TRAO BAN SỰ SỐNG

Written by xbvn on Tháng Mười Một 10th, 2020. Posted in Lm Võ Xuân Tiến, Luân lý, Tý Linh, Đạo đức sinh học

LTS. Bài này nằm trong khóa học về Luân lý hôn nhân và gia đình, được Cha Luc Crépy (nay là Giám mục) biên soạn và giảng dạy tại Chủng viện Orléans, Pháp. Chúng tôi đã chuyển ngữ và cập nhật thêm để đưa vào khóa học về Luân lý hôn nhân và gia đình tại Đại Chủng viện Huế từ nhiều năm nay. Hôm nay, chúng tôi phổ biến cho công chúng để giúp mọi người, nhất là người Công giáo, hiểu quan điểm Công giáo về các vấn đề ngừa thai và phá thai.

———–

Trao ban sự sống – và nuôi dưỡng và giáo dục con cái – là một chiều kích thiết yếu của hôn nhân. Chúng ta đã bàn nhiều đến vấn đề các thiện ích và cứu cánh của hôn nhân, mối tương quan giữa tình yêu đôi lứa và việc sinh sản  con cái, phối hợp và sinh sản. Tất cả nằm trong ơn gọi hôn nhân và gia đình, ơn gọi nên thánh. Ở đây, chúng ta dừng lại đào sâu vấn đề điều hòa sinh sản và phá thai.

Vấn đề điều hòa sinh sản mang một tầm mức rộng lớn vào những năm 1960 với sự phát triển và phổ biến các kỹ thuật ngừa thai. Sự xuất hiện của thông điệp Humanae vitae vào năm 1968 đã làm dấy lại cuộc tranh luận quan trọng trong Giáo Hội (và trong xã hội) về tình dục và ý nghĩa của nó trong đời sống đôi lứa. Thêm vào đó là vấn đề phá thai không còn bị trừng phạt và thậm chí được hợp pháp hóa bởi luật pháp. Tất cả những chủ đề này liên quan đến các lãnh vực quan trọng nhân chủng học, thần học và tu đức, thường gây xung đột và sự thiếu hiểu biết nhau giữa những người đối thoại.

I. Điều hòa sinh sản

  1. Một cái nhìn lịch sử vắn tắt

Vấn đề điều hòa sinh sản cần được đặt vào trong những vấn đề liên quan khác như quan niệm về tính dục, dục vọng, hôn nhân trong lịch sử và trong Kitô giáo. Trong các thế kỷ, nếu các phương pháp điều hòa sinh sản đã được biết đến, thì việc thực hành nó đã thay đổi theo môi trường và thời đại. Tuy nhiên, chính sự xuất hiện các phương pháp hiện đại liên quan đến ngừa thai và phổ biến chúng trong xã hội đã đặt ra vấn đền ngừa thai cách mới mẻ và triệt để hơn, vấn đề mà Humanae vitae đã trả lời.

Các phương pháp ngừa thai được biết đến từ thời Cổ đại, trước kỷ nguyên Kitô giáo trong nhiều nền văn minh. Trong nền văn hóa Hy-La thời đầu Kitô giáo, nếu đế chế Rôma khuyến khích việc sinh sản, thì các phương pháp ngừa thai vẫn được sử dụng :phương pháp giao hợp nửa chừng, thuốc nước, thuốc bôi dẻo cho các cơ quan sinh dục, thuốc diệt tinh trùng, sử dụng các thời gian không sinh sản, bao bảo vệ…Tuy nhiên, thật khó để xác định trong chừng mực nào việc ngừa thai đã được thực hành vào thời này.

Vấn đề điều hòa sinh sản không được đề cập trực tiếp, trước tiên chính việc đương đầu với các trào lưu xung quanh (khắc kỷ, ngộ giáo…) mà thúc đẩy suy tư của các Giáo Phụ về ý nghĩa của tính dục. Một số bản văn của các Giáo Phụ biểu lộ sự khước từ những thực hành ngừa thai và nhất là phá thai. Nhấn mạnh đến chiều kích sinh sản trong quan hệ vợ chồng là một trong những lập luận thường được dùng để tố giác việc ngừa thai. Vấn đề các mục đích hôn nhân, và cách riêng mối liên kết và việc phẩm trật hóa giữa sinh sản và dục vọng, trong nhiều thế kỷ sẽ là khung suy tư trong đó suy tư về ngừa thai được đặt ra.

Vào năm 1924, Ogino cho thấy sự tồn tại những chu kỳ khả năng sinh sản tự nhiên nơi người nữ và những hệ quả quan trọng có thể được rút ra từ đó về việc điều hòa sinh sản. Những hiểu biết y khoa này dẫn đến việc hệ thống hóa việc điều hòa sinh sản gọi là « tự nhiên ». Vào năm 1960, viên thuốc ngừa thai được bán ở Hoa Kỳ. Công đồng Vatican II bắt đầu nghiên cứu vấn đề nhưng Đức Phaolô VI đã dành riêng cho ngài vấn đề này và giao phó nó cho một ủy ban ngoài công đồng mà vào năm 1966 đệ trình cho ngài những kết luận của ủy ban. Ngày 29/7/1968, Đức Phaolô VI công bố thông điệp Humanae vitae. Tiếp theo sau, trong những văn kiện bàn cách riêng về hôn nhân và gia đình, huấn quyền sẽ tái khẳng định sự gắn bó của mình với các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên.

  1. Những phương pháp điều hòa sinh sản

Có những phương pháp ngừa thai khác nhau, một số rất xưa, số khác mới được y khoa khám phá gần đây. Ta có thể phân biệt :

a. Các phương pháp « truyền thống »

+ Giao hợp nửa chừng : rút dương vật ra vào lúc xuất tinh.

+ Bao cao su.

b. Các phương pháp tự nhiên

Chúng xác định thời gian có thể thụ thai (rụng trứng) của người nữ để đôi bạn kiêng nhịn tính dục vào thời gian này :

+ Phương pháp Ogino được xây dựng trên sự quan sát chu kỳ kinh nguyệt.

+ Phương pháp đo thân nhiệt dựa trên sự gia tăng nhiệt độ cơ thể của người nữ vào ngày rụng trứng.

+ Phương pháp Billings dựa trên sự quan sát chất nhờn ra ở cửa mình mà, vào thời gian có thể thụ thai, thay đổi trạng thái.

c. Các phương pháp hóa học

Hoặc là giết tinh trùng, hoặc là ngăn cản không cho chúng vào tử cung. Những chất giết tinh trùng này được giới thiệu dưới hình thức kem hay chất xốp.

d. Các phương pháp hóa sinh học

– Đó là những viên thuốc tác động cách khác nhau hoặc là trên sự rụng trứng, hoặc trên sự tiến triển của tinh trùng (hoạt động trên chất nhờn dạ con), hoặc trên màng nhầy của tử cung (làm tổ).

