TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN VINH: BÀI 9: BÍ QUYẾT TRUNG TÍN VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG Và SỨ VỤ LINH MỤC (I)
Dưới đây là bài giảng tĩnh tâm năm của cha Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss, cho linh mục đoàn giáo phận Vinh, diễn ra từ 30/12/2013 đến 4/1/2014.
BÀI 9
BÍ QUYẾT TRUNG TÍN VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG Và SỨ VỤ LINH MỤC (II)
4. Linh Mục và Con đường Thập Giá
Thiên Chúa toàn năng có thể dùng nhiều con đường khác để cứu độ loài người, nhưng Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá, nên thập giá là con đường tốt nhất, hiệu quả nhất.[1] Chính Ngài đã minh định rất rõ ràng chỉ có một con đường duy nhất để đi theo Ngài: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mọi ngày mà theo”[2]. Mẹ thánh Gioan Bosco đã nói với ngài khi ngài mới chịu chức linh mục: “Khi con bắt đầu bước lên bàn thánh tế lễ là con bắt đầu con đường thập giá.” Và người môn đệ đích thực là người tự do tự nguyện bước đi trên con đường Thập Giá và trung kiên theo Thầy cho đến cuối cuộc đời.
Nhưng có một điều chúng ta thường hay quên là lắm khi chúng ta không vui vẻ chấp nhận thập giá của mình, mà còn phàn nàn so sánh để rồi đi vác thập giá của người khác và bắt người khác vác thập giá của mình. Chúng ta cũng thường rất lắm lần nghĩ người khác là thập giá nặng cho chúng ta, mà quên đi rất nhiều khi chính chúng ta lại là thập giá nặng hơn cho người khác, nặng đến đỗi người khác không thể vác nổi đành phải buông xuống. Chúng ta cần nhớ điều đó để biết nâng đỡ nhau, nhất là khi gặp thử thách, yếu đuối, già cả, bệnh tật.
Thập Giá gắn kết không rời Chúa Giêsu, ngay cả sau khi sống lại, những dấu khổ nạn vẫn không bị xóa nhòa: “Các con hãy nhìn chân tay Thầy, chính Thầy đây, cứ sờ mà xem, ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”[3] – “Tôma, hãy đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay con ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin”[4]. Như vậy, thập giá là dấu chỉ cho ta tìm gặp Chúa Kitô đích thực: “Nếu Chúa Kitô mà chúng ta mường tượng không phải là ‘Chúa Kitô Khổ Nạn’, thì đấy là chúng ta đang mường tượng một ai đó khác, chứ không phải là Chúa Kitô thực.” Nhưng đứng trước thập giá cuộc đời, chúng ta thường phải chịu cơn cám dỗ tìm kiếm một Chúa Giêsu không thập giá. Thật vậy, Phêrô kéo Chúa Giêsu ra ngoài và can ngăn về chuyện Ngài tuyên bố quá rõ ràng về cuộc khổ nạn và cương quyết đi lên Giêrusalem. Nhiều lúc chúng ta cũng làm như Phêrô và đáng bị lời quở trách “Satan, hãy xéo đi!” bởi vì chúng ta không biết việc của Thiên Chúa mà chỉ biết việc của loài người[5]. Nếu cố tìm một Chúa Giêsu không có thập giá, chúng ta sẽ có nguy cơ gặp phải thập giá mà không có Chúa Giêsu, và làm thế là tự hại mình, tự chuốc khổ cho chính mình!
Linh mục, Thánh Thể và Thánh giá luôn liên kết chặt chẽ với nhau. Chúng ta đứng giữa bàn thờ và thánh giá: Thánh lễ tái hiện hy tế thập giá. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta vừa là tư tế vừa là của lễ. Là linh mục, chúng ta được mời gọi cách đặc biệt rảo qua con đường thập giá này. Mỗi ngày chúng ta được dấn sâu vào mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm của hy tế, dù lắm khi thập giá dường như quá nặng khiến chúng ta muốn qụy ngã. Nhưng mầu nhiệm này không được hoàn tất bởi cái chết, song bởi đời sống mới của sự sống lại. Suốt dòng lịch sử của mình, Giáo Hội hầu như luôn luôn bước đi trên con đường hy tế thập giá này. Trong nhiều đất nước, các nhà truyền giáo đã tiến bước suốt nhiều năm hướng về Golgotha, vác lấy thập giá hy sinh và bách hại. Nhiều người trong chúng ta cũng đã hay đang trèo lên con đường dốc đứng đó, dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Con đường thập giá của Giáo Hội, của các tín hữu, và của chúng ta vẫn kéo dài mãi. Những cuộc bách hại vẫn còn đó hay đã thay đổi chút ít, nhưng thập giá vẫn không thay đổi và vẫn đè nặng, khiến lắm lần chúng ta dường như bị oằn xuống dưới sức nặng của thập giá.
Thập giá là một trong những nghịch lý lạ lùng của Kitô giáo[6], nhưng thập giá không phải là kết điểm của con đường, mà là cánh cổng dẫn vào sự sống: thất bại chuyển hóa thành chiến thắng, chính chỗ sự sống bị tước đoạt lại trở thành nơi sự sống được phục hồi, như khi toan trút hơi thở sau hết, Chúa Giêsu tuyên bố “mọi sự đã hoàn tất.” Cũng là nghịch lý rằng cuộc sống linh mục càng cắm rễ sâu vào thập giá càng trổ sinh hoa trái nhiều hơn, như Chúa Giêsu, chính khi đi đến cùng con đường trút bỏ trở thành trống không mà đạt đến mức tuyệt đỉnh: cứu vớt nhân loại khỏi tội lỗi và giải hòa toàn thể nhân loại với Thiên Chúa.
