TẠI SAO GIÁO HỘI CAN THIỆP VÀO VẤN ĐỀ XÃ HỘI?

Written by xbvn on Tháng Hai 14th, 2025. Posted in Học thuyết xã hội, Lm Võ Xuân Tiến, Luân lý, Nhân bản, Tâm linh, Thế Giới, Tý Linh

LTS: Đức Phanxicô gởi thư cho HĐGM Hoa Kỳ, trong đó ngài khích lệ các Giám mục Mỹ dấn thân vào xã hội qua việc bảo vệ phẩm giá của người di cư, và đồng thời phê bình chính sách di cư của chính quyền Trump.

Đứng trước lời phê bình này, chính quyền Trump đã lên tiếng phản đối Đức Thánh Cha Phanxicô. Đại diện cho chính quyền Trump là phản ứng của Tom Homan, đặc trách thực hiện chính sách nhập cư của Tổng thống Trump và đồng thời là người cho mình là Công giáo. Một trong những phản đối của ông, đó là cho rằng Đức Giáo hoàng nên lo việc tôn giáo, chứ đừng lo đến việc biên giới, do đó, xã hội. Ông nói như sau: “Tôi muốn ngài ấy tập trung vào Giáo hội Công giáo và để chúng tôi lo vấn đề biên giới. Ngài ấy muốn tấn công chúng tôi vì chúng tôi đảm bảo an ninh biên giới của mình? Ngài ấy có bức tường bao quanh Vatican phải không? (…) Chúng tôi không thể có một bức tường bao quanh nước Mỹ”.

Là một người Công giáo, đáng lẽ ông phải hiểu biết rằng kể từ năm 1891, với thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII, Giáo hội Công giáo đã chính thức lên tiếng về các vấn đề xã hội. Và từ đó đến nay đã gần 135 năm, qua nhiều thông điệp xã hội khác nhau, các Đức Giáo hoàng đều luôn lên tiếng như thế trong thời đại của mình, liên quan các chủ đề thời sự khác nhau, bao gồm những chủ đề nổi cộm được quan tâm nhiều nhất gần đây như môi trường, di dân, hòa bình, sự sống, trí tuệ nhân tạo…. Và các thông điệp xã hội, từ Rerum Novarum đến nay, luôn cho thấy Giáo hội có bổn phận, trách nhiệm và thẩm quyền can thiệp vào các vấn đề xã hội, cả ở bình diện thế giới. Sự can thiệp này không phải là về mặt chính trị hay kỹ thuật, nhưng là luân lý (bảo vệ phẩm giá của con người) và tôn giáo (vì phần rỗi của con người). Cụ thể, tài liệu “Những Định Hướng cho việc Nghiên cứu và Giảng dạy HTXH trong việc đào tạo linh mục”, số 16, nêu rõ sứ mạng dấn thân xã hội này của Giáo hội như sau: “Loan báo chân lý về phẩm giá của con người và về các quyền của nó, tố giác những hoàn cảnh bất công và đóng góp vào những thay đổi tích cực trong xã hội và vào sự tiến bộ đích thực của con người”. Và nền tảng của sự dấn thân xã hội này được tìm thấy nơi Mặc khải của Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, đặc biệt nơi các Tin Mừng.

Những người ngoài Công giáo không hiểu giáo huấn xã hội của Giáo hội là một chuyện, nhưng việc nhiều người Công giáo có cùng suy nghĩ như Tom Homan lại là chuyện khác. Vì thế, chúng tôi phổ biến bài dưới đây  (một chương trong môn Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo) để giúp hiểu biết lý do tại sao Giáo hội Công giáo có bổn phận, trách nhiệm và thẩm quyền can thiệp vào các vấn đề xã hội.

Lm. Võ Xuân Tiến, PSS.

 ——————————–

GIÁO HỘI VÀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Vấn đề đầu tiên phải giải quyết đã được đặt ra vào mọi thời đại của Kitô giáo, và nó vẫn còn đang được đặt ra, đặc biệt còn mãnh liệt hơn : đâu là những tương quan giữa Giáo hội và vấn đề xã hội ? Đâu là thẩm quyền của Giáo hội về mặt xã hội ? Nói cách khác, Giáo hội lấy tư cách gì can thiệp vào những vấn đề xã hội ? Trước tiên, chúng ta tìm hiểu một số lập trường về vấn đề này ; tiếp đến, chúng ta xem xét sứ mạng của Giáo hội trong sự tiếp nối với sứ mạng của Chúa Kitô để nhận thấy nguồn gốc của HTXH của Giáo hội, và đồng thời phân tích khái niệm « vấn đề xã hội » ; sau cùng, chúng ta sẽ giải thích lý do Giáo hội can thiệp vào xã hội và đồng thời nêu rõ các nhiệm vụ của Giáo hội trong lãnh vực xã hội.

A. Các lập trường liên quan đến sứ mạng của Giáo hội trong lãnh vực xã hội.

Có những ý kiến khác nhau về vấn đề này : Phải chăng Giáo hội có một sứ mạng phải thực hiện trong lãnh vực xã hội ?

I. Các hệ thống và trào lưu khước từ sự can thiệp của Giáo hội trong lãnh vực xã hội.

1. Chủ nghĩa tự do, dựa vào nguyên tắc tách rời Giáo hội và đời sống công cộng nói chung. Tách rời giữa lãnh vực tôn giáo và lãnh vực trần thế.

2. Chủ nghĩa xã hội. Thái độ của nó đối với tôn giáo được thể hiện bằng khẩu hiệu sau : « Tôn giáo là một việc riêng tư ».

3. Các hệ thống chính trị chuyên chế không để chỗ cho bất kỳ quyền lực nào. Đối với tôn giáo càng không có chỗ trong lãnh vực trần thế. Tôn giáo trở thành dụng cụ của chúng mà thôi.

4. Chủ nghĩa duy thế tục, cũng như các trào lưu tư tưởng muốn loại bỏ ảnh hưởng của Giáo hội trên con người và tuyên bố quyền tự trị của họ, chỉ nhìn nhận Giáo hội trong phạm vi tôn giáo, không ảnh hưởng gì đến cuộc sống trần thế.

5. Chúng ta cũng có thể nhận thấy thái độ này nơi một số môi trường tôn giáo cho rằng Thiên Chúa đã giao phó việc cai quản thế giới cho giới chính trị. Ngay cả trong Công giáo, vẫn có một số người, chẳng hạn như Léon Bloy, do ưu tư đến sự tinh tuyền trong sứ mạng của Giáo hội, đã nhấn mạnh đến sự siêu việt của nó so với các thực tại trần thế mà quên rằng Ngôi Lời đã làm người và men Tin Mừng phải thấm nhập vào thế giới để làm dậy men. « Anh chị em hãy canh chừng những người coi thường việc phục vụ này được các Kitô hữu thực hiện cho thế giới và đối lập với thế giới bằng một Kitô giáo « tinh thần »… Họ đã không hiểu thể chế thần linh này (Giáo hội), được khởi đầu bởi nền tảng của nó : Chúa Kitô, Thiên Chúa thật, nhưng cũng là người thật» (Piô XII, Diễn từ Giáng Sinh, 1955).

II. Các hệ thống chờ đợi nơi Giáo hội một giải pháp cho vấn đề xã hội.

Những khuynh hướng này thì ít hơn, thế nhưng, vào nhiều thời kỳ, người ta nhận thấy có những người đang mơ mộng một phong trào giải phóng trần thế, thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian. Chẳng hạn, Saint-Simon, trong tác phẩm Tân Kitô giáo, đã nói với Đức Giáo hoàng [Lê-ô XII] vào năm 1825: “Các bậc tiền bối của Ngài đã hoàn thiện đủ lý thuyết Kitô giáo, họ đã truyền bá nó đủ. Chính việc áp dụng học thuyết mà Ngài phải quan tâm. Kitô giáo đích thực phải làm cho con người hạnh phúc không chỉ trên trời, nhưng còn dưới đất. Nhiệm vụ của Ngài hệ tại việc tổ chức loài người theo nguyên tắc căn bản của nền luân lý thần linh. Xin Ngài đừng bằng lòng với việc rao giảng cho các tín hữu rằng những người nghèo là những con cái yêu dấu của Thiên Chúa, Ngài cần sử dụng cách mạnh dạn và cương quyết mọi phương tiện của Giáo hội chiến đấu để cải tiến mau chóng tình trạng luân lý và thể chất của giai cấp đông đúc nhất ».