– Thuốc tiêm vào trong cơ ba tháng một lần.

e. Những thiết bị bên trong tử cung

– vòng tránh thai: được đặt bên trong tử cung, ngăn không cho tinh trùng xâm nhập và làm tổ.

– màng chắn ngừa thai (vành ngăn) đặt tại âm đạo.

Thêm vào những phương tiện ngừa thai này, có những phương tiện tuyệt sản với việc thắt vòi tử cung nơi người nữ và ống dẫn tinh nơi người nam.

Sau cùng phá thai cũng được dùng như phương thế ngừa thai với việc ngăn chặn mang thai (interruption volontaire de grossesse:IVG) và đặc biệt với phương pháp RU 486[1] (trước 10 tuần) trục bỏ phôi thai.

  1. Thông điệp Humanae vitae

Trong thông điệp này, Đức Phaolô VI bàn đến một điểm rõ ràng : điều hòa sinh sản. Nó có một tác động rất mạnh trong Giáo Hội và trong xã hội. Nó đã là đối tượng của nhiều tranh luận.

Chúng ta ghi nhận rằng ở điểm xuất phát, Đức Thánh Cha nói với toàn thể Giáo Hội và với những người thiện chí, nhấn mạnh rằng giáo huấn của Giáo Hội về luân lý có thể liên quan đến mọi người. Trong viễn ảnh này, người ta có thể hiểu vị trí và việc quy chiếu đến luật bản nhiên mà có thể nhận thấy trong bản văn này. Cách chung chung, thông điệp nằm trong sự năng động của đường hướng giáo huấn của công đồng về tình yêu vợ chồng, sinh sản và giáo dục con cái. Nếu huấn quyền can thiệp vào vấn đề này[2] (số 1), đó là bởi vì vấn điều hòa sinh sản liên quan đến một lãnh vực thiết yếu của sự sống con người, việc truyền sinh. Cũng trong chiều hướng đó, Đức Gioan-Phaolô II, trong F.C (số 32), sẽ nhấn mạnh vấn đề nhân chủng và luân lý của sự khác biệt giữa các phương pháp ngừa thai (tự nhiên và nhân tạo). Đức Phaolô VI cho thấy những hậu quả của một « não trạng ngừa thai », nó tầm thường hóa tính dục con người và đồng thời ngài cho thấy những nguy hiểm của các phương tiện kỹ thuật cho nhà nước nhưng phương tiện áp đặt lên cách vợ chồng những chính sách điều hòa sinh sản.

  1. Cẩm nang cho các cha giải tội về một số vấn đề luân lý gắn liền với đời sống hôn nhân

Tháng 2/1997, Hội đồng Tòa Thánh về Gia Đình giới thiệu một văn kiện – cẩm nang – dùng cho các cha giải tội về một số vấn đề luân lý liên quan đến đời sống hôn nhân. Trong mục đích giúp cho các cha giải tội hướng dẫn tốt hơn cho các đôi vợ chồng trẻ trong ơn gọi làm cha làm mẹ của họ, văn kiện này nhắc lại cho các cha giải tội những đường hướng lớn của giáo huấn của Giáo Hội liên quan đến đức khiết tịnh trong hôn nhân từ những bản văn huấn quyền của thế kỷ XX (từ Thông điệp Casti Connubii của Đức Piô XI đến « Thư gởi các gia đình » của Đức Gioan-Phaolô II ). Văn kiện này tóm tắt những quy luật luân lý lớn của Giáo Hội trong đời sống lứa đôi. Sau khi đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nên thánh trong đời sống hôn nhân đối với vợ chồng cũng như những đòi hỏi làm cha mẹ có trách nhiệm, cách riêng trong việc sử dụng hợp pháp các phương pháp ‘tự nhiên’, những định hướng mục vụ được đưa ra liên quan đến thái độ của các cha giải tội phải có đối với các hối nhân về vấn đề sinh sản trách nhiệm. Các ngài phải lưu tâm đến bốn khía cạnh (số 3, 1) : a) một thái độ nhân từ, b) sự cẩn trọng và khôn ngoan trong những vấn đề liên quan đến tội lỗi trong lãnh vực luân lý hôn nhân và gia đình này,  c) sự trợ giúp và khích lệ hối nhân để cho hối nhân có thể đạt tới sự hối lỗi đầy đủ và để hối nhân xưng các tội trọng của mình, d) những lời khuyên bảo cho phép hối nhân tiến bộ dần trên con đường nên thánh.

Trong hoàn cảnh của một hối nhân sử dụng biện pháp ngừa thai, cha giải tội được mời gọi cách khôn ngoan và thận trọng nhắc lại cho đương sự phẩm chất luân lý của hành vi này, tức là mâu thuẫn với bản chất của sự trao hiến toàn vẹn trong đời sống hôn nhân[3]. Tuy nhiên, « trên bình diện đức khiết tịnh hôn nhân, ta phải lưu tâm đến nguyên tắc luôn có giá trị, theo đó tốt hơn là nên để cho hối nhân sống theo ý ngay lành đối với những trường hợp mà sự sai lạc được quy trách cho sự sai lầm bất khả thắng, về phía chủ thể ; khi người ta thấy trước hối nhân, dù muốn sống đức tin, họ cũng không thay đổi cách sống và thậm chí đi đến chỗ phạm tội cách rõ ràng » (số 3,8). Thế nhưng, cha giải tội phải hết sức thức tỉnh lương tâm luân lý của các hối nhân. Trong viễn ảnh này, luật tiệm tiến – không phải là sự tiệm tiến của luật – hệ tại việc tìm kiếm một sự đoạn tuyệt dứt khoát với tội lỗi và một hành trình dần dần hướng đến việc tôn trọng những đòi hỏi được Giáo Hội đề nghị (số 3,9).

Cha giải tội cũng được mời gọi biểu lộ sự tin tưởng lớn lao vào ân sủng của bí tích và cả vào ý muốn ngay lành của hối nhân muốn chiến đấu chống lại tội lỗi liên quan đến đức khiết tịnh hôn nhân.

Cũng được đặt ra những trường hợp cụ thể mà chính người phối ngẫu làm cho hành vi phối hợp không sinh sản (3,13). Cách chung chung, các linh mục được mời gọi giải thích giáo huấn của Giáo Hội và cách riêng giúp cho hiểu biết các phương pháp tự nhiên. Điều quan trọng là lôi kéo sự chú ý đến tính nghiêm trọng luân lý của việc phá thai, được phân biệt với các hành vi ngừa thai.

II. Phá thai

Vấn đề phá thai là một vấn đề làm dấy lên nhiều phản ứng, vì nó chạm đến những vấn đề nghiêm trọng như nguồn gốc và tôn trọng sự sống, tình trạng của phôi thai, của đời sống vợ chồng… Từ những thế kỷ đầu tiên, Giáo Hội đã lên án việc phá thai và sự lên án này vẫn tiếp tục trong suốt dòng lịch sử, được tái khẳng định trong các văn bản gần đây của huấn quyền về luân lý hôn nhân và gia đình. Gần đây, nhiều nước không còn phạt tội phá thai và điều này đã khơi lại cuộc tranh luận, cách riêng về mối tương quan giữa luật pháp và luân lý. Đây là một vấn đề phức tạp, do đó cần lưu ý đến, một mặt, sự sống sơ sinh và quy chế của phôi người, và mặt khác, cần quan tâm đến người phụ nữ có thai, những điều kiện tâm lý, xã hội, kinh tế và văn hóa của họ và của xã hội nơi họ sống.