Nếu chúng ta muốn sống cuộc đời linh mục của mình theo Chúa Kitô, chúng ta phải theo Ngài đến tận cùng trong con đường thập giá của Ngài. Đường thập giá của Chúa Giêsu đã là con đường đầu tiên, nhưng không phải là con đường cuối cùng, vì còn có chúng ta và bao nhiêu người khác đang bước theo Ngài, đang muốn đi cùng Ngài đến tận cùng trong con đường thập giá. Giáo Hội đã không quên con đường thập giá. Giáo Hội không bao giờ che giấu thập giá. Thập giá vẫn luôn có mặt trong Phụng vụ: Giáo Hội tán dương và suy tôn thập giá. Thập giá không chỉ là gánh nặng, nhưng phải được xem là cây gậy nâng đỡ, như đối với người già yếu và bệnh tật: vào mọi thời và ở mọi nơi, bao nhiêu người vẫn không ngừng hăm hở đến với thập giá, chiêm ngắm thập giá, yêu mến thập giá. ĐGH Phanxicô đã nói ngay sau ngày được bầu chọn: “Khi chúng ta bước đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng Giáo hội mà không có Thánh Giá, khi chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô mà không có Thánh Giá, thì chúng ta không phải là môn đệ của Chúa. Cầu mong tất cả chúng ta có được sự can đảm bước đi cùng với Thánh Giá của Chúa Kitô, xây dựng trên máu Chúa Kitô đổ ra trên Thánh Giá, và tuyên xưng một vinh quang duy nhất là Chúa Kitô bị đóng đinh trên Thánh Giá”. Còn thánh Phaolô hãnh diện: “Tôi chẳng hãnh diện về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian”[7]
Đường thập giá là trường dạy chúng ta sống thánh thiện. Chúa Giêsu ngã xuống rồi lại chỗi dậy. Ngài chịu đựng nỗi cô đơn, chịu hành hạ và lăng nhục, nhưng Ngài luôn tha thứ. Mẹ Maria cũng đã đi theo Con Mẹ trên đường thập giá. Mẹ bước đi trong thinh lặng, Mẹ và Con nhìn nhau tận trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ và Con kết hiệp với nhau bởi tình yêu bao la, sâu thẳm và trong trắng. Tình yêu này sẽ làm thế giới thay đổi. Xin cho chúng ta được thấm nhuần tình yêu của Chúa và tình yêu của Mẹ. Mẹ đã đứng kề thập giá Chúa Giêsu, Mẹ cũng luôn đứng kề thập giá cuộc đời và sứ vụ linh mục của chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ như đang ở trên đỉnh đồi Golgotha, dưới chân thập giá, bên cạnh Mẹ Maria, nơi đã và đang mãi mãi tập trung sức mạnh lớn nhất của thế giới: tình yêu của Thiên Chúa trong Con của Ngài[8]. Tình yêu này không bao giờ cạn kiệt, không bao giờ thôi là sức mạnh cứu độ của thế giới, một khi Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha đời sống mình làm hy tế. Chúng ta hãy chạy tới chỗ của mình bên cạnh Mẹ Maria và Gioan ở gần chân thập giá, ý thức thân phận con người mỏng dòn yếu đuối và tội lỗi của mình trước sứ mệnh cao cả của chức linh mục, trao phó cho Chúa những nỗi sợ hãi và do dự của chúng ta trước những khó khăn và gánh nặng của trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên, nhất là trong bối cảnh Giáo Hội và Xã hội Việt Nam hôm nay.
Là linh mục, chúng ta cũng trao phó cuộc đời chúng ta trong tay Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu Hy tế. Đó là một sức mạnh bao la cho thế giới. Sức mạnh đó được gìn giữ trong Giáo Hội bởi Bí tích Thánh Thể và mầu nhiệm thập giá. Chúng ta cử hành Thánh Lễ như một sức mạnh không thể cạn kiệt của tình yêu. Chúng ta trèo lên con đường thập giá đến tận đỉnh đồi Golgotha, kết hợp với Chúa Kitô toàn thể vừa với thập giá và mão gai trên đồi Golgotha, vừa với vinh quang trên núi Tabôrê và chiến thắng phục sinh vinh hiển, trên bản thân mỗi người chúng ta, như ĐTC Phanxicô trong buổi đi Đàng Thánh Giá với Giới Trẻ Thế Giới tại bãi biển Copacabana đã nói: “Không ai có thể tiếp cận và chạm vào Thánh Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính họ dưới chân Thánh Giá, và không mang lấy một cái gì đó của Thánh Giá Chúa Giêsu vào cuộc sống riêng của mình”[9]. Là linh mục, chúng ta phải luôn sống và làm chứng tá cho niềm tín thác ấy, tin tưởng Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta, luôn đứng bên thập giá của chúng ta và che chở chúng ta, dù có khi phải trả giá đắt bằng cả mạng sống: Hỏi rằng sao trả quá đắt, đồi cao thánh giá ai dắt ai dìu? – Dẫu rằng phải trả quá đắt, đồi cao thánh giá Mẹ dắt Mẹ dìu.