50 năm sau, một người Do thái, đồ đệ của Saint-Simon, Isaac Péreire, đã xin Đức Thánh Cha Lê-ô XIII hợp tác giải quyết « vấn đề đáng sợ về tình trạng bần cùng và lao động ». « Làm sao Giáo hội đã có thể không hiểu rằng sự biến đổi đang xảy ra trên thế giới…đã là một sự kiện quan phòng, một áp dụng ý tưởng của Kitô giáo trong những gì nó có thích đáng hơn và tuyệt vời hơn?…Qua chính nguyên tắc của nó, phải chăng nó không phải là mẹ của mọi người bé nhỏ, người bảo vệ cho mọi kẻ bị áp bức ?…Sau khi đã phá bỏ chế độ nô lệ xưa và chế độ nông nô phong kiến, Giáo hội còn phải cải thiện số phận của thợ thuyền hiện đại. Nó sẽ thực hiện công trình cứu chuộc phổ quát mà Đấng sáng lập thần linh của nó đã xác định bằng hai châm ngôn này : ‘Hãy để cho các trẻ nhỏ đến với Ta ; các con hãy yêu thương nhau’ ».

Bên cạnh đó, còn có nhiều « người theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa tôn giáo » đã lặp đi lặp lại cùng những lời kêu gọi trên đây. Họ có khuynh hướng thay thế Kinh Tin Kính tôn giáo bằng Kinh tin kính xã hội, biến sứ mạng thiêng liêng của Giáo hội thành một sứ mạng trần thế. Thậm chí họ còn đi đến chỗ chối bỏ hay giảm bớt đặc tính siêu việt của Giáo hội. Vì tán dương sứ mạng trần thế của Giáo hội, họ quên đi sứ mạng thiêng liêng của nó.

Đó cũng là nguy cơ của những người Công giáo khi dấn thân cải cách xã hội. Họ có nguy cơ dành tầm quan trọng cho giá trị xã hội của Tin Mừng hơn là sứ điệp thiêng liêng và tôn giáo của Tin Mừng. Các phong trào thần học giải phóng cũng nằm trong nguy cơ này khi « giản lược sứ mạng của Giáo hội vào chiều hướng của một kế hoạch thuần túy trần thế. Họ muốn giản lược các mục đích của Giáo hội vào một mục tiêu nhân loại… » mà quên đi con người toàn diện (Phaolô VI, Evangelii nuntiandi).

Như thế, đối với câu hỏi « Phải chăng Giáo hội có một sứ mạng phải thực hiện trong lãnh vực xã hội ? », chúng ta nhận thấy có hai câu trả lời hoàn toàn đối lập nhau : một trả lời « tuyệt đối không » và một trả lời « tuyệt đối có ». Nhiệm vụ của chúng ta không chỉ là dung hòa hai lập trường này nhưng còn vượt quá chúng. Chúng ta nhận thấy rằng Giáo hội, được thiết lập để dẫn đưa con người về hạnh phúc vĩnh cửu, cũng sẽ phải chăm lo cho lợi ích trần thế của họ từ giây phút và trong chừng mực thiện ích này có thể phục vụ cho ơn cứu rỗi đời đời của họ. Dù ý thức rằng « trả lại cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da… », thế nhưng Giáo hội vẫn can thiệp vào lãnh vực xã hội bao lâu vấn đề xã hội chạm đến sứ mạng thiêng liêng của mình. Giáo hội không làm chính trị, cũng không thay thế chỗ của Nhà Nước, vai trò của Giáo hội là soi sáng các lương tâm trong lãnh vực chính trị (x. Bênêđíctô XVI, Deus caritas est, số 28 ; xem thêm số 62 của Những Định Hướng phân biệt hai khái niệm « chính trị » và « dấn thân chính trị »). « Giáo hội không thể cũng không được đứng ngoài cuộc đấu tranh vì công lý. Nó phải lồng vào nơi mình bằng con đường lập luận lý trí và nó phải thức tỉnh các sức mạnh tinh thần, mà nếu không có chúng, công lý…không thể được khẳng định cũng không được phát triển… » (Thư gởi người công giáo Trung Hoa, số 4).

B. Sứ mạng của Chúa Kitô và sứ mạng của Giáo hội

Theo quan niệm Công giáo, Giáo hội, trong thực tại thâm sâu nhất của mình, là sự nối dài trong không gian và thời gian việc nhập thể của Con Thiên Chúa, « sự nhập thể xã hội » của Ngài, như cha Sertillanges nói. Nơi Giáo hội, Chúa Kitô tiếp tục sống sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương đế của mình ; qua Giáo hội, Ngài mở rộng ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Học thuyết xã hội bắt nguồn từ chính sứ mạng cứu độ và giải thoát này của Chúa Kitô và của Giáo hội (x. NĐH, số 15-17). Trước hết, chúng ta tìm hiểu sứ mạng của Chúa Kitô, sau đó, chúng ta sẽ bàn về sứ mạng của Giáo hội.

I. Sứ mạng của Chúa Kitô trong kế hoạch của Thiên Chúa.

Sứ mạng của Chúa Kitô bén rễ sâu trong kế hoạch yêu thương và giải thoát của Thiên Chúa đối với nhân loại, được biểu lộ qua công trình tạo dựng và cứu chuộc của Ngài.

Sách Khởi Nguyên mô tả việc Thiên Chúa tạo dựng con người cách trang trọng. Thiên Chúa nhìn vào chính mình để dựng nên con người : « Ta hãy làm nên con người theo hình ảnh Ta ». Con người, từ ban đầu, đã là phản ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng « vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời mời gọi họ sống cho tình yêu » (Familiaris consortio, số 11). Bởi thế, phản ảnh tình yêu và sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, nên con người có « ơn gọi căn bản và bẩm sinh » là tình yêu (FC, số 11). « Mạc khải này soi sáng cho chúng ta hiểu phẩm giá con người và sự tự do của con người trong mọi khía cạnh, cũng như hiểu bản tính xã hội của con người một cách sâu xa » (Tóm Lược HTXH, số 34). HTXH của Giáo hội soi sáng cho hiểu phẩm giá lớn lao này của con người, thụ tạo duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng vì chính nó. « Mỗi người đều do Thiên Chúa tạo dựng, đều được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ trong Chúa Giêsu-Kitô, và sẽ tự hoàn thành chính mình bằng cách thiết lập mạng lưới quan hệ yêu thương, công bằng và liên đới với những người khác…Bất cứ hoạt động nào của con người giúp phát huy phẩm giá và ơn gọi đầy đủ của con người ấy, đẩy mạnh các điều kiện sống cho có chất lượng và giúp các dân tộc, các quốc gia liên đới với nhau, đều là những hoạt động phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa… » (số 35). Đối với người Kitô hữu, tôn trọng phẩm giá con người và các quyền gắn liền với phẩm giá đó là một đòi hỏi của đức tin và công bằng.

Cho dù con người sa ngã vì bất tuân, thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Chính nơi dân Israël mà Thiên Chúa đã thực thi hoạt động giải thoát của Ngài, khi cứu họ khỏi ách nô lệ Ai-cập, đưa họ đến miền Đất Hứa và ở đó thiết lập với họ một giao ước trên núi Sinai, được ghi khắc qua Mười Điều Răn. Huấn thị về « Tự do Kitô giáo và giải phóng » cho thấy rõ : « Nếu  Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ kinh tế, chính trị và văn hóa, đó là nhằm làm cho dân này trở thành ‘một vương quốc tư tế, một dân thánh’ (Xh 19,6), nhờ giao ước Sinai…Tất cả các cuộc giải phóng sau này nhằm đưa dân tới sự tự do sung mãn mà họ chỉ có thể tìm được trong sự hiệp thông với Thiên Chúa của mình » (số 44).

Những Giới Răn, được ban cho dân như là Lề Luật, « tạo nên một con đường sống đặc biệt và an toàn nhất để được tự do khỏi bị nô lệ tội lỗi- cũng là một cách diễn đạt đặc biệt của luật bản nhiên. » Chúng cho biết « thế nào là làm người thực sự. Chúng chỉ cho chúng ta thấy những nghĩa vụ thiết yếu, và do đó, một cách gián tiếp, chúng cho chúng ta thấy những quyền căn bản nằm trong bản tính con người » (Tóm Lược, số 22). Tuân giữ các giới răn của Chúa, đó là bước căn bản đầu tiên trên con đường hoàn thiện, trên con đường xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ.

Các Giới Răn này không chỉ vạch ra con đường trung tín với Thiên Chúa, nhưng còn mở ra những chân trời quan hệ xã hội giữa người với người, đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của những người nghèo, cô thân cô thế, ngoại kiều… « Như thế, việc ban tự do và Đất Hứa, ban Giao Ước trên núi Sinai và Mười Điều Răn, tất cả những ân huệ ấy đều gắn liền với những bổn phận sẽ chi phối quá trình phát triển xã hội Israël, trong công bằng và liên đới » (Tóm Lược, số 23). Nói cách khác, « yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình là trung tâm của toàn bộ Lệ Luật trên… ». Dĩ nhiên, tình yêu này tình yêu này không tách rời với công lý. Cả hai làm nên « nội dung đặc sắc nhất của Lề Luật theo Thánh Kinh » (Huấn thị Tự do Kitô giáo và giải phóng, số 45).