  1. Quy chế phôi người

1.1. Một vấn đề thời sự

Vấn đề quy chế phôi thai là một vấn đề khó khăn và là một vấn đề quan trọng hôm nay. Chỉ cần nêu dẫn vài ý tưởng:

+ Ở điểm xuất phát, vấn đề phôi liên quan đến nguồn gốc sự sống con người. Chạm đến nguồn gốc, đó cũng là chạm đến các chiều kích sâu xa của tâm lý con người, và điều đó không phải là không có hệ quả trên cách thức mà những vấn đề này đôi khi được đề  cập với…Hết thảy chúng ta đều đã trải qua giai đoạn phát triển này…

+ Sự phát triển việc nghiên cứu và các kỹ thuật sinh học và y khoa mà cho phép thực hiện những nghiên cứu rất tiến bộ về sinh vật hay những cơ chế tự nhiên (khả năng trồng các mô, những cơ quan trong ống nghiệm), có thể giúp vào việc chữa trị các bệnh như ung thư, Parkinson.

+ Trong viễn ảnh này, đã xuất hiện từ nhiều năm nay những kỹ thuật được gọi là Trợ giúp y tế sinh sản (Médicalement Assistées (P.M.A.)), tìm cách giải quyết những vấn đề vô sinh, nguồn đau khổ đối với nhiều đôi bạn.

Trong lãnh vực luân lý, vấn đề này nằm trong lãnh vực « đạo đức sinh học » chiếm một chỗ quan trọng trên các phương tiện truyền thông và thuộc phần những bận tâm của người thời nay. Tại sao ? X. Thévenot đưa ra ba lý do[4] :

  • Tính đa nguyên của các hành xử của người thời nay làm mất đi sự xác tín, nhất là về mặt luân lý : tính đa nguyên các lập trường luân lý cách riêng đối diện với những gì mà P.M.A mang lại, như chẳng hạn sự chiến thắng trên sự vô sinh.
  • Tính mới mẻ tận căn của các vấn đề : có khả năng làm mẹ thế, đông lạnh các phôi của riêng mình để cấy về sau, thụ tinh trong ống nghiệm : nhiều khả năng mới mẻ được khoa học vận dụng mà ít có chuẩn mực luân lý mà các thế hệ trước đưa ra. Từ đó sự mới mẻ của đạo đức sinh học.
  • Sự đau khổ : những khả năng mới do các kỹ thuật sinh học mở ra cho phép đến trợ giúp những đau khổ rất lớn như sự vô sinh, bệnh tật… Và đối diện với sự đau khổ này, các quy tắc hay chuẩn mực luân lý được cảm thấy như là giả tạo nếu không nói là phi nhân. Đạo đức sinh học chiếm những lãnh vực trong đó những người đau khổ rất nhiều… Làm thế nào, trong hoàn cảnh này, đề nghị một nền luân lý làm cho sống ?

1.2. Phôi người, giữa sự vật và nhân vị : khó khăn định nghĩa

Đâu là định nghĩa về phôi thai ? Xem tự điển (Le Petit Robert 2009), người ta có thể đọc thấy :

Phôi :  nơi con người, sản phẩm của sự phân cắt của trứng cho đến tuần thứ tám của sự phát triển trong tử cung (xem ‘bào thai’).

Bào thai : nơi loài người, sản phẩm của việc thụ thai từ tháng phát triển thứ ba trong tử cung. Trục xuất bào thai khỏi tử cung – phá thai).

Từ những định nghĩa đơn giản này, chúng ta ghi nhận sự thiếu rõ ràng việc phôi người được xem như là sản phẩm của một hoạt động – của một cơ chế sinh học – mà không nói sản phẩm này là gì. Đó là một định nghĩa thiếu đi chiều kích hữu thể nghiêm trọng !

Nếu muốn có một định nghĩa rõ ràng hơn và thuộc trật tự hữu thể hơn : phôi là một nhóm các tế bào phát xuất từ cùng một tế bào : trứng thụ tinh ; trứng này đến từ sự phối hợp hai tế bào của cha mẹ – giao tử – sau sự xâm nhập của tinh trùng vào trong noãn.

Hỏi về phôi dẫn đến xem xét các vấn đề gắn liền với bản chất của sự sống con người so với bản chất của các sinh vật khác. Từ đó đặt ra vấn đề : « Phôi người, giữa sự vật và nhân vị ? »

Đối với một số người, phôi, cho đến một giai đoạn nào đó, được coi như là một cục u của thân thể của cha mẹ, cách riêng của người mẹ. Quan điểm này càng ngày càng ít có giá trị và đứng vững, cách riêng với sự phát triển FIVETE (fécondation in vitroet transfert d’embryon) mà biểu lộ sự tự trị của phôi và đặt ra trách nhiệm của con người đối với thực tại này. Trong viễn ảnh này, các nhà nghiên cứu cho rằng nó hệ tại những tế bào không có vẻ bề ngoài con người, mà việc phân biệt đối với con người không thấy rõ và có thể là một chất liệu nghiên cứu tuyệt hảo để hiểu tốt hơn nhiều cơ chế căn bản của việc phân chia tế bào và có những hệ quả trong trọng trong việc chữa trị các bệnh nặng cho con người.

Đối với nhiều người khác, phôi người là một hữu thể thuộc loài người.  Nhưng từ ngữ này rõ ràng không đủ để mang lại cho nó một quy chế và để thiết lập một thái độ luân lý. Đối với một số người, phôi là một nhân vị từ khi thụ thai và do đó đáng được tôn trọng tuyệt đối. Đối với một số khác, phôi chỉ trở thanh một nhân vị hay ít ra đáng được tôn trọng như nhân vị kể từ bốn mươi ngày, giai đoạn mà phôi bắt đầu cá biệt hóa.