5. Sống yêu thương hiệp thông phẩm trật Hội Thánh
Do bí tích truyền chức và thừa tác vụ lãnh nhận, chúng ta liên kết và hiệp thông phẩm trật trước hết với Đức Thánh Cha và Giám mục đoàn phục vụ toàn thể Giáo Hội, nhất là với Giám Mục Bản Quyền của mình: “Không có thừa tác vụ linh mục ở ngoài sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn, đặc biệt với Giám mục giáo phận, trong lòng tôn kính như con thảo và sự tuân phục đã hứa khi thụ phong.”[10]
Tiếp đến, mối hiệp thông linh mục đoàn được thiết lập bởi đức ái tông đồ, thừa tác vụ và tình huynh đệ bí tích, diễn tả bằng việc đặt tay của linh mục đoàn trong nghi lễ truyền chức và việc nhập tịch hay nhập vụ vào một Giáo hội địa phương.[11] Chúng ta nhắc lại lần nữa: Sắc lệnh Chức vụ và Đời sống linh mục đã mô tả mối hiệp thông đó bằng những lời lẽ thắm tình rằng “Các linh mục nhiều tuổi hãy đón nhận những linh mục trẻ như những người em thực sự, giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ linh mục; gắng hiểu tâm trạng của họ và theo dõi các dự tính của họ với thiện chí. Còn các linh mục trẻ phải biết kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các vị lớn tuổi; bàn hỏi với các ngài và sẵn lòng cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc các linh hồn.”[12]
Trong sứ điệp gửi Dân Chúa, THĐGMTG kỳ XIII cũng ân cần nhắc các linh mục về mối hiệp thông này: “Trong giáo xứ, sứ vụ của linh mục như người cha và mục tử của dân Chúa vẫn có tính chất chủ yếu. Các Giám Mục tại THĐGM này bày tỏ với tất cả các linh mục lòng biết ơn và sự gần gũi huynh đệ vì công việc không dễ dàng của các vị và mời gọi các linh mục hãy củng cố chặt chẽ hơn mối liên hệ trong hàng linh mục giáo phận, đào sâu đời sống thiêng liêng và thực hiện việc thường huấn để có thể đương đầu với những thay đổi.”[13]
Là linh mục giáo phận, chúng ta còn sống hiệp thông với giáo dân, tu sĩ, những người sống đời thánh hiến, nỗ lực khơi dậy và phát triển sự đồng trách nhiệm trong cùng một sứ mạng cứu độ duy nhất của Giáo Hội.[14] Sắc lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục nhắc nhớ rằng mọi tín hữu đều phải cùng nhau làm việc cho Nước Chúa, trong đó linh mục nhìn nhận và thăng tiến phẩm giá cùng sứ vụ của giáo dân, sẵn sàng lắng nghe giáo dân, coi trọng những ước vọng của giáo dân, nhìn nhận kinh nghiệm và chuyên môn của giáo dân trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân loại, tin tưởng vào phận vụ của giáo dân trong việc phục vụ Giáo Hội và Xã Hội, để giáo dân có đủ tự do và lãnh vực hoạt động, cũng như cơ hội thích hợp để gánh vác công việc theo sáng kiến của mình. Linh mục luôn cố gắng dẫn dắt giáo dân đi đến hiệp nhất, sự thật và công ích, hòa giải những khác biệt về tâm thức và trình độ, để không ai cảm thấy mình xa lạ ở trong cộng đồng Giáo Hội. Bên cạnh đó, Công Đồng Vaticanô II cũng mời gọi giáo dân nhận biết bổn phận đối với linh mục của mình, và bằng chia sẻ ân cần, tinh thần lẫn vật chất, kính trọng và dè dặt gìn giữ, bảo vệ, giúp đỡ, cầu nguyện, thương yêu và tận tâm cộng tác, ngõ hầu linh mục vượt qua được những khó khăn, giới hạn và yếu đuối nhân loại của mình mà chu toàn sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và điều khiển Dân Chúa cách hiệu quả.[15] Ngoài ra, mỗi linh mục còn cố gắng tiếp tay với Chúa Thánh Thần để khơi dậy ơn gọi linh mục tiếp nối thừa tác vụ của mình.[16]
Cùng chiều hướng này, ĐTC Biển Đức XVI đề cao tinh thần đồng trách nhiệm: “Tinh thần đồng trách nhiệm đòi phải thay đổi não trạng, nhất là về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội: không được coi giáo dân chỉ là những cộng tác viên của hàng giáo sĩ, nhưng như những người thực sự đồng trách nhiệm đối với cuộc sống và hoạt động của Giáo Hội. Vì thế, điều quan trọng là phải củng cố một hàng giáo dân trưởng thành và dấn thân, có khả năng đóng góp phần đặc thù của mình cho sứ mạng của Giáo Hội, trong niềm tôn trọng các thừa tác vụ và nghĩa vụ của mỗi người trong đời sống Giáo Hội và luôn luôn hiệp thông với các Giám Mục… Hãy đảm nhận và chia sẻ những chọn lựa mục vụ của các giáo dân và giáo xứ, tạo những cơ hội gặp gỡ và cộng tác chân thành với các thành phần khác trong Giáo Hội, kiến tạo những quan hệ quí mến và hiệp thông với các linh mục, để họp thành một cộng đồng sinh động, phục vụ và truyền giáo.”[17]
Trong mọi mối tương quan của linh mục, đặc biệt trong các mối tương quan khác phái, ai cũng có thể bị “vi-rút” tình cảm và tình dục tấn công. Vấn đề là cần có sức đề kháng tốt để tránh bị nhiễm bệnh. Sức đề kháng đó nằm ở chính sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, tình huynh đệ bí tích của linh mục với nhau và sự kiên trì chu toàn bổn phận theo đấng bậc của mình cho các linh hồn được giao phó. Chân phước viện phụ Enrêđi đã nhắc đến tình bạn cao quí của Gionathan và Đavít: “Thế mới là tình bằng hữu chân thật, hoàn hảo, vững bền và vĩnh viễn: ghen tương không thể hủy hoại, nghi ngờ không làm suy giảm, tham vọng không hề phá tan. Bị thử thách đến vậy mà vẫn không nao núng, bị xô đẩy đến thế mà vẫn không ngã quỵ, bị nguyền rủa thế nào cũng không lay, bị lăng mạ ra sao cũng không chuyển.”[18] Quả thật, khi linh mục thực sự yêu thương nhau, ai cũng thỏa mãn được nhu cầu tâm lý căn bản tự nhiên yêu và được yêu của con người, thì chẳng ai thèm đi tìm bù trừ hay đón nhận một tình cảm nào khác.