Một trong những luật thể hiện ân huệ của Thiên Chúa và diễn tả sự công bằng và liên đới này, đó là « luật Năm Sabat (cứ bảy năm một lần) và luật Năm Toàn Xá (cứ năm mươi năm một lần) được coi là những chỉ dẫn quan trọng cho đời sống xã hội và kinh tế của dân Israël ». Luật này, vốn cũng sẽ trở thành tiêu điểm của giáo huấn của các ngôn sứ, « không chỉ là nguyên tắc làm nền tảng cho đời sống xã hội, chính trị và kinh tế, mà còn là nguyên tắc hướng dẫn giải quyết các vấn đề liên quan đến sự nghèo đói về kinh tế và các bất công xã hội » (Tóm Lược, số 24). Chúng cho thấy « các nguyên tắc của công lý và liên đới xã hội đã được cảm hứng thế nào từ hành vi cứu độ vô vị lợi của Thiên Chúa. Chúng không chỉ có giá trị sửa chữa những tập tục bị chi phối bởi các quyền lợi và mục tiêu ích kỷ, mà còn như một lời tiên tri cho tương lai, chúng đã trở thành những điểm tham khảo mang tính quy phạm mà mỗi thế hệ Israël phải tuân thủ nếu muốn trung thành với Thiên Chúa của mình » (số 25).

Kế hoạch yêu thương và giải thoát của Thiên Chúa đối với nhân loại được thể hiện cách dứt khoát và trọn vẹn trong Chúa Giêsu-Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Trong Chúa Kitô, chúng ta « thấy tận mắt Thiên Chúa đã hành động quả quyết thế nào đối với con người » (số 28). Chúa Giêsu đã mô tả sứ vụ giải thoát của mình bằng những lời loan báo của ngôn sứ Isaia : « Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù sáng mắt, giải phóng những ai bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa » (Lc 4, 18-19). Sứ mạng giải thoát của Chúa Giêsu đạt tới tột đỉnh trong cái chết và sự phục sinh của Ngài, qua đó mạc khải tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, cho thấy Thiên Chúa là Cha nhân từ và mọi người đều là anh chị em với nhau (x. số 31). Trong Chúa Giêsu, giới răn « yêu mến Thiên Chúa » được nối kết chặt chẽ với giới răn « yêu mến tha nhân » (x. Mc 12, 31). Chính giới răn kép này là chìa khóa của các mối tương quan với Thiên Chúa và với người khác trong một xã hội. Vả lại, khi nói rằng « nếu ai nói : « Tôi yêu mến Thiên Chúa » mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối » (1Ga 4, 20), thánh Gioan đã tố giác những ai muốn tách rời hai mối tương quan này và chỉ bằng lòng với yêu mến Thiên Chúa mà thôi.

Về phần mình, tài liệu « Những Định Hướng cho việc Nghiên cứu và Giảng dạy HTXH trong việc đào tạo linh mục » (số 16) cho thấy, « Chúa Giêsu đã không dửng dưng hay xa lạ trước vấn đề phẩm giá và các quyền của con người, cũng không dửng dưng hay xa lạ trước nhu cầu  của những người yếu đuối nhất, những người túng thiếu nhất và những nạn nhân của bất công. Trong mọi lúc, Ngài đã tỏ cho thấy một sự liên đới thực sự với những người nghèo nhất và những người khốn khổ nhất (Mt 11, 28-30) ; Ngài đã đấu tranh chống bất công, sự giả hình, những lạm dụng quyền lực, sự tham lam thu lợi của những kẻ giàu, dửng dưng với những đau khổ của người nghèo, bằng cách nhắc lại cách mạnh mẽ việc tính sổ cuối cùng, khi Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết ». Qua hình ảnh của người Samaritanô nhân hậu, Chúa Giêsu như cho thấy sự liên đới của Ngài đối với người bị nạn cách cụ thể và Ngài mời gọi nhìn và hành động để giúp đỡ những ai đang gặp khó khăn. Hay trong một đoạn Tin Mừng khác, Chúa Giêsu mời gọi  chúng ta liên đới với những người khốn khổ, tù tội, đói khát (Mt 25, 31-46). Và Ngài như đồng hóa với chính những người khốn khổ này. Mối tương quan xã hội với người nghèo khổ như thế trở thành một mối tương quan với chính Thiên Chúa. Ngài không ngừng ngại phê phán những kẻ giàu có khép kín trước nỗi thống khổ của người anh em đồng loại, mà đối với Ngài, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào Nước Trời. « Khốn cho các người là những kẻ giàu có, các người đã có sự an ủi rồi » (Lc 6, 24).

Sứ mạng của Chúa Giêsu làm chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người và qua đó nói lên phẩm giá cao cả của con người trước nhan Thiên Chúa. Sứ mạng của Ngài là mang lại cho con người sự sống đời đời, giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, mặc lấy con người mới và bước đi trong ân sủng của Thiên Chúa. « Sự biến đổi nội tâm con người, làm cho họ dần dần trở nên giống Chúa Kitô, chính là điều kiện tiên quyết cần thiết để các mối quan hệ của họ với người khác được biến đổi thật sự » (Tóm Lược, số 42). Những thay đổi trong những tương quan xã hội luôn gắn liền với một sự biến đổi nội tâm sâu xa.

Kế hoạch yêu thương và giải thoát mà Thiên Chúa ban cho nhân loại trong Chúa Kitô là một kế hoạch cho hết mọi người, đó là « sự cứu độ phổ quát và toàn diện » (số 38). Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người, không loại trừ ai. Điều đó tùy thuộc vào thái độ tự do chấp nhận hay khước từ ân sủng của Thiên Chúa. Ơn cứu độ này liên quan đến con người toàn diện trong mọi chiều kích của nó. Điều đó cũng cho chúng ta ý thức về sự liên đới với người anh em trong phần rỗi của họ (x. số 40).

Như thế, sứ mạng của Chúa Kitô trong kế hoạch yêu thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một sứ mạng nhờ đó « thế giới và con người đạt tới được sự thật đích thực và trọn vẹn của mình » (số 45). Con người và các thực tại trần thế tìm được ý nghĩa đích thực của mình trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Điều đó cho thấy rằng « không có sự xung đột giữa Thiên Chúa và con người, nhưng giữa hai bên có mối quan hệ yêu thương… » (số 46).

II. Sứ mạng của Giáo hội

Giáo hội tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo hội là « sự nhập thể xã hội » của Ngài. « Giáo hội được nuôi dưỡng bởi mầu nhiệm của Chúa Kitô, Tin Mừng nhập thể, để loan báo, như Ngài, Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và kêu gọi con người đến sự hoán cải và ơn cứu độ. Ơn gọi Phúc Âm hóa này của Giáo hội, được lãnh nhận từ Chúa Kitô, tạo nên căn tính sâu xa nhất của Giáo hội… » (NĐH, số 17).

Sứ mạng này bao hàm ba chức năng mà chính Chúa Kitô đã loan báo, khi rời bỏ thế gian, Ngài đã sai các môn đệ đi chính phục thế giới : « Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, và làm phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ; dạy họ giữ mọi lệnh truyền của Thầy… » (Mt 28, 19-20).

Sứ mạng của Giáo hội do đó không khác với sứ mạng của Chúa Kitô : nó chủ yếu là siêu nhiên và trước tiên nhắm đến phần rỗi các linh hồn và vinh quang của Thiên Chúa. Chính vì thế, tất cả những gì liên quan đến phần rỗi con người và việc thờ phượng Thiên Chúa đều thuộc về thẩm quyền của Giáo hội. Tuy nhiên, trong lịch sử của mình, Giáo hội đã luôn can thiệp vào các vấn đề xã hội, phải chăng như thế Giáo hội đã ra khỏi thẩm quyền của mình, động chạm đến những gì không liên quan đến mình ?