Đối với một số khác nữa, phôi sẽ trở thành một nhân vị nhưng vào thời điểm nào là không thể biết được. Dường như cần thiết suy nghĩ về thế nào là một nhân vị, điều gì làm cho một hữu thể thuộc loài người là một nhân vị ? Chúng ta ghi nhận rằng một câu hỏi như thế cũng được đặt ra cho cực kia của sự sống con người : cái gì làm cho một con người, trong tình trạng hôn mê bất khả hồi phục, được duy trì trong sự sống cách nhân tạo là một nhân vị hay không ? (vấn đề an tử). Ở đây, chúng ta đang ở trong những hoàn cảnh giới hạn mà những điểm mốc thông thường để định nghĩa một nhân vị dường như mờ nhạt đi : phải chăng đó là một tiêu chí sinh học (sự hiện diện hay sự vận hành của não), lời nói, tự do, khả năng bước vào tương quan ?…

1.3. Phải chăng phôi người là một nhân vị ?

Lý trí, xuyên qua những yếu tố ngoại hiện của khoa học hay của phân tích, có thể cho chúng ta một tiếp cận đầu tiên : nhân vị là một hữu thể mà có một thân xác hóa sinh học của loài người (điều này là quan trọng : một phôi người không phải là một phôi chuột… nó không thể bị đối xử như là một chất liệu thí nghiệm tầm thường). Nhân vị được đánh dấu bởi một bộ gien duy nhất, bởi một tính dục, trên bình diện sinh học từ khi thụ thai, trên bình diện tâm lý về sau trong một cuộc chơi tương quan với những người khác. Nhân vị là một thực tại bất khả phân chia,  làm tổn hại đến một phần thân thể là tổn hại đến nhân vị.

Những phẩm tính khác có thể xác định nhân vị. Nhân vị là một hữu thể biết nói, lời nói cho phép nó mang ý nghĩa cho cuộc sống của mình và cho thế giới, lời nói cho phép nó yêu thương. Lời này được thủ đắc dần dần từ nhỏ. Nhân vị trưởng thành có một ý thức suy tư, có khả năng chọn lựa và thực thi sự tự do của mình. Những khái niệm này thuộc trật tự triết học hay thần học. Khoa học không thể nói tất cả về nhân vị, nó là cần thiết nhưng không đủ để hạn chế phạm vi huyền nhiệm và phẩm giá của nhân vị.

Nắm bắt nhân vị là gì không chỉ ngang qua một tương quan khái niệm nhưng còn luân lý nữa. Một tương quan với một nhân vị không thể chỉ là tương quan ngoại tại tính – có thể quan sát như mô tả khoa học về một hiện tượng -, tương quan với nhân vị chạm đến người biết nói.

Về mặt thần học, con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa, điều đó là nền tảng của việc tôn trọng và phẩm giá của mọi nhân vị. Đối với Kitô hữu, mầu nhiệm con người được soi sáng bởi mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa trong Chúa Kitô.

Nếu tất cả những yếu tố này cho phép làm rõ thế nào là nhân vị và có thể xây dựng nền tảng cho những điểm tựa luân lý, thì thế nhưng, vẫn tồn tại những vấn đề khi đối diện với những hoàn cảnh hạn chế, trong đó con người không có hay không đáp ứng một số những yếu tố định nghĩa này. Nói cách khác, phải chăng cần phân biệt, một mặt, tình trạng phôi người và mặt khác tình trạng nhân vị trưởng thành ? Hay phải chăng phải kết luận sự tương tự của chúng ? Nói rằng phôi người là một nhân vị tỏ ra ít phù hợp với những tiêu chí được nêu. Nói rằng phôi người không có liên hệ gì đến một nhân vị, đó là quên rằng chúng ta hết thảy đã từng là một phôi người. Giai đoạn phôi của con người phải chăng nó có thể là đối tượng của một  sự tôn trọng chính đáng ? Việc tôn trọng nhân vị phải chăng nó không thể được mở rộng đến tôn trọng tất cả sự phát triển của nó ?

Về mặt thần học, những câu hỏi này đã trải qua trong tất cả suy tư của Giáo Hội : hành vi tạo dựng của Thiên Chúa có phải nằm ở thời điểm thụ thai ? Từ khi nào con người được hình thành theo hình ảnh của Thiên Chúa ? Trường hợp những phôi chết trước khi làm tổ, làm thế nào nói về ơn cứu độ cho hữu thể chết non này và đã không sử dụng tự do của mình ?

1.4. Quan điểm Công giáo : tôn trọng và đối xử phôi người như là một nhân vị từ lúc thụ thai

Hai bản văn quy chiếu tất cả những vấn đề này là Huấn thị của Bộ Giáo Lý Đức Tin « Donum vitae » (1983) về việc tôn trọng sự sống sơ sinh của con người và phẩm giá của việc sinh sản, và Huấn thị « Dignitas personae » (2008) về một số vấn đề luân lý sinh học.

Trong Donum vitae, quy chế phôi người không được định nghĩa về mặt khoa học lẫn triết học. Khi nhắc lại rằng việc cá vị hóa diễn ra từ lúc thụ thai (I,1), Huấn thị nói rõ rằng « Huấn quyền đã không minh nhiên liên kết thẩm quyền của mình vào một khẳng định có tính cách triết học, nhưng liên tục tái khẳng định việc lên án về mặt luân lý mọi sự phá thai cố ý. Giáo huấn này đã không thay đổi và vẫn không thay đổi » (I,1).

Lời khẳng định ngắn gọn trên đây tóm tắt rõ làm thế nào trong lịch sử Kitô giáo vấn đề quy chế phôi người đã được đề cập : kết án liên lỉ việc phá thai cố ý và suy tư thần học về « sự phú ban linh hồn » mà hướng dẫn Giáo Hội không dấn thân trên quy chế triết học về phôi.

Cách thức đầu tiên là vấn đề phá thai mà chúng ta liên tục nhận thấy việc kết án nó. Từ thế kỷ đầu tiên, Kitô giáo đã đối lập tận  căn với một số thực hành của thế giới Rôma trong đó có phá thai[5]. « Truyền thống Kitô giáo là rõ ràng và nhất quan xem phá thai là hỗn độn luân lý đặc biệt nghiêm trọng [6]». Trong các thế kỷ tiếp theo, chúng ta cũng nhận thấy những kết án được lặp đi lặp lại việc phá thai (Augustin, Tôma Aquinô…). Giáo Hội dành nhiều tầm quan trọng cho ý thức đức tin và luân lý của các thành phần của mình, cách riêng khi một chuẩn mực luân lý vẫn liên tục trong lịch sử. Giáo Hội đồng ý xem chuẩn mực này như là một điểm thiết yếu đối với đời sống luân lý trong đức tin Kitô giáo. Những lập trường như thế tôn trọng sự sống phôi thai hay bào thai trong tử cung và trên những gì mà ngày này được gọi là « cắt đứt việc mang thai ». Đó là một lập luận truyền thống, được xây dựng trên việc tôn trọng sự sống, ngày từ lúc khởi đầu của nó. Các kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tạo ra những hoàn cảnh mới với việc thụ thai trong ống nghiệm. Cần có thái độ nào đối với phôi thai ? Quy chế nào dành cho nó ?

Trong hơn một ngàn năm, vấn đề này đã được đặt ra. Các tác giả Kitô giáo tự hỏi liệu phôi thai đã có hồn thiêng từ lúc đầu tiến trình phát triển của nó hay mãi về sau. Hai trào lưu đã hình thành và, cho đến Donum vitae, Giáo Hội không giải quyết dứt khoát vấn đề tranh luận đó.