Mối hiệp thông đó càng được củng cố bền chặt khi có đức mến, mà thánh Phaolô coi là con đường trổi vượt hơn cả:[19] “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”[20]. Và ngài còn khuyên: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau”[21].
Nói tóm lại là sự yêu thương hiệp thông bên trong Giáo Hội là dấu chỉ cần thiết và thuyết phục hơn bao giờ cả trong sứ mệnh Tân Phúc Âm hóa, để thế gian nhận biết “xem kìa, họ thương yêu nhau là dường nào” và người ta sẽ gia nhập cộng đoàn Giáo Hội và trở lại với Chúa. Sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần nhờ Chúa Giêsu để đem mọi danh dự và vinh quang dâng về cho Chúa Cha toàn năng như Giáo Hội hằng tuyên xưng trong mọi thánh lễ: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời – Amen.”
6. Phương tiện: Các phép Bí tích, đặc biệt Bí tích Hòa giải và Thánh Thể
Con xin được thông qua vì đã nói đến cách nào đó trong các bài chia sẻ, nhất là khi nói đến Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể.
7. Linh mục luôn nghĩ đến trách nhiệm lo cho các linh hồn
Căn bản ơn gọi chúng ta là làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Thánh Irênê nối kết trong khẳng định “Homo vivens Gloria Dei, con người được cứu độ là Thiên Chúa được vinh quang.” Vì thế, cha thánh Gioan Bosco tuyên bố: “Xin cho tôi các linh hồn, còn mọi sự khác cứ lấy đi.” Nếu cuộc sống chúng ta chỉ có mục đích duy nhất là làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn thì có gì làm lung lạc chúng ta được? Quả thế, “Trong mầu nhiệm các thánh thông công, các tín hữu – những người đã về quê trời, những người còn đền tội nơi luyện ngục và những người đang lữ hành trên trần gian này- tất cả liên kết với nhau trong tình yêu bền vững và chia sẻ với nhau những điều thiện hảo[22]. Trong sự hiệp thông kỳ diệu này, sự thánh thiện của người này ảnh hưởng trên người khác vượt xa thiệt hại do tội lỗi của một người có thể gây ra cho người khác[23].
Đới với người còn sống, chúng ta chăm lo cho họ với nỗi bận tâm ray rứt hằng ngày của thánh Phaolô là lo cho tất cả các Hội Thánh[24] và như thánh Phêrô khuyến cáo: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát”[25].
- Lúc họ mới mở mắt chào đời, ta dùng bí tích Thánh Tẩy cho họ gia nhập Giáo Hội và trở nên con cái Thiên Chúa.
- Khi họ vừa có đủ trí khôn, ta chuẩn bị cho họ Rước Lễ Lần Đầu, được Mình Máu Thánh Chúa Giêsu làm lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng linh hồn.
- Khi họ yếu đuối sa ngã phạm tội, ta dùng Bí tích Giải Tội tha các tội trọng trả lại ơn thánh hóa và sự sống Chúa Ba Ngôi, cũng như tha các tội nhẹ hầu được thêm nhiều ơn trợ giúp để sống đẹp lòng Chúa.
- Khi họ lớn khôn hơn, ta lo liệu cho họ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức để trở nên chiến sĩ Chúa Kitô, rao giảng và làm chứng tá cho Tin Mừng.
- Khi họ chuẩn bị bước vào đời, ta trang bị cho họ vốn giáo lý đức tin vững chắc hơn qua việc Rước Lễ Trọng Thể.
- Khi họ đủ lớn đứng trước ngã ba đường đời, ta ân cần hướng dẫn họ hoặc chọn lựa đời sống hôn nhân, hoặc chọn lựa đời sống thánh hiến. Nếu họ chọn ơn gọi hôn nhân, ta dùng Bí tích Hôn Phối kết hợp đôi nam nữ nên vợ chồng cộng tác với Thiên Chúa tiếp tục sinh tạo nên những công dân mới của Nước Trời, cũng như của quê hương trần thế; còn nếu họ chọn sống đời thánh hiến, ta dẫn dắt họ những bước đầu tiên và tận tình cộng tác với Chủng viện và Nhà Dòng để đào tạo họ nên linh mục hay tu sĩ qua Bí tích Truyền Chức Thánh và Nghi Lễ Khấn Dòng để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô ở giữa trần gian.