«Tóm Lược » (số 60) cho thấy sứ mạng thiêng liêng và trần thế của Giáo hội luôn đan xen vào nhau. Giáo hội là chiếc cầu của cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người : «Khi chia sẻ với nhân loại những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng, Giáo hội đã đứng về phía mỗi con người ở mọi nơi mọi thời, mang tin vui Nước Chúa đến cho họ, Nước ấy đã xuất hiện nơi Đức Giêsu Kitô và vẫn đang tiếp tục hiện diện giữa nhân loại. Giữa lòng nhân loại và trong thế giới ấy, Giáo hội chính là bí tích của tình yêu Thiên Chúa, và bởi thế, Giáo hội là bí tích của niềm hy vọng huy hoàng nhất, khơi gợi và nâng đỡ mọi cố gắng và dấn thân của con người nhằm giải phóng và thăng tiến con người. Giáo hội hiện diện giữa nhân loại, tựa như túp lều hội ngộ của Thiên Chúa, tựa như “nơi Thiên Chúa ở với con người” (x. Kh 21,3), để con người không cô đơn, lạc lõng hay khiếp sợ trong lúc thi hành nhiệm vụ làm cho thế giới trở nên nhân bản hơn; nhờ đó, con người tìm được sự hỗ trợ nơi tình thương cứu chuộc của Đức Kitô. Là thừa tác viên của ơn cứu độ, Giáo hội không sống trong trừu tượng hay thuần tuý thiêng liêng, mà ở trong chính bối cảnh của lịch sử và thế giới mà con người đang sống. Chính tại nơi đây, con người gặp được tình thương Thiên Chúa và được mời gọi cộng tác vào kế hoạch của Ngài. » Tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, với tư cách là « ‘chuyên viên về con người’, Giáo hội thừa sức hiểu con người trong thiên chức và khát vọng, trong những giới hạn và khiếm khuyết, cũng như trong các quyền lợi và nghĩa vụ của  con người ; Giáo hội cũng thừa sức công bố lời sự sống, đủ sức vang vọng trong những hoàn cảnh lịch sử và xã hội của cuộc sống con người. » (số 61).

Như thế, sứ mạng của Giáo hội, đó là « lấy Tin Mừng thâm nhập và làm phong phú xã hội » (x. GS 40 ; Tóm Lược, số 62 tt.). Điều đó có nghĩa là xã hội loài người nằm « trong công cuộc truyền giáo và cứu độ » của Giáo hội. Xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa…dù không phải là sứ mạng chính yếu mà Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội, nhưng không phải vì thế mà nó xa lạ với sứ điệp cứu độ mà Chúa Giêsu mang lại. Không có gì thuộc xã hội loài người mà nằm ngoài sứ mạng Phúc Âm hóa của Giáo hội (x. số 66). HTXH của Giáo hội, trong trường hợp này, là « một công cụ hữu hiệu để Phúc Âm hóa » và học thuyết này « được khai sinh là bởi những cuộc gặp gỡ luôn mới mẻ của sứ điệp Tin Mừng với đời sống xã hội » (số 67).

Về phần mình, Huấn thị « Tự do Kitô giáo và giải phóng » nhấn mạnh đến « sứ mạng giải thoát của Giáo hội » theo chân Chúa Kitô, một sứ mạng được mô tả như là « quyết tâm đáp lại mối lo âu của con người hiện đại, đang khốn khổ vì bị áp bức và đang mưu cầu tự do ». Dù « việc quản trị xã hội về mặt chính trị và kinh tế không trực tiếp thuộc sứ mạng của Giáo hội, nhưng Chúa Giêsu đã trao cho Giáo hội lời sự thật có khả năng soi sáng lương tâm » (số 61). Trong sứ mạng cứu độ và giải thoát này, Giáo hội múc lấy sức mạnh của mình từ Tin Mừng, đặc biệt « dưới ánh sáng của các mối Phúc Thật », chúng  « phòng ngừa được bệnh sùng bái của cải vật chất và tránh được các bất công người ta mắc phải khi lao mình chạy theo chúng… » (số 62). Dấn thân trong các vấn đề xã hội nhằm loan báo Tin Mừng và thăng tiến công lý, Giáo hội vừa theo đuổi cứu cánh của riêng mình, khi « chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng trên các thực tại trần thế, giúp chữa lành con người khỏi các khổ cực và thấy phẩm giá mình được nâng lên », đồng thời « vẫn trung thành với sứ mạng tố cáo các lệch lạc, ách nô lệ và áp bức mà bao người phải gánh chịu » (số 65). Đặc biệt trong sứ mạng này, Giáo hội, theo chân Chúa Giêsu, luôn dành ưu tiên cho người nghèo « dưới nhiều hình thức khác nhau : thiếu thốn vật chất, áp bức bất công, tật nguyền thân xác và tâm linh… Và Giáo hội luôn tìm cách cổ võ và thay đổi các cơ cấu xã hội để có được những điều kiện sinh sống xứng hợp với con người » (số 68). Dĩ nhiên, sự lựa chọn ưu tiên cho người nghèo này không có tính cách cục bộ hay bè phái, nhưng « biểu lộ tính phổ quát của bản chất và sứ mạng của Giáo hội ». Nó cũng không có nghĩa là loại bỏ các giới khác (x. số 68).

C. Vấn đề xã hội : khái niệm, nguồn gốc và nguyên nhân.

I. Khái niệm.

Kiểu nói « vấn đề xã hội » thường được dùng nhiều trong HTXH của Giáo hội. Tuy nhiên, thật khó xác định ý nghĩa của nó, vì tính đa giá trị và biến chuyển của nó. Ta có thể tập hợp một số định nghĩa, mỗi thời, mỗi lý thuyết xã hội đề nghị một định nghĩa riêng biệt.

Ta có thể tóm lại sự đa dạng định nghĩa này trong hai quan niệm chung.

1. Trước tiên, vấn đề xã hội được định nghĩa như là vấn đề tổ chức đời sống chung của con người.

Con người là một hữu thể xã hội ; cuộc sống của con người là một sự đồng hiện hữu với người khác. Dù hình thức nó thế nào, đời sống chung này đặt ra một loạt các vấn đề chung : chẳng hạn, tương quan giữa nhân vị và xã hội, giữa tự do cá nhân và quyền bính, giữa thiện ích cá nhân và công ích ; nền tảng, những quyền hạn và những giới hạn của quyền bính ; việc tạo ra một trật tự pháp lý…

Trong học thuyết xã hội của Giáo hội, và đặc biệt trong các văn kiện của các Giáo hoàng từ đức Lêo XIII đến nay, chúng ta tìm thấy các nguyên tắc này, được soi sáng bởi mạc khải.

2. Thế nhưng, thông thường, người ta gán cho thành ngữ « vấn đề xã hội » một ý nghĩa khác. Đó là toàn bộ các vấn đề được đặt ra do sự hỗn độn của đời sống xã hội và bó buộc có giải pháp luân lý.

Trong ngôn ngữ hiện hành, người ta nói đến vấn đề xã hội liên quan đến các xung đột, căng thẳng hay những hỗn độn của đời sống xã hội, tác động đến các nhóm xã hội và được cảm thấy như là trái với những chuẩn mực của đời sống này.

Nếu phân tích quan niệm này, chúng ta nhận thấy ba yếu tố :

+ một sự hỗn độn trong đời sống xã hội gây nên sự phê bình xã hội, chẳng hạn hoàn cảnh của giai cấp thợ thuyền vào thế kỷ 19, hay hoàn cảnh của các nước kém phát triển.

+ một sự hỗn độn tác động đến hoặc là một nhóm của thân thể xã hội, hoặc là toàn thể thân thể xã hội. Nó vượt quá các trường hợp cá nhân bất hạnh hay khốn cùng.

+ điểm quan trọng nhất : hoàn cảnh này được cho là trái với các chuẩn mực của đời sống xã hội, với những gì được gọi là công bằng xã hội.

Việc đánh giá những gì là công bằng về mặt xã hội tạo nên một phán đoán giá trị ; nó diễn tả các chuẩn mực luân lý được chấp nhận trong một cộng đồng xã hội nào đó, ý thức luân lý của cộng đồng này. Ý thức luân lý này được phát triển và nội dung « công bằng xã hội » cũng được phát triển. Quan niệm về nhân vị và phẩm giá của nó được nhìn nhận từ lâu ; và người ta suy diễn từ chuẩn mực này những hệ quả mà trong quá khứ không khám phá ; người ta nhìn nhận cho nhân vị những quyền gắn liền với nó, không phải đặc ân của một chính quyền nào…

Ý niệm « công bằng  xã hội » do đó là một ý niệm năng động : những hoàn cảnh được cho là có thể chấp nhận và công bằng vào thế kỷ 19 bây giờ có thể bị coi là bất bao dung. Sự tiến bộ đổi mới không ngừng vấn đề xã hội, mang lại cho nó những chiều kích mới và những mục tiêu tiến bộ hơn. Nếu muốn định nghĩa vấn đề xã hội, do đó cần phải nhấn mạnh đến đặc tính năng động của nó, sự đang hình thành của nó.Vả lại, không được quên rằng mỗi thời đại có những vấn đề xã hội riêng (x.Những Định Hướng, số 53 ; xem thêm số 54).

