ĐỨC PHANXICÔ TRẢ LỜI CHO CÁC « DUBIA » CỦA NĂM HỒNG Y
Các Hồng y Brandmüller, Burke, Sandoval Íñiguez, Sarah và Zen Ze-kiun đã trình bày với Đức Thánh Cha năm câu hỏi yêu cầu làm sáng tỏ một số điểm liên quan đến việc giải thích Mặc khải của Thiên Chúa, việc chúc lành cho các kết hợp đồng giới, tính hiệp hành như một chiều kích cấu thành của Giáo hội , việc truyền chức linh mục cho phụ nữ và việc sám hối như một điều kiện cần thiết để được lãnh nhận bí tích giải tội.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời năm câu hỏi, các “dubia” hoặc “các nghi ngờ” trong tiếng Latinh, được các Hồng y Walter Brandmüller và Raymond Leo Burke gởi cho ngài vào tháng Bảy vừa qua, với sự ủng hộ của ba vị Hồng y khác là Juan Sandoval Íñiguez, Robert Sarah và Joseph Zen Ze-kiun. Các câu hỏi của các Hồng y, bằng tiếng Ý, và các câu trả lời của Đức Thánh Cha, bằng tiếng Tây Ban Nha, đã được công bố hôm nay trên trang web của Bộ Giáo lý Đức tin. Dưới đây là bản văn về những câu trả lời của Đức Thánh Cha:
1) Dubium về lời khẳng định rằng Mặc Khải của Thiên Chúa phải được giải thích lại tùy theo những thay đổi đang diễn ra về văn hóa và nhân học.
Tiếp theo sau những khẳng định của một số Giám mục chưa được sửa chữa cũng như chưa được rút lại, câu hỏi đặt ra là liệu Mặc khải của Thiên Chúa trong Giáo hội có phải được giải thích lại tùy theo những thay đổi văn hóa của thời đại chúng ta và tầm nhìn nhân học mới mà những thay đổi này thúc đẩy hay không; hoặc nếu Mặc khải của Thiên Chúa có tính ràng buộc vĩnh viễn, bất biến và do đó không thể bị mâu thuẫn, theo những gì đã được Công đồng Vatican II bó buộc và quy định rằng đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải, phải có “sự vâng phục đức tin” (Dei Verbum 5); rằng những gì được mặc khải vì phần rỗi của tất cả mọi người phải vẫn “mãi mãi nguyên vẹn” và sống động, và được “truyền lại cho mọi thế hệ” (7) và rằng sự tiến bộ của trí tuệ không bao hàm bất kỳ sự thay đổi nào trong chân lý của sự vật và lời nói, bởi vì đức tin đã được “truyền lại một lần dứt khoát” (8), và Huấn quyền không cao hơn Lời Chúa, nhưng chỉ dạy những gì đã được truyền đạt (10).
Câu trả lời của Đức Thánh Cha Phanxicô
Anh em thân mến,
Mặc dù không phải lúc nào cũng có vẻ khôn ngoan để trả lời các câu hỏi được gửi trực tiếp cho tôi và tôi không thể trả lời tất cả, nhưng trong trường hợp này, tôi cho rằng làm như vậy là thích hợp vì Thượng Hội đồng gần kề.
Trả lời cho câu hỏi đầu tiên
a) Câu trả lời phụ thuộc vào ý nghĩa mà chúng ta gán cho từ “giải thích lại”. Nếu nó được hiểu là “giải thích tốt hơn”, thì lối diễn tả đó có thể chấp nhận được. Theo nghĩa này, Công đồng Vatican II đã khẳng định rằng điều cần thiết là, thông qua công việc của các nhà chú giải – và tôi muốn nói thêm, của các nhà thần học – “sự phán quyết của Giáo hội được thêm hoàn hảo” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 12).