Trào lưu đầu tiên được đại diện bởi Grégoire de Nysse (thế kỷ thứ IV) và Maxime le Confesseur (các Giáo phụ Hy Lạp) khẳng định phôi thai có hồn thiêng từ lúc thụ thai. Các luận đề thần học là khẳng định tương quan tạo dựng giữa Thiên Chúa và con người và khẳng định sự duy nhất linh hồn và thân xác đối lại với các luận đề của nhị nguyên thuyết làm tổn hại đên khẳng định về Chúa Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, « mọi khoảnh khắc mà con người trải qua trong suốt sự hình thành sinh học của mình là hoàn toàn không thể thiếu đối với sự toàn vẹn của nó. Không có một thời điểm nào nó ít là người hơn lúc khác, bởi vì mọi giai đoạn của tiến trình tăng trưởng là năng động cần thiết cho căn tính của nó và thuộc về nó một cách hữu cơ. Từ lúc thụ thai trong dạ mẹ, hữu thể…luôn là người…Linh hồn hoàn toàn cùng thời với mọi noãn người thụ tinh và có sự sống thực sự [7]». Đối diện với lập trường này, người ta làm gì từ những phôi bị trục xuất cách tự nhiên khỏi lòng mẹ ? Chuyện gì xảy ra khi đến ngày thứ 14 có khả năng tách làm đôi và hình thành cặp sinh đôi ?

Trào lưu thứ hai (các Giáo phụ Latinh) bị chia rẽ hơn. Các ngài chất vấn về việc lưu truyền sự dữ bằng việc suy nghĩ về tội nguyên tổ và đã muốn khẳng định rằng Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Nhưng trong mục đích này, một số vị như Tertulianô (khẳng định rằng việc truyền hồn thiêng được truyền lại bởi cha mẹ (traducianisme)), đã tỏ ra đặt vấn đề mối tương quan tạo dựng giữa Thiên Chúa và con người. Phản ứng lại, đã xuất hiện hai luận đề, luận đề trước đây (Grégoire de Nysse) với thân xác của con người được hình thành bởi cha mẹ và linh hồn được Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp và luận đề phú ban linh hồn về  sau. Vào thế kỷ 13, thánh Tôma Aquinô lấy lại vấn đề bằng cách khẳng định rằng linh hồn phải được đón nhận trong một thân xác sẵn sàng tiếp nhận nó, được sắp đặt đón nhận nó. Điều này nại đến sự hiểu biết thời đó (cả y học của Aristote), theo ông, phôi người được phú bẩm linh hồn (sau khi đã trải qua các giai đoạn liên tiếp thực vật và động vật) sau 40 ngày[8] nơi đàn ông và 80 ngày nơi phụ nữ[9].

Đâu là kết luận về lịch sử khá phức tạp này của suy tư thần học ? Các ngài đã xác tín rằng mọi diễn từ về phôi người đều không được tách rời với diễn từ về con người nói chung, hay nói cách khác, nói về phôi người là nói về con người. Cho dầu truyền thống không chắc chắn về căn tính chính xác của phôi người, thế nhưng, nó tin rằng giết một hữu thể đang thai nghén luôn là một hành vi nghiêm trọng vì điều đó làm tổn hại đến nhân vị hay đến một hữu thể đang thành hình có thể trở thành hình ảnh của Thiên Chúa[10]. Trong trường hợp này, phôi người được xem như là « một nhân vị tiềm tàng » (định nghĩa của Ủy ban đạo đức quốc gia Pháp). Nhân vị tiềm tàng này vừa hoàn toàn giống một nhân vị trưởng thành vừa khác với nó[11].

Giáo Hội, cho đến Donum vitae,  không bày tỏ lập trường trong cuộc tranh luận nhưng yêu cầu tôn trọng phôi người như một nhân vị : « Kết quả của việc sinh hạ con người ngay từ giây phút hiện hữu đầu tiên của nó, nghĩa là từ lúc hợp tử được cấu tạo, đòi hỏi con người phải được tôn trọng cách vô điều kiện trong toàn bộ thể xác và linh hồn. Con người phải được tôn trọng và đối xử như một nhân vị ngay từ lúc thụ thai, và do đó, ngay từ giờ phút ấy, phải nhìn nhận nó nơi những quyền của nhân vị… Việc nhắc lại giáo lý trên đây giúp chúng ta có được một tiêu chuẩn căn bản để giải đáp các vấn đề mà việc phát triển khoa y sinh học trong lãnh vực này đặt ra : nếu phôi thai phải được đối xử như một nhân vị, thì nó cũng phải được bảo vệ cho toàn vẹn, chăm sóc và chữa trị…như bất cứ một con người nào trong khuôn khổ trợ giúp của y khoa » (I,1).

Tôn trọng con người là duy nhất và bất khả phân chia từ đầu đến cuối. Không có tôn trọng con người nêu không có tôn trọng nó trong sự hữu hạn của nó dầu là lúc khởi đầu sự sống hay lúc bệnh tật hay cái chết. Đó có lẽ là lời biện hộ tốt nhất về lập trường của Giáo Hội mà ta có thể đưa ra về vấn đề tế nhị này liên quan đến quy chế phôi thai.

Tuy nhiên, với Huấn thị « Dignitas personae » vào năm 2008, Giáo Hội đã tiến thêm một bước khi khẳng định phẩm giá nhân vị của phôi người.

Huấn thị này ra đời với mục đích « cập nhật » Donum vitae sau hai mươi năm (số 1). Trong hai mươi năm này, Huấn thị Dignitas personae nhìn nhận, « trong suốt những thập niên vừa qua, các khoa y học đã mở rộng đáng kể sự hiểu biết của chúng về sự sống con người ở những giai đoan đầu tiên của cuộc sống của nó. Chúng đã đạt đến chỗ biết tốt hơn những cấu trúc sinh học và tiến trình sinh sản của nó» (số 4). Nhắc lại « tiêu chí luân lý căn bản » luôn có giá trị mà Donum vitae khẳng định trên đây (I,1), thế nhưng, Huấn thị 2008 cho làm rõ rằngDonum vitae « đã không định nghĩa phôi thai như là nhân vị, để không dấn thân minh nhiên trong một khẳng định có tính triết học» (số 5), dù nó vẫn cho thấy « có một sự liên hệ nội tại giữa chiều kích hữu thể học và giá trị đặc thù của mỗi hữu thể nhân linh. Cho dù sự hiện diện của một linh hồn thiêng liêng không thể được khám phá bởi bất cứ việc quan sát dữ kiện thực nghiệm nào, nhưng chính những kết luận khoa học về vấn đề phôi người “cung cấp một chỉ dẫn quý giá để phân định về mặt lý trí một sự hiện diện nhân vị từ sự xuất hiện đầu tiên của một sự sống con người: làm thế nào mà một cá thể người (individu humain) lại không phải là một nhân vị (personne humaine)?”» (số 5). Từ đó, Huấn thi Dignitas personae khẳng định : « thực tại của hữu thể nhân linh, trong suốt cuộc sống của nó, trước và sau khi sinh, không cho phép khẳng định một sự thay đổi bản tính, cũng không cho phép khẳng định sự giảm dần giá trị luân lý, vì nó sở hữu một định phẩm nhân chủng học và luân lý tròn đầy. Bởi thế, phôi người, từ ban đầu, có một phẩm giá riêng của nhân vị.» (số 5).