Vào năm 1956, Messner mô tả vấn đề này như sau : vấn đề xã hội là « vấn đề về các bất cân bằng trong sự phát triển và vận hành của việc tổ chức xã hội trong một xã hội đối với các đòi hỏi của công ích, cũng như vấn đề về các nguyên nhân của chúng và các phương tiện sửa chữa ở đó ».

Về phần mình, Utz đưa ra định nghĩa sau : « Vấn đề xã hội là vấn đề hay việc tìm kiếm các nguyên nhân của những hỗn độn vốn ngăn cản việc thực thi công bằng xã hội nơi cơ thể xã hội và những phương tiện có thể loại bỏ những nguyên nhân này ».

Gần đây hơn, năm 1995, Robert Castel định nghĩa : «‘Vấn đề xã hội’ là một khó khăn nan giải nền tảng trên đó một xã hội nghiệm thấy ẩn ngữ của sự liên kết của mình và tìm cách gạt bỏ nguy cơ gãy vỡ. Nó là một thách đố vốn chất vấn, đặt vấn đề khả năng của một xã hội (những gì mà trong chính trị người ta gọi là một quốc gia) tồn tại như là một toàn thể được gắn liền bởi những mối quan hệ độc lập.» Ông cho biết «vấn đề này lần đầu tiên đã được gọi như thế trong những năm 1830. Nó đã được đặt ra như thế từ việc ý thức những điều kiện sống của các dân vừa là tác nhân vừa là nạn nhân của cuộc cách mạng công nghiệp. Đó là vấn đề tình trạng bần cùng hóa. Thời điểm chủ chốt của vấn đề đó, khi sự mâu thuẫn đã xuất hiện hầu như hoàn toàn giữa một trật tự pháp lý-chính trị được xây dựng trên việc nhìn nhận các quyền của các công dân và một trật tự kinh tế đem lại một sự khốn khổ và sự mất tinh thần nơi quần chúng. »

Những phân tích « vấn đề xã hội » này dẫn đến kết luận rằng vấn đề này thay đổi theo không gian và thời gian và các nền văn minh xã hội. Vấn đề xã hội của thế kỷ 19 là vấn đề giai cấp vô sản công nghiệp, nạn nhân của chủ nghĩa tư bản ; đó là những gì mà Đức Lê-ô XIII đã nhìn thấy trong Thông điệp Rerum novarum. Khi Đức Pi-ô XI viết Thông điệp Tứ Thập Niên (Quadragesimo anno), vấn đề đã được mở rộng và ngài nói đến việc khôi phục toàn thể trật tự xã hội. Trong Thông điệp Mater et Magistra, đức Gioan XXIII đề cập đến nhiều bất cân bằng, nhưng vấn đề chủ yếu là vấn đề các nước kém phát triển…[1]

Vấn đề xã hội như thế không còn là một vấn đề của nước này hay nước kia, xã hội này hay xã hội nọ, nhưng đã đạt đến tầm mức toàn cầu, đặc biệt được nhấn mạnh bởi các vị giáo hoàng sau Công đồng Vatican II. Sự biến chuyển của vấn đề xã hội như thế cũng đánh dấu sự tiến triển của học thuyết xã hội (x. Những Định Hướng, số 11) : « Đối tượng ban đầu của học thuyết này là những gì người ta gọi là ‘vấn đề xã hội’, tức là toàn bộ những vấn đề kinh tế chính trị xuất hiện trong những nơi nhất định của thế giới Âu Mỹ theo sau ‘cuộc cách mạng công nghiệp’. Ngày nay, ‘vấn đề xã hội’ không còn bị giới hạn nữa vào những vùng địa lý riêng biệt, nhưng nó có một chiều kích toàn cầu, và nó bao gồm nhiều khía cạnh, kể cả chính trị, trong mối liên hệ với tương quan giai cấp và với sự biến đổi xã hội đã diễn ra và vẫn còn đang trên đường thực hiện. Dù sao ‘vấn đề xã hội’ và ‘học thuyết xã hội’ là những thuật ngữ tương quan ». Ở đây, nếu nhấn mạnh đến tính năng động của « vấn đề xã hội », thì Giáo hội cũng thừa nhận tính năng động của học thuyết xã hội của mình : « Dù hoàn toàn là ‘một hệ thống’ học thuyết khá chặt chẽ, nhưng nó không bị giảm thiểu thành một hệ thống khép kín, trái lại, nó tỏ ra chú tâm đến sự tiến triển của các hoàn cảnh và có khả năng trả lời cách thích đáng cho các vấn đề mới mẻ và cho cách thế mới mẻ mà chúng được đặt ra » (Những Định Hướng, số 11, xem thêm số 27).

II. Những nguyên nhân thường hằng và căn bản của sự hỗn độn xã hội.

Không có bất kỳ thời kỳ nào trong lịch sử người ta có thể tìm được một xã hội lý tưởng, thực hiện hoàn hảo một tình trạng sống sung túc, hạnh phúc mà mọi thành viên của xã hội có thể tham dự. Hầu như vào mọi thời đại của lịch sử, chúng ta đều chứng kiến những cuộc phản đối, những nổi loạn chống lại trật tự xã hội đang hiện hành, chống lại những bất công… : các ngôn sứ Israël lên tiếng chống lại những lạm dụng vào thời mình ; các triết gia Cổ đại, như Platon…, đều cưu mang một xã hội lý tưởng ; trong suốt dòng lịch sử, các nhà không tưởng, phản ứng lại những yếu kém của việc tổ chức xã hội, đã mô tả một tình trạng xã hội lý tưởng ; vào thế kỷ XIX, việc phê bình xã hội đã làm nảy sinh những phong trào cách mạng…

Một đời sống xã hội lý tưởng có thể thực hiện được không ? Hệ thống theo khuynh hướng tự do và hệ thống theo khuynh hướng tập thể nghĩ là có thể: Hệ thống theo khuynh hướng tự do muốn thực hiện đời sống này bằng sự tự do cho phép mọi người tìm kiếm hạnh phúc trong sự hài hòa các lợi ích của họ ; hệ thống theo khuynh hướng tập thể muốn thiết lập một xã hội mà, nhờ một nền kinh tế tập trung, sẽ có thể làm cho tất cả các thành viên của mình hưởng lợi được các của cải được tích lũy qua việc sản xuất không ngừng gia tăng. Những hệ thống này gần với những giấc mơ của những người không tưởng ; họ không biết rõ những dữ kiện bền vững của bản tính và của thân phận con người.

Đâu là những dữ kiện này ?

1. Tội nguyên tổ, nguyên nhân của sự hỗn độn xã hội.

Giáo lý Kitô giáo dạy rằng, tiếp sau tội nguyên tổ, có một sự hỗn độn trong bản tính con người, mà các hậu quả của nó vẫn tồn tại. Những hậu quả này là trí khôn không còn minh mẫn, sự yếu đuối, sự rối loạn của các đam mê, khuynh hướng hướng chiều sự dữ.

Qua tội nguyên tổ này, bản tính con người bị tổn thương, và vì cũng là thuộc bản chất xã hội, nên bản tính này cũng biểu lộ những suy yếu và sự hỗn độn của nó trong những tương quan xã hội : thiếu hiểu biết những đòi hỏi của đời sống xã hội, thói ích kỷ, tìm kiếm lợi ích cá nhân… Chính trong sự suy yếu này của bản tính con người mà cội rễ đầu tiên của mọi hỗn độn xã hội hình thành. Chính qua việc đổi mới và tái sinh con người từ bên trong mà sẽ phải bắt đầu mọi công trình phục hưng xã hội, và chính ở đây mà nhiệm vụ không thể thiếu của Giáo hội được thể hiện, vì Giáo hội thủ đắc những phương tiện siêu nhiên giúp tái sinh các linh hồn.

2. Ảnh hưởng của các ý thức hệ.

