26 27 28 29
30