b) Do đó, nếu đúng là Mặc khải của Thiên Chúa là bất biến và luôn ràng buộc, thì Giáo hội phải khiêm tốn và nhìn nhận rằng Giáo hội không bao giờ tát cạn hết sự phong phú khôn dò của mình và Giáo hội cần phải phát triển trong sự hiểu biết của mình.
c) Do đó, Giáo hội cũng phát triển trong sự hiểu biết của mình về những gì chính Giáo hội đã khẳng định trong Huấn quyền của mình.
d) Những thay đổi về văn hóa và những thách thức mới của lịch sử không làm thay đổi Mặc khải, nhưng có thể kích thích chúng ta diễn tả tốt hơn một số khía cạnh của sự phong phú tràn trề của Mặc Khải vốn luôn mang lại nhiều hơn.
e) Việc không thể tránh khỏi là điều đó có thể dẫn đến việc diễn tả tốt hơn một số khẳng định trong quá khứ của Huấn quyền, và điều đó thực sự đã xảy ra trong suốt dòng lịch sử.
f) Mặt khác, đúng là Huấn quyền không cao hơn Lời Chúa, nhưng cũng đúng là cả các bản văn Thánh Kinh lẫn các chứng từ của Thánh Truyền đều cần một lối giải thích giúp chúng ta phân biệt được bản chất muôn thuở của chúng với điều kiện văn hóa. Chẳng hạn, điều này được thể hiện rõ ràng trong các văn bản Thánh Kinh (chẳng hạn như Xuất hành 21, 20-21) và trong một số can thiệp của Huấn quyền nhằm dung túng chế độ nô lệ (x. Nicholas V, Bulle Dum Diversas, 1452). Đây không phải là một lập luận thứ yếu, vì nó có mối liên hệ mật thiết với chân lý vĩnh cửu về phẩm giá bất khả tước bỏ của con người. Những văn bản này phải được giải thích. Điều tương tự cũng xảy ra đối với một số nhận xét trong Tân Ước về phụ nữ (1 Cr 11, 3-10; 1 Tm 2, 11-14) và các đoạn Thánh Kinh khác cũng như những chứng từ của Truyền Thống vốn không thể được lặp lại như thế ngày nay.
g) Điều quan trọng cần nhấn mạnh là những gì không thể thay đổi, đó là là những gì đã được mặc khải “vì phần rỗi mọi người” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 7). Vì vậy, Giáo hội phải liên tục phân định điều gì là thiết yếu cho phần rỗi và điều gì là thứ yếu hoặc ít liên quan trực tiếp đến mục đích đó. Tôi muốn nhắc lại những gì thánh Tôma Aquinô đã khẳng định: “Càng đi sâu vào chi tiết, tính bất định càng gia tăng” (Summa Theologiae 1-1 1, q. 94, art. 4).
h) Cuối cùng, việc trình bày duy nhất về một chân lý sẽ không bao giờ có thể được hiểu một cách thích đáng nếu nó được trình bày một cách biệt lập, tách biệt khỏi bối cảnh phong phú và hài hòa của toàn bộ Mặc khải. “Phẩm trật của các chân lý” cũng bao gồm việc đặt mỗi chân lý trong mối liên hệ đúng đắn với các chân lý trung tâm hơn và với giáo huấn của Giáo hội trong tổng thể của nó. Điều này cuối cùng có thể dẫn đến những cách khác nhau để giải thích cùng một học thuyết, cho dầu “đối với những người mơ về một học thuyết nguyên khối được tất cả mọi người bảo vệ mà không có diễn đạt tinh tế, điều đó có vẻ là một sự phân tán không hoàn hảo. Nhưng trên thực tế, sự đa dạng này giúp thể hiện và phát triển tốt hơn những khía cạnh khác nhau của sự phong phú vô tận của Tin Mừng” (Evangelii gaudium, 40). Bất kỳ trào lưu thần học nào cũng có những rủi ro nhưng cũng có những cơ hội.
2) Dubium về lời khẳng định rằng việc thực hành rộng rãi việc chúc lành cho các cuộc kết hợp của những người đồng giới là phù hợp với Mặc Khải và Huấn quyền (CCC 2357).