- Khi họ gặp nghi nan, hoang mang lo lắng và tăm tối đức tin, hoặc những vấn đề thử thách nan giải trong cuộc sống tình cảm, tình yêu, gia đình, cũng như những lầm lạc yếu đuối và các vấn đề rối rắm phức tạp trong cuộc sống, ta ân cần tiếp đón, đồng hành, lắng nghe, tư vấn, soi sáng, hướng dẫn, an ủi, nâng đỡ, tiếp thêm sức mạnh niềm tin, hy vọng và tình yêu mến cho họ vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
- Khi họ già cả yếu đau bệnh tật hay gặp rủi ro tai nạn, ta vội chạy đến ngay ban Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân và trao Mình Thánh Chúa như Của Ăn Đàng tăng thêm sức mạnh thiêng liêng cho họ đủ khả năng chiến đấu chống lại ma quỉ đang dành giật hầu luôn trung thành với Chúa.
- Và khi đến giờ Chúa gọi họ ra khỏi đời này về với Chúa, ta chúc lành cho họ trong giờ hấp hối, dâng thánh lễ An táng cầu nguyện và đưa tiễn họ đến mộ phần an nghỉ, chờ ngày được phục sinh với Chúa.
- Rồi khi mọi người hầu như quên họ trong cõi chết, kể cả những người thân yêu của họ nữa, ta hằng nhớ cầu nguyện cho họ trong thánh lễ cầu hồn, cũng như trong mọi thánh lễ mỗi ngày.Trong trách nhiệm của linh mục đối người còn sống, còn có một việc mục vụ rất thời sự và rất quan trọng, đó là mục vụ di dân vì nhiều lý do, nhất là vì sinh kế và học hành. Chúng ta phải giữ liên lạc đồng hành với con cái chúng ta để giúp họ duy trì, sống chứng tá đức tin và rao truyền Tin Mừng trong các môi trường mới của họ. Chúng ta cũng lưu ý và mời gọi giáo dân đón nhận nâng đỡ những anh chị em di dân đến nhập cư vào giáo xứ chúng ta. Trong hoàn cảnh nhiều người phải di dân và di cư hiện nay trên thế giới, ĐTC Biển Đức XVI coi hiện tượng này là một dịp may Chúa gởi đến để rao giảng Tin Mừng cho thế giới hôm nay… Chính di dân đóng vai trò đặc biệt trong công tác này, vì họ góp phần trở nên “sứ giả của Lời Chúa và chứng nhân của Đức Giêsu Phục Sinh, niềm hy vọng của thế giới.”[26]
Sau đây là ít chứng từ nói lên niềm vui, sức mạnh và bí quyết trung thành của đời linh mục chúng ta, qua việc chăm sóc người bệnh và hấp hối. Là linh mục, chúng ta đem đến cho họ mầu nhiệm khổ nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, nhờ đó mà đau khổ của họ được biến đổi và mang ý nghĩa cứu độ. Đối lại, đức tin của người bệnh và người hấp hối có thể là suối nguồn sức mạnh và niềm vui lớn lao cho chúng ta. Một linh mục kể lại kinh nghiệm bản thân: “Tôi nhớ lại lần đầu tiên thi hành sứ vụ cho một người hấp hối. Một người cha gia đình bị tai nạn nặng không thể qua khỏi. Tình trạng càng tồi tệ hơn nữa là vợ ông, một người mẹ của bốn đứa con, lại đang bị ung thư giai đoạn cuối. Người ta nghĩ là người cha gia đình ấy sẽ phản ứng giận dữ và tuyệt vọng. Trái lại, ông tỏ ra chấp nhận thánh ý Chúa với đức tin trọn hảo. Ông không chút nghi ngờ hay than phiền Chúa. Tôi giải tội, xức dầu và trao Của Ăn Đàng cho ông, rồi tiếp tục cầu nguyện với ông hầu như tới lúc ông chết. Thật là đặc ân cho tôi được dự vào cái chết của một người đàn ông thánh thiện như thế. Vui biết bao khi được hành động nhân danh Chúa Giêsu trong những giờ quan trọng sau cùng của đời người”.
Trong đời linh mục của mình, nhiều lần con đã đứng bên cạnh giường chết của các cha già, (trong đó có cha chú và cha bác của con) và đã thấy cùng một sự nhẫn nhục, tin tưởng và bình an đó. Rồi một lần kia, con thăm một linh mục đang chết dần vì ung thư. Rõ ràng cơn bệnh đã tàn phá thân thể ngài và ngài phải đau đớn lắm. Nhưng ngài không nói gì về bệnh hoạn của mình, mà coi như đó là lẽ đương nhiên. Trái lại, ngài nói với niềm vui mừng lớn lao là hôm đó đúng ngày kỷ niệm chịu chức của ngài! Ngài nói về tình yêu sâu xa của ngài đối với đời linh mục, và nhìn cái chết của ngài trong chiều hướng hy tế. Ngài đã cảm nhận được niềm vui bừng cháy khi thập giá được ôm ẳm với tình yêu trung thành nhất. Chắc nhiều người trong chúng ta cũng cảm phục và hiểu được niềm vui sâu xa của các cha già đã trải qua cả cuộc đời làm việc vất vả trong vườn nho Chúa. Các ngài đau đớn vì bệnh tật và sức khỏe suy giảm, nhưng tình yêu đối với chức linh mục không bớt đi, mà trái lại càng lớn lên. Trong buổi hoàng hôn của cuộc đời mình, các ngài nếm được niềm vui của ông già Simêon được bồng ẳm Chúa Giêsu trong cánh tay cằn cỗi của mình, khi biết được đến lúc mình được bình an ra đi về nhà Cha.