  1. Phá thai : một thực tại cá nhân và xã hội

Việc một số người nữ muốn phá bỏ bào thai của mình không phải là một sự kiện mới mẻ, vì trong lịch sử, phá thai đã được thực hành lâu rồi. Thế nhưng, ngày nay, với sự phát triển các kỹ thuật và phương tiện ngừa thai, thì phá thai vẫn là một thực tại tạo nên một vấn đề nghiêm trọng đối với người nữ cũng như đối với xã hội.

2.1.  Phá thai : một thực tại xé lòng của cuộc sống người nữ

Nơi nữ giới, thai nghén và kinh nguyệt là những thực tại liên kết nhau diễn tả khả năng sinh sản của họ. Từ tuổi dậy thì cho đến thời kỳ mãn kinh, người nữ sống trong thân xác mình tiến trình dẫn đến việc sinh sản và ý thức về mối liên hệ chặt chẽ giữa kinh nguyệt và mang thai. Đối với một người nữ, sự kiện có thai là một kinh nghiệm rất mạnh trên phương diện thể lý lẫn tâm lý. Việc mang thai được thể hiện ở mức sâu thẳm nhất của đời sống thể lý từ khởi đầu với việc ngừng kinh nguyệt, những buồn nôn và những thay đổi sinh lý khác nhau. Những triệu chứng này sẽ được chấp nhận và đảm nhận cách khác nhau nếu việc mang thai được ước muốn hay không.

Thai nghén là thời gian trong đó người phụ nữ trở thành mẹ. Đó là một sự thay đổi quan trọng trên bình diện căn tính cá nhân cũng như trên bình diện đời sống lứa đôi cũng như cương vị xã hội. Nếu việc mang thai có thể là một kinh nghiệm tròn đầy về phương diện tình cảm cũng như về phương diện thể lý, thì nó cũng có thể là một kinh nghiệm cô tịch, đòi hỏi sự trưởng thành hay ít ra bao hàm một tiến trình trưởng thành. Mang thai do đó là một kinh nghiệm phức tạp mà ta có thể coi là nghịch lý vì người nữ vừa sống một tương quan rất đặc biệt với thân  xác của mình vừa một kinh nghiệm tương quan độc nhất với « người khác » trong thân  xác mình.

Trong trường hợp việc thai nghén không được dự kiến hay không được mong muốn, người nữ sống một kinh nghiệm khó khăn, giữa việc chấp nhận hay khước từ nó. Cho dầu các hoàn cảnh thế nào, quyết định phá thai được sống bởi người nữ như là một hoàn cảnh xé lòng trong đó người nữ đương đầu với sự mâu thuẫn chết chóc không muốn đứa con mình đang mang. « Nói tóm lại, hành vi nhân linh này có thể được xem như là một vấn đề tương quan với các chiều kích sâu xa và thường vô thức, « một lịch sử tình yêu và chết chọc ». Đó là nét riêng của con người bị cư ngụ bởi cái phi lý, phải đương đầu với sự gây hấn cũng như tình yêu. Và trong trường hợp những phụ nữ cưu mang con , họ không tránh khỏi những lo âu sâu xa nhất ; trái lại, họ bận tâm đến đó…Bởi thế, phá thai trước tiên là một vấn đề tương quan cần định vị trong sự hữu hạn của con người[12] ».

2.2. Phá thai : một hành vi y hóa học chứ không phải một hành vi y học

Thực tại này của cuộc sống người nữ từ lâu đã được giữ âm thầm với việc sự dụng các phương tiện xổ thai, kèm theo một tỉ lệ chết cao hay những rắc rối quan trọng đối với người nữ. Với việc không trừng phạt phá thai hay thậm chí khuyến khích nó, thì việc phá thai đã trở thành một hành vi y học hóa.

Phá thai hệ tại trong việc trục xuất phôi khỏi tử cung. Điều đó có thể được thực hiện cách tự nhiên và do đó người ta sẽ nói đến « sẩy thai ». Tuy nhiên, trong trường hợp đang nói đến, nó hệ tại việc phá thai cố ý, tức hành vi làm đứt đoạn việc thai nghén.

Nếu phụ nữ đã luôn tìm ra những phương tiện ngăn chặn thai nghén của mình với những kỹ thuật khác nhau (thuốc nước, các dụng cụ…), thì những kỹ thuật này cho thấy những nguy hiểm lớn đối với sức khỏe và ngay cả đối với mạng sộng của phụ nữ (việc khoét thủng các cơ quan). Ngày nay, các phương pháp can thiệp cho phép tránh những hậu quả tai hại này. Các phương pháp phổ biến nhất hiện nay là :

+ phương pháp hút thai (cho đến 12 tuần) : sau khi gây mê/tê và nong cổ tử cung (bằng que kim loại cong), cái ở trong tử cung được hút ra rồi tiếp đến là nạo thành tử cung.

+ trục xuất bào thai (sau 12 tuần) : sau khi gây mê, người ta dùng que « laminaires » làm cho phân mảnh bào thai.

+ phương pháp muối (sau 14 tuần) : tiêm dung dịch nước muối vào tử cung sau khi đã rút nước ối ra. Điều này gây ra sự nhiễm độc bào thai và nó sẽ được trục ra  sau sáu tiếng do sự co thắt tử cung. Tiến trình này giống với việc sinh đẻ đau đớn và đôi khi để lại nguy cơ sót nhau.

+ viên thuốc RU 486 : trục xuất trứng hay phôi người.

Cách chung, người ta không thể phủ nhận rằng – bất chấp việc vận dụng tất cả các phương pháp này – phá thai vẫn là một hành vi nghiêm trọng, hung bạo về mặt thể lý và tâm lý. Việc y hóa học phá thai đặt ra vấn đề sức khỏe chung : nó là một hành vi y học hay không ? Phá thai, tự nó, không thể được xem như là một hành vi y học vì mục đích của nó không hệ tại tìm kiếm cải thiện sức khỏe hay việc chữa trị các chứng bệnh thể lý làm tổn hại con người (trường hợp phá thai điều trị là một trường hợp giới hạn). Nó dẫn đến việc ngưng một tiến trình sự sống con người, một sự sống con người đang bắt đầu. Nó đi ngược lại với bổn phận của y khoa là chăm sóc và  chữa lành (lời thế Hypocrate).