Theo Mặc Khải của Thiên Chúa, được chứng thực trong Thánh Kinh, rằng Giáo hội “theo lệnh truyền của Thiên Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, thành kính lắng nghe, gìn giữ một cách thánh thiện và giải thích một cách trung thành” (Dei Verbum 10): “Từ khởi đầu”, Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, Ngài đã tạo dựng họ có nam có nữ và chúc phúc cho họ sinh sôi nảy nở (x. St 1, 27-28), và vì lý do này, thánh Phaolô Tông đồ dạy rằng việc phủ nhận sự khác biệt giới tính là hậu quả của việc phủ nhận Đấng Tạo Hóa (Rm 1, 24-32). Câu hỏi được đặt ra là: liệu Giáo hội có thể đi chệch khỏi “sự khởi đầu” này hay không, bằng cách coi nó, trái ngược với những gì thông điệp Veritatis splendor, số 103, dạy, như một lý tưởng đơn thuần, và bằng cách chấp nhận những hoàn cảnh tội lỗi một cách khách quan như “có thể xảy ra”, như những cuộc kết hợp của những người đồng giới, mà không vi phạm giáo lý được mặc khải?
Câu trả lời của Đức Thánh Cha Phanxicô cho câu hỏi thứ hai
a) Giáo hội có một quan niệm rất rõ ràng về hôn nhân: một sự kết hợp độc hữu, ổn định và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, được mở ra một cách tự nhiên cho việc sinh sản con cái. Chỉ có sự kết hợp này mới có thể được gọi là “hôn nhân“. Các hình thức kết hợp khác chỉ thể hiện điều này “một phần và theo cách loại suy” (Amoris laetitia 292) và do đó không thể được gọi một cách chặt chẽ là “hôn nhân”.
b) Đây không chỉ là vấn đề về tên gọi, nhưng thực tại mà chúng ta gọi là hôn nhân có một cấu tạo thiết yếu duy nhất vốn đòi hỏi một cái tên riêng biệt, không thể áp dụng cho những thực tại khác. Chắc chắn nó còn hơn cả một “lý tưởng” đơn thuần.
c) Đây là lý do tại sao Giáo hội tránh bất kỳ loại nghi thức hay bí tích nào có thể mâu thuẫn với niềm xác tín này và khiến cho tin rằng người ta công nhận là hôn nhân một điều gì đó vốn không phải là hôn nhân.
d) Tuy nhiên, trong mối quan hệ của chúng ta với con người, chúng ta không được đánh mất đức ái mục tử, vốn phải thấm nhuần mọi quyết định và thái độ của chúng ta. Việc bảo vệ chân lý khách quan không phải là biểu hiện duy nhất của đức ái này, mà còn được tạo nên từ lòng nhân ái, sự kiên nhẫn, sự hiểu biết, sự dịu dàng và sự khích lệ. Do đó, chúng ta không thể là những thẩm phán chỉ biết phủ nhận, bác bỏ, loại trừ.
e) Do đó, sự khôn ngoan mục vụ phải phân định một cách chính xác liệu có những hình thức chúc lành nào được một hoặc nhiều người yêu cầu mà không truyền tải một quan niệm sai lầm về hôn nhân hay không. Thật vậy, khi người ta cầu xin một sự chúc lành, người ta bày tỏ lời cầu xin sự giúp đỡ của Thiên Chúa, lời kêu gọi để có thể sống tốt hơn, niềm tin tưởng vào một Người Cha có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.
f) Mặt khác, mặc dù có những hoàn cảnh mà, theo quan điểm khách quan, không thể chấp nhận được về mặt đạo đức, nhưng cùng một đức ái mục tử yêu cầu chúng ta không chỉ đối xử với những người khác như “tội nhân” mà tội lỗi hoặc trách nhiệm của họ có thể được giảm nhẹ bằng những yếu tố khác nhau, những yếu tố vốn ảnh hưởng đến khả năng quy tội cho chủ thể (xem Thánh Gioan Phaolô II, Reconciliatio et Paenitentia, số 17).