Vào ngày chịu chức linh mục, có ai trong chúng ta đã dự đoán được Chúa và Giáo Hội đòi hỏi chúng ta cái gì đâu? Có ai trong chúng ta dự đoán ra những con đường Chúa đòi chúng ta phục vụ? Nếu Chúa đã mạc khải trước cho chúng ta dòng đời chúng ta phải trải qua, có lẽ chúng ta đã bị chao đảo và không dám tuyên bố “Này con đây”! Nhưng trong sự khôn ngoan của Ngài, Chúa đã chọn một đường lối sư phạm khác. Ngài mạc khải tình yêu của Ngài cho chúng ta dần dần ngày qua ngày, khi chúng ta cử hành các mầu nhiệm cứu độ, khi chúng ta rao giảng Lời Chúa, khi chúng ta đến cầu nguyện trước mặt Ngài. Ngài đã thực sự ban cho chúng ta sức mạnh, niềm vui để theo Ngài mà chẳng ai có thể lấy đi được.
Còn đối với người đã qua đời, chúng ta biết rằng các linh hồn trong luyện ngục may mắn không làm chi thêm tội, chỉ phải lo đền trả theo lẽ công bằng cho đến đồng xu cuối cùng[27], và họ cũng chẳng làm được chi thêm công phúc cho mình, chỉ trông nhờ vào lời cầu bàu của các thánh trên trời và sự giúp đỡ của người còn sống, nên tích cực cầu nguyện cho người qua đời là bổn phận đức ái không thể thiếu, vì nay người mai ta mà thôi. Chúng ta được dạy cho biết rằng các linh hồn trong luyện ngục phải trải qua những khổ đau dữ dội chẳng khác gì đau khổ trong hoả ngục, chỉ khác là đau khổ trong luyện ngục có thời hạn và còn hy vọng được nhìn thấy Chúa, còn đau khổ trong hoả ngục là vô tận và sẽ không bao giờ được nhìn thấy mặt Chúa nữa.
Chúng ta không chỉ nhớ đến các thân nhân và ân nhân đã sinh thành dưỡng dục mình nên người về phần xác, mà còn phải nhớ đến các đấng sinh thành nuôi dưỡng cùng đào tạo mình trong đức tin và đời sống ơn gọi làm linh mục của Chúa nữa. Chúng ta nhớ đến mọi người đã chết, nhất là các linh hồn mồ côi không được ai nhớ đến để cầu nguyện cho, dù lắm khi người thân của họ còn sống đầy dẫy ra đó. Chúng ta cũng không được quên những người mình có liên đới trách nhiệm, những người vì sự thiếu sót, lầm lỗi hay gương mù gương xấu của chúng ta mà giờ đây đang phải đau khổ trong lửa luyện ngục để cầu nguyện cho họ và đền tội mình theo lẽ công bằng. Nên nhớ chúng ta không lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục một mình, mà còn kéo theo nhiều người khác nữa, nhất là những người được trao phó cho sự chăm sóc mục vụ của chúng ta.
Việc làm này không những lợi ích cho các linh hồn mà còn cho chính cuộc sống đời đời của chúng ta nữa, vì nó nhắc nhở chúng ta thức tỉnh nhìn lại cuộc sống của chính bản thân mình: không xa nữa đâu, không ai biết được lúc nào Chúa vạch đường ranh giới chấm dứt cuộc đời mình, phải đến trước toà phán xét của Thiên Chúa và trả lời Ngài về tất cả những gì đã làm khi còn sống, nhớ tới nỗi lo sợ hư mất của thánh Phaolô: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” [28]. Cuộc sống hiện tại rất ngắn ngủi so với cuộc sống đời đời, nhưng chính cuộc sống ngắn ngủi này lại quyết định số phận vô tận đằng sau cái chết và mời gọi chúng ta thức tỉnh ngay từ lúc này. Chúa Giêsu hằng nhắc nhở phải luôn sẵn sàng cho giờ từ giã cõi đời này để buớc vào sự sống đời sau.
Ngoài việc hy sinh hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta phải ý thức và tập thói quen xin lễ và dâng lễ cầu nguyện cho chính mình nữa. Thỉnh thoảng cũng hãy nhớ xin lễ và dâng lễ bù vào các lễ thiếu sót mình có thể mắc phải vì quên hay không giữ đúng lời hứa, bổn phận và trách nhiệm của mình. Đó cũng là một nghĩa vụ công bằng phải đền trả ở đời này hoặc đời sau. Làm linh mục nhưng vẫn không thôi là con người yếu đuối, chúng ta phạm đến Chúa nhiều cách, nếu biết đền bù bằng việc lành phúc đức, từ thiện bác ái, nhất là nhờ công nghiệp Chúa Giêsu qua thánh lễ thì tội nợ chúng ta được tẩy xóa, chứ chờ đến trước tòa án mới xin đền thì hình phạt lại thêm nặng. Thánh Anselmô dạy rằng sốt sắng dâng một Thánh lễ cho mình khi còn sống lợi ích hơn cả ngàn Thánh lễ khi đã qua đời. Chính Chúa Giêsu cũng dạy “Hãy làm việc khi trời còn sáng, tối rồi ai thấy đường đâu mà làm.”