Nhận xét : chẩn đoán trước khi sinh : đó là một loạt những kỹ thuật (trích nước ối, siêu âm, soi phôi, lấy máu thai, trích mẫu nhau…) cho phép nghiên cứu một số dị thường. Việc tiền chẩn đoán này có thể được đôi bạn yêu cầu, đôi khi do bác sĩ đề nghị. Việc làm này cho phép xác định giới tính của đứa bé, những dị thường sắc thể (chẳng hạn dị tật trisomie 21 dẫn đến bệnh Đao), những dị thường của hệ thống thần kinh, di truyền…Việc tiền chẩn đoán tự nó không xấu nhất là khi có những nguy cơ bệnh di truyền và nhiều bà mẹ được yên tâm hơn. « Nó cho biết tình trạng phôi thai khi còn trong lòng mẹ ; nó cho phép hoặc cho thấy có thể can thiệp một cách sớm hơn và hữu hiệu hơn để chữa trị, bằng thuốc men hay phẫu thuật » (Donum vitae, I,2). Một mặt, việc tiền chẩn đoán này « phải bảo vệ sự sống và sự toàn vẹn của phôi thai cũng như của người mẹ mà không bắt họ phải chịu những nguy cơ không tương xứng ». Mặt khác, một việc chẩn đoán tích cực không được dẫn đến quyết định phá thai cho dầu nó nằm trong một số trường hợp được cảm thấy cách thảm thương bởi cha mẹ (phôi thai có tật, mang bệnh di truyền…) (I,2). Việc tiền chẩn đoán do dó không được thực hành trong ý định phá thai. Đức Gioan-Phaolô II nhắc lại rằng một đứa trẻ « mang một dị tật không mất đi những đặc quyền riêng của một hữu thể nhân linh, mà người ta phải dành sự tôn trọng mà mọi bệnh nhân đều có quyền[13] ». Trong viễn ảnh Kitô giáo, Giáo Hội tin rằng mọi sự sống con người, cho dầu yếu đuối và đau khổ, luôn là một ân huệ tuyệt vời của Thiên Chúa[14]. Thế nhưng, « đời sống kitô hữu không làm cho chúng ta thoát khỏi những căng thẳng nặng nề và đau đớn. Trong cuộc sống của chúng ta, những căng thẳng này đôi khi đi đến chỗ mẫu thuẫn và do đó trở thành dấu chỉ của thánh giá được trồng ở chính trung tâm ơn gọi của chúng ta [15]». Các bậc cha mẹ đối diện với sự chẩn đoán tiền sinh này được mời gọi soi sáng suy tư và lương tâm của họ dưới ánh sáng của Tin Mừng, nhận ra Chúa Kitô nơi người bé mọn nhất.

  1. Phá thai và biện phân Kitô giáo

Cách chung chung, Giáo Hội, xuyên qua tất cả Truyền thống cho đến hôm nay, xác định phá thai như là một điều  xấu cực kỳ nghiêm trọng. Công đồng Vatican II tái khẳng định lập trường của Truyền thống Kitô giáo : « Sự sống phải được gìn giữ cẩn thận hết sức ngay từ lúc thụ thai : phá thai và sát nhi là những tội ác ghê tởm » (GS 51,3). Nguyên tắc này đã được duy trì cách liên tục trong lịch sử của Giáo Hội. « Sự nhất trí của các tư tưởng gia Kitô giáo, của các mục tử, các giám mục, các giáo hoàng, trước con mắt của thần học gia Kitô giáo, có một trọng lượng luân lý lớn lao. Quả thế, hiếm có lãnh vực luân lý nào mà sự cương nghị nhất trí như thế của Truyền thống được biểu lộ[16] ». Trong Evangelium vitae (1995), về giá trị và tính bất khả xâm phạm của sự sống con người, Đức Gioan-Phaolô II đã tuyên bố, với quyền Đấng kế vị thánh Phêrô, rằng « phá thai trực tiếp, tức là như mục đích hay phương tiện, luôn là một sự hỗn độn luân lý nghiêm trọng, xét như là việc giết chết cố ý một hữu thể nhân linh vô tội ». Ngài thêm rằng không có bất kỳ luật pháp nào có thể làm cho hành vi này thành hợp pháp (một hành vi) bất hợp pháp tự nội, bởi vì trái với Luật bản nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong tâm hồn mọi người, có thể được chính lý trí nhận biết và được Tin Mừng tuyên bố.

Đứng trước lập trường này của Giáo Hội, người thời nay đã đưa ra một số lý do để khước từ quan điểm của Giáo Hội. Ta có thể nói gì về điều đó ? Chúng ta sẽ phân biệt với X. Thévenot một số đặt vấn đề thường được đưa ra khi đối diện với lập trường của Giáo Hội và những yếu tố phân định mà một suy tư Kitô giáo có thể mang lại.

+ Thân xác của người nữ chỉ thuộc về người nữ mà thôi : theo lý luận này, người nữ có quyền sở hữu như mình muốn cái bào thai mà họ coi như là chính họ. Đối diện với suy nghĩ này, trước tiên, chúng ta có thể nhấn mạnh rằng, về mặt nhân chủng học, bào thai không phải là một phần của người mẹ. Nó không thuộc phần thân thể của người mẹ, « nó hình thành trong người mẹ ». Tiếp đến, về mặt sinh học, những đặc điểm di truyền của nó là khác biệt bởi vì chúng được đánh dấu bởi bộ gien của người cha. Nó có một chiều kích xã hội quan trọng và nằm trong một mạng lưới những tương quan. Xã hội luôn giữ một quyền hạn nhìn vào cách sử dụng mà cá nhân có về thân xác của mình. Trong viễn ảnh Kitô giáo, thân xác, đền thờ của Chúa Thánh Thần, được mời gọi tôn vinh Thiên Chúa (« thân xác để phụng sự Chúa và Chúa làm chủ thân xác » (1Cor 6,13).

+ Quyết định phá thai được đưa ra dựa vào những tiềm năng tương lai của hạnh phúc của đứa con : Lý luận này thường được đưa ra sau việc tiền chẩn đoán, thấy rằng đứa trẻ sẽ sinh ra với những dị tật hay khuyết tật. Thêm vào đó là lý luận Thiên Chúa muốn cho con người hạnh phúc. Hoàn cảnh thường được sống cách bi thảm : tiếp vào niềm vui chờ đợi một đứa con là nỗi lo âu và sợ hãi về đứa con bị khuyết tật và gánh rất nặng cho đôi bạn và gia đình. Nếu Giáo Hội ý thức về sự khó khăn này và tìm cách biểu lộ sự trợ giúp và nâng đỡ cho các cha mẹ đang sống những hoàn cảnh như thế, thì Giáo Hội cũng tin rằng Tin Mừng thúc giục đón nhận những người nghèo và việc đón nhận này là dấu chỉ căn bản của Thiên Chúa đang đến. Quyết định dựa vào hạnh phúc là không có ý nghĩa lớn lao gì, vì hạnh phúc này là tương đối và nhiều ví dụ cho thấy những đứa trẻ khuyết tật hạnh phúc, một hành phúc khác với hạnh phúc của những người bình thường. Điều không hạnh phúc duy nhất của chúng là không được đón nhận, không được yêu mến.