g) Những quyết định mà, trong một số trường hợp, có thể là một phần của sự khôn ngoan mục vụ không nhất thiết phải trở thành một chuẩn mực. Nói cách khác, sẽ không thích hợp nếu một giáo phận, Hội đồng Giám mục hoặc bất kỳ cơ cấu giáo hội nào khác liên tục và chính thức cho phép các thủ tục hoặc nghi thức đối với mọi loại vấn đề, bởi vì tất cả “những gì vốn là một phần của sự phân định thực tiễn trước một hoàn cảnh cụ thể đều không thể được nâng lên hàng chuẩn mực”, bởi vì điều này “sẽ làm nảy sinh một khoa giải nghi học không thể chịu nổi” (Amoris laetitia 304). Giáo luật không được và không thể bao trùm mọi thứ, và các Hội đồng Giám mục, với các văn kiện và nghi thức khác nhau, cũng không được yêu cầu điều đó, bởi vì đời sống của Giáo hội ngang qua nhiều kênh ngoài các kênh chuẩn mực.
3) Dubium về lời khẳng định rằng tính hiệp hành là một “chiều kích cấu thành của Giáo hội” (Tông hiến Episcopalis Communio 6), đến độ Giáo hội sẽ là hiệp hành tự bản chất.
Vì Thượng Hội đồng Giám mục không đại diện cho Giám mục đoàn, mà chỉ là cơ quan tư vấn của Đức Giáo hoàng, các Giám mục, với tư cách là những chứng nhân của đức tin, không thể ủy thác việc tuyên xưng chân lý của mình, nên người ta hỏi liệu tính hiệp hành có thể là tiêu chí điều chỉnh tối cao của việc cai quản thường trực của Giáo hội mà không làm biến dạng cơ cấu cấu thành của Giáo hội mà Đấng Sáng Lập mong muốn, theo đó, thẩm quyền tối cao và tròn đầy của Giáo hội được thực thi, cả bởi Giáo hoàng theo chức vụ của ngài, cũng như bởi Giám mục đoàn với người đứng đầu của mình là Đức Thánh Cha (Lumen Gentium 22).
Câu trả lời của Đức Thánh Cha Phanxicô cho câu hỏi thứ ba
a) Mặc dù anh em thừa nhận rằng thẩm quyền tối cao và tròn đầy của Giáo hội được thực thi bởi Giáo hoàng theo chức vụ của ngài và bởi Giám mục đoàn cùng với người đứng đầu là Đức Thánh Cha (x. Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium , 22), nhưng qua những câu hỏi này, anh em chứng tỏ nhu cầu tham gia, tự do bày tỏ ý kiến và cộng tác của mình, do đó yêu cầu một hình thức “tính hiệp hành” trong việc thi hành thừa tác vụ của tôi.
b) Giáo hội là một “mầu nhiệm hiệp thông sứ vụ”, nhưng sự hiệp thông này không chỉ mang tính cảm xúc hay thanh khiết, nó nhất thiết bao hàm sự tham gia thực sự: không chỉ hàng giáo phẩm, mà toàn thể Dân Thiên Chúa, theo những cách khác nhau và ở những cấp độ khác nhau, đều có thể làm cho tiếng nói của họ được lắng nghe và được cảm nhận là một phần của hành trình của Giáo hội. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng tính hiệp hành, như một phong cách và tính năng động, là một chiều kích thiết yếu của đời sống Giáo hội. Thánh Gioan Phaolô II đã nói những điều rất hay về điểm này trong Tông thư Novo millennio ineunte.
c) Việc linh thánh hóa hoặc áp đặt một phương pháp luận hiệp hành nào đó vốn làm hài lòng một nhóm, để biến nó thành một chuẩn mực và một con đường bắt buộc cho tất cả mọi người, là một điều khác, bởi vì điều này sẽ chỉ dẫn đến việc “đóng băng” con đường hiệp hành, bằng cách bỏ qua những đặc điểm khác nhau của các Giáo hội địa phương khác nhau và sự phong phú đa dạng của Giáo hội hoàn vũ.