Một việc bổn phận chuẩn bị ngày lìa thế khôn ngoan linh mục không thể thiếu là viết chúc thư, “một nghĩa vụ liên hệ đến đức công bằng và khó nghèo.” Nên để lại tài sản cho người nghèo, tốt hơn là giao phó cho Thẩm quyền Giáo Hội trực tiếp của mình, không những tài sản vật chất và tinh thần để mưu ích cho các linh hồn, mà còn cả những gì liên quan đến thân xác chúng ta sau khi chết nữa. Phải gửi cho Tòa Giám Mục một bản chúc thư và cất giữ cẩn thận để được an tâm khi còn sống và việc thực hiện di chúc sẽ được nhẹ nhàng tốt đẹp khi đã qua đời.
8. Năng nghĩ đến cái chết và giờ chết của chính mình
Không có gì chắc chắn sẽ đến như cái chết; không có gì công bằng và nghiêm ngặt cho bằng cuộc phán xét chung thẩm; không có gì cay đắng và khủng khiếp cho bằng hỏa ngục; và không có gì dịu ngọt hạnh phúc cho bằng thiên đàng.
Con người là con vật duy nhất biết mình sẽ chết. Nhưng cái biết này vẫn còn là lý thuyết xa lạ, nhất là đối với người trẻ, đang khoẻ mạnh, đang thành công, tương lai đang hứa hẹn và cuộc đời đang mỉm cười với. Chỉ khi nào vấp phải một chứng bệnh nan trị, khi y học khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của mình và buộc lòng phải tàn nhẫn tuyên bố bản án tử, thì khi đó sự biết mình sắp chết mới trở nên gần gũi thiết thân, hay nhức nhối khổ đau. Vì vậy, thánh Augustinô bảo: “Hãy để cái chết làm thầy dạy cho chúng ta” con đường sống thánh. Nếu hôm nay là ngày cuối cùng của đời mình, liệu ta có muốn làm những việc sắp làm mà lương tâm ta sẽ ân hận không? Nhớ một ngày nào đó gần thôi mình sẽ chết là bí quyết rất quan trọng giúp ta quyết định chọn cái vĩnh cửu tồn tại, vì mọi thứ đều phù phiếm trước cái chết. Không ai biết được lúc nào Chúa vạch đường ranh giới chấm dứt cuộc đời mình: luôn nhớ mình sẽ chết là cách tốt nhất để cho lòng ta được thanh thoát đi theo tiếng gọi của Chúa, không để những ý kiến ồn ào xung quanh đánh chìm tiếng nói của Chúa ở bên trong, hầu sẵn sàng đi theo tiếng gọi của lương tâm và lời thúc giục của Chúa Thánh Thần. Các bậc thánh hiền dạy hãy năng nghĩ đến cái chết, vì nó giúp ta sống một cuộc đời tốt lành thánh thiện hơn, nỗ lực chuẩn bị tâm hồn để ra đi trong bình an về với Chúa. Có vị còn để chiếc quan tài gỗ nhỏ luôn trước mặt để nhắc nhở về cái chết và giờ chết của chính mình.
Là linh mục, chúng ta đã chứng kiến bao nhiêu cái chết, hãy nhìn cái chết của mình với lòng trông cậy. Chúa luôn có mặt bên ta, đôi bàn tay sẽ choàng xuống ôm chặt ta vào lòng. Hãy năng nghĩ đến và dâng trước cho Chúa giờ chết của ta kết hiệp với cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, nhờ đó ta sẽ triệt để đáp lại tình yêu Chúa cách chân thật, trọn vẹn và chung thủy. ĐTC Phanxicô nói rằng “nếu chúng ta sống kết hợp với Chúa Giêsu, trung thành với Người, chúng ta sẽ có thể đối diện cái chết với niềm hy vọng và sự thanh nhàn… Cuộc đời dưới thế này được ban cho chúng ta để chuẩn bị cho đời sau, là đời sống với Cha trên trời. Và vì thế, cách chắc chắn chuẩn bị tốt cho cái chết là bằng cách gần gũi Chúa Giêsu”[29]. Chớ gì ta cũng xác tín được như thánh Phaolô: “Đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”[30] Và như cụ già Simêôn: “Giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”[31].
Kính thưa Quý Cha,
Sống với Chúa Giêsu Thánh Thể và Mẹ Maria qua con đường thập giá, buông mình theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, siêng năng lãnh nhận và ban phát các Bí tích, sống mối hiệp thông yêu thương huynh đệ với mọi thành phần Dân Chúa, đặc biệt với Giám Mục Bản Quyền và linh mục đoàn giáo phận, luôn nghĩ đến trách nhiệm đối với các linh hồn được giao phó, năng nghĩ đến cái chết và giờ chết của chính mình là bí quyết trung tín và thành công trong sứ vụ và đời sống linh mục chúng ta. Con xin cám ơn Quí Cha đã chịu khó lắng nghe trong suốt hơn bốn ngày qua, dù có khi phải nghe những điều khó chịu. Nhờ Mẹ Maria Lavang cầu bàu, xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến hoàn thành tất cả những gì Ngài đã thương khởi sự với chúng ta và cho chúng ta. Amen.
Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss
[1] Câu chuyện “Cưa bớt thập giá”.
[2] Mt 16,24.
[3] Lc 24,39.