Chúng ta hiểu từ ngữ « ý thức hệ » là những quan niệm sống chịu ảnh hưởng bởi các cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội, được dùng làm chương trình hành động và biện minh cho chương trình này. Nếu từ ngữ này được áp dụng cho mọi lãnh vực của hoạt động nhân sinh, thì nó đặc biệt được dùng trong lãnh vực chính trị và xã hội. Từ đó người ta có thể nói đến ý thức hệ chủ nghĩa kinh tế tự do, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa mar-xít, chủ nghĩa cộng sản…

Những ý thức hệ này có khuynh hướng tạo ra nhiều cách thức xung đột và căng thẳng xã hội :

a) Qua những quan niệm thiếu sót và hẹp hòi về bản tính và cuộc sống con người. Con người kinh tế của chủ nghĩa kinh tế tự do, con người tập thể của chủ nghĩa cộng sản, con người kỹ thuật của chủ nghĩa kỹ thuật hiện nay đều không mang lại một cái nhìn đúng đắn và đầy đủ về con người. «Ngày nay cũng như hồi xưa, những sự phát minh của khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng rất nhiều đến những mối giao tế trong xã hội. Vì thế ai cũng phải lo cho khoa học và nghệ thuật thăng tiến mãi để cân xứng với chức vị con người hơn, không những trong từng quốc gia nhưng trong cả đời sống quốc tế nữa. Để bước tới mục đích ấy, người ta đã nghĩ ra bao học thuyết khác nhau. Học thuyết này mới phát xuất đã tiêu tan ngay như sương bình minh. Học thuyết kia vừa phát xuất đã phải thay đổi tận gốc rễ. Những học thuyết khác dù đã có những hấp dẫn rất mạnh đối với nhân loại nhưng dân chúng ngày bỏ đi càng nhiều vì những học thuyết ấy không tìm hiểu sâu rộng và toàn diện về con người. Nhân tính con người còn bao khuyết điểm mà những học thuyết trên hầu như không quan tâm tới, như bệnh tật và sự đau khổ, hệ thống kinh tế xã hội nào dù hoàn hảo tới đâu cũng không sửa chữa hết được» (MM, số 212-213).

b) Qua những sự chống đối và đấu tranh của chúng : trong một xã hội có nhiều quan niệm sống đối đầu nhau, những quan niệm muốn dẫn dắt và tổ chức các tương quan nhân loại. Các cuộc chiến ý thức hệ này tạo nên những căng thẳng và xung đột không ngừng.

3. Các thể chế, nguyên nhân của vấn đề xã hội.

Tất cả đời sống xã hội được diễn tả và được xây dựng trong những thể chế, những khuôn khổ chính trị, pháp lý, kinh tế…Dù chúng cần thiết cho việc đạt tới mục đích xã hội, nhưng những khuôn khổ này luôn luôn không hoàn hảo :

a) Do một tiến trình cũ đi, không thích ứng với những điều kiện sống xã hội mới mẻ ;

b) Do những lạm dụng ; mọi chế độ đều có khuynh hướng tạo nên những đặc ân ; mọi quyền lực đều có nguy cơ làm dụng quyền lực ;

c) Do sự mở rộng và tính phức tạp của chúng : các cơ quan quyền lực gia tăng ; thay vì thăng tiến công ích, chúng ngăn cản nó.

d) Sự tiến bộ cũng có thể là nguyên nhân của vấn đề xã hội. Sự tiến bộ kinh tế, kỹ thuật mang lại những giải pháp cho các vấn đề, nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mới.

D. Những lý do Giáo hội can thiệp vào vấn đề xã hội.

Sứ mang chính yếu của Giáo hội là thuộc trật tự luân lý, tinh thần và siêu nhiên. Bởi thế, Giáo hội không can thiệp và chỉ có thể can thiệp trong các vấn đề trần thế khi và trong chừng mực những vấn đề này động chạm đến những lợi ích thiêng liêng mà Giáo hội có bổn phận gìn giữ. Có bốn lý do căn bản để biện minh cho sự can thiệp của Giáo hội trong những vấn đề xã hội :

+ vì khía cạnh luân lý của vấn đề ;

+ vì nguồn gốc đầu tiên của nó ;

+ vì những hậu quả của nó ;

+ vì phương dược căn bản cần phải áp dụng để giải quyết vấn đề.

1. Vấn đề xã hội đòi hỏi sự can thiệp của Giáo hội vì khía cạnh luân lý của nó.

Những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị… không được giảm thiểu vào chỉ các khía cạnh kỹ thuật của chúng mà thôi, nhưng bao hàm một chiều kích luân lý (RN 13 ; QA 32-33 (bản tiếng Pháp 44-47) ; MM 42, SRS 41…). Tất cả các hoạt động này của con người đều phải phù hợp với bản tính và định mệnh của con người như lý trí và mạc khải cho thấy. Trong việc theo đuổi các mục đích tức thời và trần thế của mình, con người phải tôn trọng phẩm trật các mục đích và quan tâm đến định mệnh tối hậu của mình.

Về phần mình, Giáo hội, với sứ mạng dẫn đưa con người đến cứu cánh của nó, có nghĩa vụ giúp cho tôn trọng trật tự các mục đích hay giá trị.Giáo hội công bố các nguyên tắc giúp điều chỉnh các tương quan xã hội : công bằng giao hoán, phân phối…, bác ái. Giáo hội có bổn phận bênh vực con người, lên án những bất công và những sai lầm làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Hiến chế Gaudium et spes, số 76, nói rõ sứ mạng này của Giáo hội : « Bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào Giáo hội cũng phải được tự do rao giảng đức tin, truyền bá học thuyết xã hội của mình cũng như được dễ dàng chu toàn sứ mệnh của mình giữa loài người. Giáo hội cũng phải được quyền nói lên nhận định luân lý của mình về cả những vấn đề liên quan đến lãnh vực chính trị khi quyền lợi căn bản của con người hay phần rỗi các linh hồn đòi hỏi. Nhằm mục đích trên, Giáo hội sử dụng mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp với Phúc Âm và lợi ích của mọi người tùy theo thời đại và hoàn cảnh khác nhau.» 

Thông điệp Sollicitudo rei socialis, số 41, khẳng định quyền can thiệp của Giáo hội vào các vấn đề xã hội như là thuộc sứ mạng loan báo Tin Mừng : « Theo gương các vị tiền nhiệm, tôi phải lập lại rằng, những gì đụng chạm tới phẩm giá con người và các dân tộc, chẳng hạn việc phát triển đích thực, không thể thu gọn vào một vấn đề “kỹ thuật”. Làm như vậy, việc phát triển sẽ mất đi ý nghĩa đích thực của nó, và người ta sẽ phản bội con người cũng như các dân tộc mà mình phải phục vụ.

Đó là lý do mà Giáo hội, ngày hôm nay cũng như cách đây 20 năm và trong tương lai, vẫn phải lên tiếng về bản chất, về các điều kiện, các đòi hỏi và các mục tiêu của việc phát triển đích thực, cũng như về những gì ngăn trở việc phát triển đó. Làm như vậy, Giáo hội hoàn tất sứ mạng Phúc Âm hóa của mình, bởi vì Giáo hội đã đi bước đầu trong việc đóng góp vào công cuộc giải quyết vấn đề cấp bách của việc phát triển khi công bố sự thật về Chúa Kitô, về chính Giáo hội và về con người, bằng cách áp dụng sự thật đó vào một hoàn cảnh cụ thể» (SRS 41)

Ngay cả trong các lãnh vực chủ yếu kỹ thuật, đức tin có thể hình thành nên lương tâm con người để cho phép nó đảm nhận những dấn thân lịch sử của mình. Theo nghĩa này, đức tin nâng đỡ trật tự xã hội, bằng cách củng cố ý thức luân lý của con người về điều đó (MM 195 ; RN 13 ; QA 32).

Các số 69-71 của cuốn « Tóm Lược » vạch ra các quyền hạn và nghĩa vụ của Giáo hội trong lãnh vực trần thế nhắm « giúp con người trên đường cứu độ ». « Giáo hội có quyền làm người thầy dạy cho nhân loại, một người thầy dạy chân lý đức tin : chân lý này không chỉ qua các tín điều mà qua cả luân lý vì nằm trong chính bản tính của con người và Tin Mừng ». « Giáo hội có quyền rao giảng những nguyên tắc luân lý mọi nơi mọi lúc, bao gồm cả những nguyên tắc có liên quan tới trật tự xã hội, và có quyền đưa ra các lời phê phán về bất cứ việc làm nào của con người chừng nào các quyền căn bản của con người hay việc cứu độ các linh hồn đòi hỏi ».

Về phần mình, Đức Bênêđictô XVI xác định : « Giáo hội không đưa ra giải pháp kỹ thuật và cũng không đòi hỏi ‘nhúng tay vào chính trị của Nhà Nước’. Dù vậy, Giáo hội phải chu toàn trong mọi thời gian và mọi hoàn cảnh sự vụ chân lý cho một xã hội xứng với con người, với phẩm giá và ơn gọi của họ » (Caritas in veritate, số 9).

2. Vấn đề xã hội là phù hợp với Giáo hội vì nguồn gốc đầu tiên của nó.

Như chúng ta đã thấy, vấn đề xã hội nảy sinh từ một loạt những nguyên nhân thuộc trật tự thể chế và ý thức hệ. Nhưng không thể phủ nhận được rằng cội rễ sâu xa của vấn đề xã hội nằm trong việc phi Kitô giáo hóa (QA 80, 81) hay trong việc tục hóa đời sống công cộng, trong việc quên đi các giá trị tinh thần (MM 176). Ở đây, chúng ta có thể nói như Brunetière : « Vấn đề xã hội là một vấn đề luân lý và vấn đề luân lý là một vấn đề tôn giáo ». Một thế giới không có hay loại bỏ Thiên Chúa không chóng thì chày sẽ trở thành một thế giới loại bỏ con người.