4) Dubium về sự ủng hộ của các mục tử và các nhà thần học đối với lý thuyết cho rằng “thần học của Giáo hội đã thay đổi” và do đó việc truyền chức linh mục có thể được trao cho phụ nữ.
Sau những khẳng định của một số giáo sĩ cao cấp chưa được sửa chữa cũng như chưa được rút lại, theo đó thần học của Giáo hội và ý nghĩa của Thánh lễ đã thay đổi với Công đồng Vatican II, câu hỏi đặt ra là liệu mệnh lệnh của Công đồng Vatican II có còn hiệu lực hay không, theo đó “chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác có sự khác biệt về yếu tính chứ không chỉ về mức độ” (Lumen Gentium 10) và các linh mục, nhờ “quyền tế lễ và tha tội” ( Presbyterorum Ordinis 2), hành động nhân danh Chúa Kitô, Đấng Trung Gian, nhờ Người mà hy lễ thiêng liêng của các tín hữu được hoàn hảo? Người ta cũng hỏi liệu giáo huấn trong Tông thư Ordinatio Sacerdotalis của Thánh Gioan Phaolô II, vốn dạy như một chân lý để xem xét dứt khoát việc không thể phong chức linh mục cho phụ nữ, có luôn hiệu lực hay không, đến độ giáo huấn này không còn phải chịu những thay đổi nữa hoặc cuộc thảo luận tự do của các mục tử hoặc các nhà thần học.
Câu trả lời của Đức Thánh Cha Phanxicô cho câu hỏi thứ tư
a) “Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác có sự khác biệt về yếu tính giữa chúng” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 10). Sẽ là không thích hợp khi bảo vệ sự khác biệt về cấp độ vốn bao hàm việc coi chức tư tế chung của các tín hữu như một điều gì đó thuộc “bậc thứ hai” hoặc có giá trị thấp hơn (“mức độ thấp hơn”). Hai hình thức tư tế soi sáng và hỗ trợ lẫn nhau.
b) Khi thánh Gioan Phaolô II dạy rằng phải khẳng định “cách dứt khoát” rằng không thể truyền chức linh mục cho phụ nữ, ngài không hề hạ thấp phụ nữ và trao quyền tối cao cho nam giới. Thánh Gioan Phaolô II còn khẳng định những điều khác. Chẳng hạn, khi chúng ta nói về quyền lực linh mục, “Chúng ta đang ở trong khái niệm về chức năng chứ không phải về phẩm giá và sự thánh thiện”. (thánh Gioan Phaolô II, Christifideles Laici, 51). Đây là những lời mà chúng ta chưa đón nhận đủ. Ngài cũng khẳng định rõ ràng rằng, mặc dù chỉ có linh mục chủ sự Thánh Lễ, nhưng các nhiệm vụ “không tạo nên sự ưu việt của một số người trên những người khác” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles laici, ghi chú 190; xem Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Inter Insigniores, VI). Ngài cũng khẳng định rằng mặc dù chức năng tư tế mang tính “phẩm trật”, nhưng không được hiểu nó như một hình thức thống trị, mà là “hoàn toàn hướng tới sự thánh thiện của các chi thể của Chúa Kitô” (Thánh Gioan Phaolô II, Mulieris dignitatem, 27). Nếu chúng ta không hiểu điều này và nếu chúng ta không rút ra những hậu quả thực tế của những sự phân biệt này, thì sẽ khó chấp nhận rằng chức tư tế chỉ dành riêng cho nam giới và chúng ta sẽ không thể thừa nhận các quyền của phụ nữ cũng như sự cần thiết tham gia của họ, bằng nhiều cách khác nhau, vào vai trò lãnh đạo của Giáo hội.