[4] Ga 20, 24-29.
[5] x. Mt 16,23.
[6] x.1Cr.1,18.
[7] Gl 6, 14.
[8] x. Ga 3,16.
[10] PDV. 28; LG. 28; PO 7,15; GL 245,2.
[11] Chỉ Nam 1994 số 25-29.
[12] Vat. II, Presbyterorum Ordinis, số 8.
[13] Sứ điệp THĐGMTG kỳ XIII số 8.
[14] Chỉ Nam 1994 số 30-31; Công nghị giáo phận Rôma 26-29/5/2009: Mọi thành viên Giáo hội và sự đồng trách nhiệm mục vụ.”
[15] x. Sắc lệnh Chức Vụ và đời sống linh mục, số 9.
[16] Chỉ Nam 1994, số 32.
[17] Trích Sứ điệp ĐTC Biển Đức XVI gửi Diễn Đàn Quốc Tế của Phong Trào Công giáo Tiến Hành họp Đại hội tại Rumani ngày 22-26/8/2012.
[18] x. 1 Sm 19,8-10; 20,1-17; bài đọc Kinh sách tập 3, tr.341-342.
[19] 1 Cr 12,31.
[20] 1 Cr 13, 4-7.
[21] Ep 4,2-3.
[22] x. Phaolô VI, Tông hiến Giáo lý về lòng khoan dung số 5.
[23] x. GLGHCG số 1475.
[24] 2 Cr 11,28.
[25] 1 Pr 5, 2-4.
[26] Trích Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cho ngày Thế giới Di dân và Di cư năm 2012 “Di dân và Tân Phúc âm hóa ” ban hành tại Rôma ngày 21/9/2011.
[27] x. Lc 12, 59.
[28] 1Cr 9,27.
[29] Trích bài giáo lý ngày 27/11/2013 của ĐTC Phanxicô.
[30] 2 Tm 4,6-8.
[31] Lc 2, 29-31.
Trackback from your site.
Bài viết cùng chủ đề
- VIDEO BÀI CA QUAM PULCHRE GRADITUR (Tiếng Việt)
- “HÃY ĐẾN TẤT CẢ CÁC NHÀ TÙ”
- BAN BÁC ÁI HỘI DÒNG KHIẾT TÂM ĐỨC MẸ TRAO HỌC BỔNG CHO 57 HỌC SINH – SINH VIÊN CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN
- NGUỒN GỐC LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ VÀ LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
- THƯỢNG HỘI ĐỒNG BẮT ĐẦU GIAI ĐOẠN CUỐI CÙNG
- TẠI SAO CHA MATTHIEU JASSERON, NGÔI SAO TIKTOK, THÔNG BÁO “RÚT” KHỎI CHỨC LINH MỤC ?
- THƯỢNG HỘI ĐỒNG: NHIỀU ĐÓNG GÓP VỀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC NHAU CỦA GIÁO HỘI
- THƯ CỦA ĐỨC PHANXICÔ GỞI CÁC TÂN HỒNG Y
- BÀI PHÁT BIỂU CỦA ĐỨC PHANXICÔ VỚI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC, PHÓ TẾ, TU SĨ, CHỦNG SINH VÀ CÁC NHÂN VIÊN MỤC VỤ
- ĐỨC PHANXICÔ NÓI VỚI GIÁO HỘI BỈ: “KHÔNG CÓ CHÚA THÁNH THẦN, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KITÔ GIÁO XẢY ĐẾN CẢ”
- AD EXTRA, LÀM THẾ NÀO BIẾT TIN TỨC VÀ SUY TƯ VỀ SỨ MẠNG Ở CHÂU Á MỘT CÁCH SÂU XA HƠN
- ĐỨC PHANXICÔ TIẾP TỤC HƯỚNG VỀ NGƯỜI DÂN VIỆT NAM ĐANG ĐAU KHỔ VÌ BÃO LŨ
- CUỘC GẶP GỠ VỚI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC, PHÓ TẾ, NHỮNG NGƯỜI SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN, CHỦNG SINH VÀ GIÁO LÝ VIÊN
- ĐỨC PHANXICÔ KÊU GỌI TRỞ THÀNH VÀ LAN TỎA HƯƠNG THƠM CỦA TIN MỪNG
- 62 LINH MỤC LỚN TUỔI BỊ LỪA GẠT: MỘT VỤ “LỪA ĐẢO TỪ THIỆN” PHI THƯỜNG TRƯỚC TÒA ÁN
- TẠI JAKARTA, ĐỨC PHANXICÔ CẢM ƠN CÁC GIÁO LÝ VIÊN: “CÁC CON LÀ SỨC MẠNH CỦA GIÁO HỘI”
- ĐỨC PHANXICÔ KHUYẾN KHÍCH GIÁO HỘI INDONESIA SỐNG TÌNH HUYNH ĐỆ VÀ LÒNG TRẮC ẨN
- NGÀY 1 THÁNG CHÍN: NGÀY TÔN VINH QUYẾT ĐỊNH TẠO DỰNG CỦA THIÊN CHÚA
- SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO TẠI CHÂU Á, MỘT CUỘC HỘI NHẬP VĂN HÓA THEO BƯỚC CHÂN CỦA CÁC CHỨNG NHÂN VĨ ĐẠI CỦA ĐỨC TIN
- GIÁO PHẬN HUẾ: LỄ ĐỨC MẸ LA VANG, BỔN MẠNG GIÁO PHẬN