Đức Pi-ô XII đã viết trong thông điệp Summi Pontificatus (20/10/1939): « Trước hết, chắc chắn rằng cội rễ sâu xa và sau cùng của các sự dữ… trong xã hội hiện đại là việc chối bỏ và việc gạt bỏ một quy luật luân lý tính phổ quát, hoặc là trong đời sống các cá nhân, hoặc là trong đời sống xã hội và trong các tương quan quốc tế…Thế nhưng, việc chối bỏ nền tảng căn bản ở Châu Âu lại có cội rễ nguyên thủy của nó trong việc từ bỏ giáo lý của Chúa Kitô mà ngai tòa Phêrô (huấn quyền của Giáo Hoàng) là người được ký thác và là thầy dạy…Tin Mừng kể rằng khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, bóng tối đã bao phủ cả mặt đất (Mt 27, 45) : biểu tượng đáng sợ về những gì đã xảy đến và đang còn xảy đến nơi các tâm trí, ở khắp nơi mà sự vô tín mù quáng  và ngạo mạn về chính mình đã loại trừ Chúa Kitô khỏi cuộc sống hiện đại… »

Đối với Đức Pi-ô XII, ở đâu niềm tin vào Thiên Chúa biến mất, thì ở đó trật tự luân lý cũng bị lung lay (xem thêm MM 208 và 215). Về phần mình, Đức Bênêđictô XVI khẳng định : « Nếu không có tầm nhìn vào đời sống vĩnh cửu, sự phát triển nhân bản sẽ thiếu sức sống trong thế giới nàyKhông có Thiên Chúa sự phát triển sẽ bị phủ nhận hay chỉ gán vào tay con người ; nhưng khi con người muốn tự cứu lấy mình, thì cuối cùng sẽ đưa đến một sự phát triển phi nhân » (Caritas in veritate, 11). Việc đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa sẽ dẫn đến việc đánh mất các nguyên tắc phổ quát và cuối cùng là việc phá hủy tất cả những gì liên kết con người lại với nhau. Việc chối bỏ Thiên Chúa dẫn đến sự lung lay của các nền tảng của đời sống xã hội. Điều đó cho thấy rằng do những nguồn gốc sâu xa của nó, vấn đề xã hội cũng liên quan đến Giáo hội. Tóm lại, khi can thiệp vào xã hội, Giáo hội muốn nói rằng « Tin Mừng là yếu tố nền tảng cho sự phát triển » (số 18).

3. Do những hậu quả tai hại đối với lợi ích của các linh hồn, vấn đề xã hội thúc giục sự can thiệp của Giáo hội.

Những hậu quả của các vấn đề xã hội cũng liên quan đến Giáo hội, bởi vì những điều kiện sống phi nhân ngăn trở việc thể hiện nhân vị, ơn gọi phát triển và ơn cứu rỗi toàn diện của nó. Trong phần III của thông điệp Tứ Thập Niên, đức Pi-ô XI đã ghi nhận rằng : « Loài người phần đa số hầu như đặc biệt bị tác động bởi những xáo trộn trần thế, những phá hoại, những tệ đoan thế tục. Nhưng so sánh cho kỹ những tệ đoan ấy, theo quan điểm Kitô giáo, với những bại hoại của các linh hồn, nào có ra gì. Nói cho đúng, tình trạng xã hội kinh tế ngày nay là trở lực kinh khủng nhất, khiến loài người phần đông không chu toàn được việc khẩn cấp hơn cả, là việc rỗi linh hồn. » (số 141 bản tiếng Pháp/ bản tiếng Việt số 80). Đức Pi-ô XI đã phân tích khá dài những nguyên nhân của sự dữ dẫn đến việc bài trừ Kitô giáo(xem số 81-82 bản tiếng Việt) để kết luận : « Ai cũng khiếp sợ khi thấy những tệ đoan đe dọa những xưởng lớn ngày nay, về luân lý công nhân, nhất là công nhân tuổi trẻ; về nết na đức hạnh của phụ nữ ! ai cũng khiếp sợ, khi thấy chế độ cần lao hiện tại gây bao trở lực cho đời sống gia đình, hoặc vì hoàn cảnh khốc hại, cửa nhà công nhân phải ở, hoặc vì gia đình công nhân bị phân tán, không giữ được sự ấm cúng cần thiết. Ai cũng khiếp sợ khi thấy những trở lực lớn lao ngăn cấm công nhân không còn thánh hóa được ngày chủ nhật và lễ trọng. Ai cũng khiếp sợ khi thấy công nhân và các dân đen xưa kia có lý tưởng công giáo rất cao, mà ngày nay đã mất cả tinh thần Kitô hữu, vì quá bề bộn về việc cơm bánh thường ngày. Theo ý Chúa quan phòng không cứ gì tội nguyên tổ đối với con người, cần lao phải là phương kế mở mang phần xác, vật chất và tinh thần. Nhưng với tổ chức kinh tế vô đạo kia, cần lao chỉ còn đưa nhân loại đến trụy lạc. Trong xưởng máy, muôn vật thiên nhiên đều thêm giá trị, Nhưng loài người trái lại, chỉ hư đi và suy đồi mãi » (số 82).

Những hậu quả đó giả thiết một sự coi khinh lớn lao đối với nhân vị và sản sinh ra một cái nhìn duy vật về cuộc sống. Bởi thế, Giáo hội, có trách nhiệm đối với phần rỗi các linh hồn, quan tâm đến việc phục hồi trật tự xã hội. Ta có thể nói rằng hoạt động xã hội là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất và là một trong những hình thức tông đồ chính yếu của Giáo hội.

Về phần mình, đức Piô XII, trong Sứ điệp truyền thanh dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, năm 1941, đã đòi hỏi « thẩm quyền không thể chối cãi của Giáo hội…để xét đoán liệu những cơ sở của một tổ chức xã hội nào đó có phù hợp với trật tự bất biến của những sự mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và là Đấng Cứu Độ, đã biểu lộ qua luật tự nhiên và Mạc Khải » (trích lại trong MM, số 42).

4. Việc giải quyết vấn đề xã hội cần có sự can thiệp của Giáo hội

Vấn đề xã hội trước hết là một vấn đề luân lý. Không thể có bất kỳ giải pháp có giá trị nào cho các vấn đề xã hội nếu không có sự canh tân các phong hóa xã hội, trở về với những nguyên tắc bất khả xâm phạm của luân lý. Và không chỉ các thể chế mới cần được chữa lành mà thôi, nhưng trước tiên là chính con người cần được đổi mới. Kinh nghiệm xác nhận chân lý này : mọi biến đổi bên ngoài vẫn sẽ vô ích, nếu nó không được đi kèm với một sự đổi mới bên trong.

Đối với nhiệm vụ đổi mới luân lý này, sự cộng tác của Giáo hội là cần thiết ; quả thật Giáo hội không chỉ có những lời nhưng còn những nguồn mạch của sự sống đời đời. Giáo hội phân phát ân sủng làm cho con người có thể từ bỏ chính mình, « mất mạng sống mình để cứu nó ». Giáo hội có nghĩa vụ đề nghị một quan niệm Kitô giáo về cuộc sống ; điều này dẫn đến một bổn phận lắng nghe những giáo huấn của Giáo hội.

Vả lại, Giáo hội, trong suốt hơn 20 thế kỷ qua, đã chứng tỏ rằng Giáo hội đã luôn luôn là một trường học tiến bộ nhân bản và xã hội và đồng thời là nơi Thiên Chúa hiện diện.

Trong những trang đầu tiên của thông điệp Mater et Magistra, đức Gioan XXIII, để chứng minh rằng Giáo hội phải quan tâm đến những đòi hỏi của đời thường liên quan đến điều kiện sống của con người nhưng cũng là sự phồn vinh và sự văn mình của nhân loại, đã kêu gọi lắng nghe những lời giáo huấn và mẫu gương của Chúa Kitô.

Về phần mình, đức Bênêđictô XVI, trong cuốn « Ánh Sáng Thế Gian », khi trả lời cho nhà báo Peter Seewald về vấn đề môi sinh toàn cầu, đã khẳng định rằng để cho cái ý chí chính trị kia đi vào lòng người, thì « chỉ có một thẩm cấp có thể làm được, thẩm cấp này đụng chạm tới lương tâm con người, gần gũi với từng người và không chỉ hô hào những cuộc tổ chức ồn ào mà thôi : Giáo hội. (…) Giáo hội không những mang trách nhiệm lớn, mà nhiều khi nó là mối hy vọng duy nhất, tôi dám nói như thế. Bởi vì Giáo hội gần gũi với lương tâm nhiều người, Giáo hội có thể kêu gọi con người sẵn sàng từ bỏ một số điều nào đó và có thể ghi khắc vào tâm trí con người những phong cách ứng xử căn bản ».