(c) Mặt khác, để chặt chẽ hơn, chúng ta công nhận rằng một học thuyết rõ ràng và có thẩm quyền về bản chất chính xác của một “tuyên bố dứt khoát” vẫn chưa được xây dựng một cách toàn diện. Đây không phải là một định nghĩa tín lý, tuy nhiên, nó phải được tất cả mọi người chấp nhận. Không ai có thể phủ nhận nó một cách công khai, nhưng nó có thể là chủ đề nghiên cứu, như trong trường hợp về tính hiệu lực của các cuộc truyền chức trong Hiệp thông Anh giáo.
5) Dubium liên quan đến lời khẳng định “sự tha thứ là một quyền của con người” và việc Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến nghĩa vụ giải tội cho mọi người và luôn luôn, đến độ việc ăn năn sám hối không phải là điều kiện cần thiết cho việc giải tội theo bí tích.
Người ta hỏi liệu giáo huấn của Công đồng Trentô, theo đó, để bí tích giải tội có hiệu lực, hối nhân cần phải ăn năn thống hối, bao gồm việc chê ghét tội đã phạm với ý định không phạm tội nữa hay không (Phần XIV, Chương IV: DH 1676), vẫn còn hiệu lực hay không, đến độ linh mục phải hoãn việc giải tội khi thấy rõ rằng điều kiện này không được đáp ứng.
Câu trả lời của Đức Thánh Cha cho câu hỏi thứ năm
a) Việc ăn năn sám hối là cần thiết để bí tích giải tội có hiệu lực và bao hàm ý định không phạm tội. Nhưng ở đây không có toán học nào cả và tôi phải nhắc anh em một lần nữa rằng tòa giải tội không phải là cơ quan hải quan. Chúng ta không phải là những ông chủ, nhưng là những người quản lý khiêm tốn các bí tích nuôi dưỡng các tín hữu, bởi vì những ân huệ này từ Chúa, thay vì thánh tích phải canh giữ, là những trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho cuộc sống của con người.
b) Có nhiều cách để bày tỏ sự ăn năn sám hối. Thông thường, đối với những người có lòng tự trọng bị tổn thương nặng nề, việc nhận tội là một cực hình tàn nhẫn, nhưng sự kiện đơn giản đi xưng tội cũng là biểu trưng của sự ăn năn và tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa.
c) Tôi cũng muốn nhắc lại rằng “đôi khi chúng ta phải trả giá rất nhiều để dành chỗ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa trong việc mục vụ” (Amoris laetitia 311), nhưng chúng ta phải học điều đó. Theo Thánh Gioan Phaolô II, tôi cho rằng chúng ta không nên đòi hỏi nơi các tín hữu những ý hướng sửa chữa quá chính xác và chắc chắn, những ý hướng cuối cùng trở nên trừu tượng hoặc thậm chí say mê bản thân, nhưng ngay cả khả năng dự đoán về một lần sa ngã mới “cũng không gây tổn hại đến tính xác thực của ý hướng” (Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi Đức Hồng Y William W. Baum và gửi những người tham gia khóa học hằng năm của Tòa Ân Giải, ngày 22 tháng 3 năm 1996, 5).
d) Cuối cùng, phải làm rõ rằng tất cả những điều kiện thường đặt ra cho việc xưng tội nói chung không được áp dụng khi người đó đang ở trong tình trạng hấp hối hoặc với năng lực trí tuệ và tâm thần rất hạn chế.
———————————————
Tý Linh chuyển ngữ
(nguồn : Vatican News)
Xem thêm bản tin về bốn Hồng y Brandmüller, Burke, Caffarra và Meisner đã phổ biến một bức thư vào năm 2016, gởi cho Đức Thánh Cha Phanxicô, nêu lên các « dubia » (những nghi ngờ) về Tông huấn Amoris Laetitia của Đức Thánh Cha ở đây.
Tags: Bí-tích, nữ giới, Phanxicô-I, synode, Đồng-tính
Trackback from your site.