+ Đứa trẻ phải được cha mẹ chúng mong ước để sống hạnh phúc : lý luận này ít lưu tâm đến sự hàm hồ của ước muốn con người. Kinh nghiệm cho thấy rằng ước muốn con cái không phải luôn được chia sẻ bởi hai phối ngẫu mà tương quan tính dục được hiểu ngầm dưới nhiều ước muốn khác nhau chứ không chỉ duy nhất là ước muốn sinh sản ; ước muốn có con không đủ để thực hiện một dự đoán có giá trị đối với hạnh phúc của đứa con.

+ Phôi thai vì chưa là một nhân vị, nên việc phá thai không phải là giết người, do đó, hợp pháp : lý luận này đặt ra vấn đề quy chế phôi thai…Suy tư trước đây về quy chế phôi thai cho thấy rằng, đối với Giáo Hội, phá thai luôn là một hành vi tổn hại nghiêm trọng đến nhân loại. Và những khám phá khoa học cho thấy, từ đầu, phôi thai đã có một phẩm giá riêng của nhân vị rồi. Vả lại, lý luận như thế là quên rằng chúng ta đã từng là những phôi thai.

Toàn bộ những vấn đề suy tư này cuối cùng cho thấy vấn đề lớn mà việc phá thai đặt ra trong xã hội chúng ta : việc tầm thường hóa nó. X. Thévenot phân tích sự tầm thường hóa này như cho thấy một số đặc điểm của xã hội hiện đại :

  • Một xã hội sợ tương lai và tìm cách loại bỏ nguy cơ, cái bất ngờ…
  • Phủ nhận cái chết, khước từ sự hữu hạn.
  • Hạ thấp giá trị của đứa trẻ.
  • Khó khăn liên đới trong thời gian với người nghèo khổ nhất.

Sự biện phân mà Huấn quyền đề nghị khước từ mọi sự tầm thường hóa việc phá thai. Nó tránh việc quá bị thu hút bởi những hoàn cảnh thảm thương. Nhưng nó cũng mời gọi động viên trong những nhiệm vụ khác nhau để bênh vực sự sống con người : nhiệm vụ lắng nghe những người nữ và những đôi bạn sống những hoàn cảnh thất vọng, những nhiệm vụ giáo dục khi đối diện với một sự vô trách nhiệm nào đó trong việc thực hành tính dục…

Trên bình diện mục vụ, vai trò đầu tiên của Giáo Hội là soi sáng các lương tâm và mạnh mẽ nhắc nhớ rằng phải làm tất cả để tôn trọng sự hình thành của một hữu thể đang được thai nghén. Một công việc đón tiếp và lắng nghe là thái độ ưu tiên trong một hoàn cảnh tuyệt vọng. Trong quyết định về việc theo đuổi hay không việc mang thai, chính « những tương quan » nằm ở trung tâm vấn đề. Cần giúp người nữ quyết định cho chính mình, cho người khác nhưng còn cho bào thai mình đang mang. Đó là một kinh nghiệm về những xung đột bên trong mà cần phải giải quyết. Quyết định sau cùng luôn thuộc về người nữ.

Nếu Giáo Hội lên án việc phá thai, thì đó không phải vì Giáo Hội không nhạy cảm trước sự đau buồn và sự phức tạp của một số hoàn cảnh. Lời sau cùng vẫn là lòng thương xót. « Phá thai chạm đến những hoàn cảnh cá nhân, gia đình và xã hội đặc biệt đau đớn. Không ai sẽ tự cho mình phê phán tâm hồn của người đồng loại của mình mà bí mật của họ chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi. Hơn nữa, không ai có thể giũ trách nhiệm của mình trong áp lực phi nhân mà xã hội làm đè nạng trên một số lương tâm [17]».

Luc Crépy, Giám mục

(Lm. Võ Xuân Tiến chuyển ngữ và cập nhật)

—————-

[1] Lấy những chữ đầu của phòng thí nghiệm Roussel-Uclaf và cách đánh số theo thứ tự thời gian (RU 38486 hay RU 486)

[2]Cấm bất cứ một hành vi nào có mục đích hay dùng làm phương tiện để ngăn chặn việc sinh sản, hoặc trước khi hoặc đang khi làm hành vi vợ chồng, hoặc làm trở ngại việc diễn tiếp tự nhiên của hành vi ấy (HV số 14).

[3] « Giáo Hội luôn luôn dạy việc ngừa thai là một sự xấu nội tại, nghĩa là mỗi hành vi vợ chồng chủ ý làm cho không thụ thai là một sự xấu tự nội. Người ta phải coi giáo huấn này là dứt khoát và không thể thay đổi. Việc ngừa thai đối nghịch cách nghiêm trọng với đức khiết tịnh hôn nhân, nó đi ngược lại với lợi ích của việc lưu truyền sự sống (khía cạnh sinh sản của hôn nhân) và đi ngược lại với việc trao hiến hỗ tương giữa đôi vợ chồng (khía cạnh kết hợp của hôn nhân). Nó làm tổn thương tình yêu đích thực và chối từ vài trò tối thượng của Thiên Chúa trong việc lưu truyền sự sống nhân loại » (Cẩm nang…, số 2,4).

[4] X. Thévenot. La bioéthique, Le Centurion/La Croix, Paris, 1989: pp.6-7.

[5] Bản văn của Didaché apostolorum : « Người không được giết hoa trái của lòng mẹ bằng phá thai và người không được hủy hoại đứa trẻ đã được sinh ».

[6]Evangelium vitae, 1995.

[7] G. Martelet, Amour et famille; Le Supplément. n°118, 1979.

[8] Hiện tại trong Do thái giáo và trong Hồi giáo, một số trào lưu cho rằng khoảng 40 ngày phôi người trở thành một hữu thể nhân linh.

[9] Như vậy, phải chăng phá thai là hợp pháp vì sản phẩm của việc thụ thai vẫn còn chưa được nhân bản hóa ? Không phải vậy, đối với thánh Tôma, Thiên Chúa cam kết ơn cứu độ đời đời của Ngài trong mọi hình thành hữu thể nhân vị. Sản phẩm của việc thụ thai đã được cứu cánh hóa bởi số phận tối hậu của nó rồi. Trong viễn ảnh này, phôi người có quyền được tôn trọng cách tuyệt đối (P. Caspar, N.R.T, 1991, p.244).

[10] X. Thévenot, le statut de l’embryon humain, Projet, sept.-Oct: 1985

[11] Idem.

[12] L. Melançon, L’avortement dans une société pluraliste, Montréal, eds. Paulines, 1993, p. 35.

[13] Doc. Cath – 1983. no 1846, p.189. (« Congrès du mouvement pour la vie »)

[14] Xem Familiaris consortio , số 30.

[15] Hồng y J. M. Lustiger, Doc. cath. 1987, n°1932

[16] X. Thévenot, Avortement et discernement chrétien. Le Point théologique, Ethique, religion et foi, 1985, p.197-223.

[17] Hội đồng thường trực của HĐGM Pháp, Déclaration sur l’avortement, D.C.1973, n°1636. p.676.

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Mười Một 2024
H B T N S B C
« Th10    
  1 2 3
4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17
18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30