Như thế, Giáo hội có những lý do chính đáng để quan tâm đến hay can thiệp vào vấn đề xã hội. Bởi vì hoạt động kinh tế xã hội phải phù hợp với các chuẩn mực luân lý mà Giáo hội có trách nhiệm bảo vệ ; bởi vì do từ nguyên thủy của nó, sự hỗn độn xã hội là kết quả của sự phi tôn giáo và của sự tục hóa đời sống công cộng ; bởi vì trong những hậu quả của nó, nó tác động đến con người ; và bởi vì giải pháp cho vấn đề xã hội đòi hỏi một sự thay đổi nội tâm và không thể không cần đến sức mạnh ban sự sống của ân sủng.

 E. Những nhiệm vụ của Giáo hội trong lãnh vực xã hội.

Trong lãnh vực xã hội, Giáo hội thực thi ba chức năng : giảng dạy, giáo dục và hành động xã hội. Đức Lê-ô XIII đã nhấn mạnh ba điểm này trong Rerum Novarum và đức Gioan XXIII đã làm rõ chúng trong Mater et Magistra.

1. Nhiệm vụ giảng dạy của Giáo hội về mặt giáo thuyết.

Nhiệm vụ đầu tiên của Giáo hội là giảng dạy quan niệm Kitô giáo về cuộc sống, mà học thuyết xã hội của Giáo hội là thành phần của nó (MM 222). Trong học thuyết đó, « Giáo hội chỉ rõ làm thế nào tổ chức những mối tương giao nhân loại theo những chuẩn mực phổ quát, phù hợp với bản tính của các sự việc, thích hợp với các tình trạng khác nhau của xã hội và với những đặc điểm thời đại của ta, và, do đó, có thể được mọi người chấp nhận» (MM 220).

Đức Thánh Cha nhấn mạnh như thế để nó « được giảng dạy như môn học bắt buộc trong tất cả các trường Công giáo ở mọi cấp bậc, nhất là trong các chủng viện » (MM 223). Nếu người ta đã trách cứ người Công giáo đã không áp dụng các chỉ thị của HTXHCG, thì đó phần lớn là do họ không biết đến học thuyết này.

2. Nhiệm vụ giáo dục của Giáo hội.

Dạy HTXH mà thôi thì chưa đủ, còn cần phải đào luyện lương tâm nữa. Các nguyên tắc xã hội của nó không chỉ được trình bày mà thôi, nhưng còn phải áp dụng nữa, tức là đào luyện lương tâm theo những nguyên tắc này (x. MM 227). « Để đầy đủ, nền giáo dục Kitô giáo phải được mở rộng đến các bổn phận của mọi cấp trật. Do đó, nó phải đào luyện các tín hữu hành động phù hợp với giáo huấn của Giáo hội trong lãnh vực kinh tế và xã hội… » (MM 228).

3. Hành động xã hội.

Giáo dục xã hội, để hiệu quả, phải giúp cho các chủ thể tham dự vào việc giáo dục bản thân và phải được thể hiện trong hành động.

Từ bao đời, Giáo hội, dù nhắm đến trước tiên phần rỗi đời đời của con người, cũng đã cho thấy sự quan tâm săn sóc của mình đối với hạnh phúc trần thế của họ. Sự quan tâm săn sóc này được diễn  tả bằng ba cách thức :

a) Cách trực tiếp, qua các việc bác ái và các tổ chức từ thiện, qua các hội dòng và tổ chức tôn giáo mà các thành viên của chúng hiến thân cho việc nâng đỡ, dạy dỗ và giáo dục người khác. Không ai có thể chối bỏ những dấn thân phục vụ xã hội của Giáo hội Công Giáo trên khắp thế giới.

b) Cách gián tiếp, Giáo hội đóng góp vào thiện ích của xã hội bằng việc giáo dục, nhất là ghi khắc vào tâm trí con cái của mình một đức ái sẵn sàng dấn thân phục vụ. Lịch sử Giáo hội đã cho thấy những anh hùng đức ái và phục vụ xã hội như thế nào !

c) Cách mạnh mẽ hơn, Giáo hội lên tiếng tố giác những bất công xã hội, bênh vực quyền và phẩm giá con người…

« Những nguyên tắc mà Ta vừa đưa ra về giáo dục cũng có giá trị trong hành động. Đó là một nhiệm vụ đặc biệt thuộc về giáo dân, con cái của Ta, vì hoạt động của họ thường được thực thi trong những việc trần thế hay trong việc tạo ra những tổ chức với mục đích trần thế » (MM 240).

« Muốn thực hành nghĩa vụ, giáo dân phải có chuyên môn họ đã đảm nhiệm. Nhưng đàng khác họ phải tận tâm hiệp lực áp dụng những nguyên tắc và những huấn lệnh của Giáo hội trong phạm vi xã hội, với một tấm lòng thành thực đầy tín nhiệm và tòng phục giáo quyền. Họ phải ý thức trách nhiệm: Nếu họ hành động trong phạm vi thế trần, mà không tuân giữ những nguyên tắc và những huấn lệnh do Giáo hội chỉ dạy và nhờ ta xác nhận tại đây thì họ có lỗi với phận sự và có khi còn phạm đến quyền lợi của anh em, và khiến người khác hiểu lầm học thuyết xã hội công giáo chỉ là một lý thuyết rất hay nhưng vô hiệu lực để cải thiện đời sống» (MM 242).

Ở đây, một lần nữa, chúng ta không thể không nhắc lại những nhiệm vụ của Giáo hội trong lãnh vực trần thế mà « Những Định Hướng », số 5, cho thấy : « loan báo chân lý về phẩm giá của con người và về các quyền của nó, tố giác những hoàn cảnh bất công và đóng góp vào những thay đổi tích cực trong xã hội và vào sự tiến bộ đích thực của con người». Và đó chính là sứ mạng mà Chúa Kitô trao phó cho Giáo hội : giảng dạy (ngôn sứ), thánh hóa (tư tế) và phục vụ (vương đế).

————————————

 Tài liệu tham khảo:

+ Những định hướng cho việc nghiên cứu và giảng dạy HTXH của Giáo Hội trong việc đào tạo linh mục (Bộ Giáo Dục Công Giáo, 1989).

+ Tóm Lược HTXH của Giáo Hội Công Giáo (Ủy ban Công Lý & Hòa Bình, 2004).

+ Các Thông  điệp xã hội (Từ đức Lê-ô XIII đến Đức Phanxicô).

+ Pierre de Charentenay, Vers la justice de l’Evangile : introduction à la pensée sociale de l’Eglise, Desclée de Brouwer, 2008.

+ Ricardo Antoncich…, La doctrine sociale de l’Eglise, Cerf, 1987.

+ Anne Despaigne, Comprendre la doctrine sociale de l’Eglise, Traditions Monastiques, 2007.

+ C. Van Gestel, Introduction à l’enseignement  social de l’Eglise, coll. Etudes sociales, 49-50,  La Pensée Catholique, 1962.

+ Pierre BIGO, La doctrine sociale de l’Eglise, PUF, Paris, 1965.

 ———————————————

[1] Nói chung, từ thời đức Lê-ô XIII đến nay, một số chủ đề sau được bàn đến : Giới thợ thuyền vào cuối thế kỷ 19 ; những vấn đề ý thức hệ của thập niên 1930 ; vấn đề thành thị hóa và công nghiệp hóa của thập niên 1960 ; chiến tranh và hòa bình trong thời chiến tranh lạnh ; bước ngoặt Vatican II : Hiến chế Gaudium et spes bàn về vị trí của Giáo hội trong thế giới ; các vấn đề chính trị và ý thức hệ của những năm 1970 ; công bằng trong những năm 1970 này rất được ghi dấu bởi chủ nghĩa mar-xít ; vấn đề lao động trong những năm 1980 trong đó nạn thất nghiệp gia tăng ; và từ đó đến nay, sự phát triển và sự liên đới quốc tế, chủ nghĩa kinh tế tự do, khủng hoảng tài chính, môi trường, biến đổi gen, khí hậu, khủng bố, phát triển bền vững, vấn đề toàn cầu hóa và những hệ quả của nó, vấn đề di dân, nhân quyền, trí tuệ nhân tạo… (Xem thêm số 49 của Những Định Hướng…).

Tags:

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Hai 2025
H B T N S B C
« Th1    
  1 2
3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 13 14 15 16
17 18 19 20 21 22 23
24 25 26 27 28