Bài viết cùng chủ đề
- THÔNG ĐIỆP GIÁNG SINH VÀ PHÉP LÀNH URBI ET ORBI 2024 : CẦU MONG TIẾNG SÚNG HÃY IM BẶT !
- THÁNH LỄ ĐÊM GIÁNG SINH VÀ KHỞI ĐẦU MỘT NĂM ÂN SỦNG, ĐỔI MỚI VÀ HY VỌNG
- HÀNH TRÌNH QUA CÁC NĂM THÁNH NHỜ CÁC SẮC CHỈ TRIỆU TẬP
- KINH TRUYỀN TIN CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG NĂM C: TẠ ƠN CHÚA VỀ HỒNG ÂN SỰ SỐNG
- NĂM THÁNH 2025: CẦN PHẢI CÓ THẺ HÀNH HƯƠNG ĐỂ BƯỚC QUA CÁC CỬA THÁNH Ở RÔMA
- DIỄN VĂN CỦA ĐỨC PHANXICÔ CHO GIÁO TRIỀU RÔMA NHÂN DỊP CHÚC MỪNG GIÁNG SINH 2024: HÃY NÓI TỐT CHỨ ĐỪNG NÓI XẤU
- GIÁO TRIỀU RÔMA, BÀI GIẢNG MÙA VỌNG THỨ 3: SỰ CAO CẢ CỦA THIÊN CHÚA LÀ SỰ NHỎ BÉ
- MỤC TỬ TRONG THÁNH KINH, MỘT HÌNH ẢNH VỀ UY QUYỀN VÀ LÒNG NHÂN TỪ
- ĐỨC PHANXICÔ NÓI VỚI NHÓM ÂN NHÂN VIỆT NAM: HỖ TRỢ CÁC CÔNG VIỆC BÁC ÁI ĐÓNG GÓP VÀO VIỆC MANG LẠI NIỀM HY VỌNG
- THÁNH TÍCH CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU ĐẾN RÔMA NHÂN NĂM THÁNH
- BÀI GIÁO LÝ VỀ NĂM THÁNH 2025. CHÚA GIÊSU KITÔ, NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA. I. THỜI THƠ ẤU CỦA CHÚA GIÊSU. BÀI 1. GIA PHẢ CỦA CHÚA GIÊSU (Mt 1, 1-17). CON THIÊN CHÚA ĐI VÀO LỊCH SỬ
- BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA TRONG THÁNH LỄ CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM C: CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
- NHỮNG ĐOẠN TRÍCH TỪ CUỐN TỰ TRUYỆN « HY VỌNG » CỦA ĐỨC PHANXICÔ
- ĐỨC PHANXICÔ TIẾT LỘ NGÀI ĐÃ THOÁT KHỎI HAI VỤ MƯU SÁT TRONG CHUYẾN TÔNG DU TỚI IRAK
- ĐỨC PHANXICÔ CA NGỢI CORSE NHƯ MÔ HÌNH CỦA “TÍNH THẾ TỤC LÀNH MẠNH”
- ĐỨC PHANXICÔ NÓI VỚI HÀNG GIÁO SĨ CORSE: “HÃY CHĂM SÓC CÁC BẠN VÀ NGƯỜI KHÁC”
- VIDEO TRỰC TUYẾN CHUYẾN TÔNG DU CORSE
- ĐỨC THÁNH CHA SẼ ĐẾN CORSE ĐỂ KÊU GỌI CẦU NGUYỆN, CÔNG LÝ VÀ TRÁCH NHIỆM
- THƯỢNG HỘI ĐỒNG: ĐỨC THÁNH CHA BỔ NHIỆM CÁC THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG THƯỜNG LỆ, TRONG ĐÓ CÓ HAI PHỤ NỮ
- CHUYẾN TÔNG DU CỦA ĐỨC PHANXICÔ: ĐỐI VỚI ĐA SỐ NGƯỜI PHÁP, ĐỨC PHANXICÔ “ĐÚNG” KHI THÍCH CORSE HƠN NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS