BẢN DỊCH THÔNG ĐIỆP FRATELLI TUTTI (Chương 1 và 2)

Written by lcd on Tháng Mười 16th, 2020. Posted in Lm Lê Công Đức, Thiên Phong, Văn kiện Giáo Hội

Thông Điệp FRATELLI TUTTI

của Đức Thánh Cha Phanxicô

VỀ TÌNH HUYNH ĐỆ VÀ TÌNH THÂN HỮU XÃ HỘI

(Lê Công Đức, PSS, dịch từ bản tiếng Anh)

  1. Fratelli tutti”. (1) Với những từ này, Thánh Phanxicô Assisi đã nói với các anh chị em mình và đã gợi cho họ một lối sống mang bản sắc Tin Mừng. Trong số những lời khuyên của Thánh Phanxicô, tôi muốn chọn lời khuyên trong đó ngài kêu gọi một tình yêu vượt quá những rào cản địa dư và khoảng cách, và ngài tuyên bố phúc cho tất cả những ai yêu mến người anh em mình, “khi người ấy ở xa cũng như khi ở gần”. (2) Một cách đơn sơ và trực tiếp, Thánh Phanxicô đã diễn tả yếu tính của một sự cởi mở huynh đệ cho phép chúng ta nhận ra, trân trọng, và yêu thương mỗi con người, bất kể sự dị đồng thể lý, bất kể người ấy sinh ra hay sống ở đâu.
  2. Chính vị thánh của tình huynh đệ, của nét đơn giản và niềm vui này đã truyền cảm hứng cho tôi viết Thông điệp Laudato Si’, lại một lần nữa ngài thôi thúc tôi dành Thông điệp mới này cho tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội. Thánh Phanxicô cảm nhận ngài là người anh em của mặt trời, của biển và của gió, song ngài cũng biết rằng ngài thậm chí gần gũi hơn với con người cùng một cốt nhục. Đi đâu ngài cũng gieo rắc hạt giống hòa bình và sóng bước với người nghèo, những kẻ bị bỏ rơi, những người đau yếu, những người bị loại trừ, những anh em chị em bé nhỏ nhất của ngài.

KHÔNG BIÊN GIỚI

  1. Có một đoạn đời của Thánh Phanxicô cho thấy rõ con tim rộng mở của ngài, con tim không biết đến giới hạn và vượt quá những dị biệt về nguồn gốc, quốc tịch, màu da hay tôn giáo. Đó là chuyến đi của ngài đến thăm Sultan Malik-el-Kamil ở Ai Cập, một chuyến đi đầy gian khổ bởi vì ngài rất nghèo khó, bởi tình cảnh thiếu thốn, bởi những quãng đường xa phải đi, và bởi sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo. Hành trình ấy – được thực hiện vào thời Thập tự chinh – càng cho thấy tình yêu rộng mở và lớn lao của ngài, một tình yêu tìm cách ôm lấy hết mọi người. Lòng trung tín của Phanxicô với Chúa tương ứng với tình yêu của ngài dành cho anh chị em mình. Không sờn lòng trước những khổ cực và hiểm nguy, Phanxicô đi gặp vị Sultan với chính thái độ mà ngài thôi thúc các môn đệ: Nếu họ thấy mình “ở giữa những người Hồi giáo và những người vô tín khác”, thì trong khi không chối bỏ căn tính của mình, họ cũng không được “vướng vào những tranh luận hay cãi vã, song phải chấp nhận mọi người khác vì Chúa”. (3) Trong bối cảnh thời ấy, đây là một khuyến cáo phi thường. Chúng ta thật ấn tượng khi thấy cách đây ngót tám trăm năm Thánh Phanxicô đã khẩn thiết kêu gọi rằng cần phải tránh mọi hình thức thù địch hay xung đột, và cần phải bày tỏ một thái độ “nhận chịu” trong tinh thần khiêm tốn và huynh đệ đối với những ai không cùng niềm tin với mình.
  2. Thánh Phanxicô không dấy lên sự cãi vã nhằm áp đặt các giáo thuyết; ngài chỉ đơn giản làm lan tỏa tình yêu. Ngài hiểu rằng “Thiên Chúa là tình yêu và ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa” (1Ga 4,16). Bằng cách này, ngài đã trở thành một người cha của mọi người và khơi gợi tầm nhìn về một xã hội huynh đệ. Thật vậy, “chỉ những ai đến với người khác, không phải để lôi kéo họ vào trong đời sống mình, nhưng để giúp họ trở thành chính họ trọn vẹn hơn, thì mới có thể được gọi là một người cha đích thực”. (4) Trong thế giới vào thời đó, tua tủa những tháp canh và những tường thành phòng thủ, các thành phố là bãi chiến trường khốc liệt giữa những gia tộc quyền lực, trong khi sự khốn khó tràn lan khắp các miền quê. Nhưng Phanxicô đã có thể chào đón sự bình an đích thực trong tâm hồn mình và giải thoát mình khỏi tham vọng áp chế người khác. Ngài trở thành một người nghèo và tìm kiếm cách sống hòa hợp với mọi người. Chính Thánh Phanxicô đã khơi cảm hứng cho Thông điệp này.
  3. Tình huynh đệ giữa con người và tình thân hữu xã hội vẫn luôn là một mối quan tâm của tôi. Trong những năm gần đây, tôi đã nói về các vấn đề này cách thường xuyên và trong những khung cảnh khác nhau. Trong Thông điệp này, tôi tìm cách phối kết lại nhiều phát biểu ấy và đặt chúng vào một bối cảnh suy tư rộng lớn hơn. Khi chuẩn bị cho Laudato Si’, tôi nhận được một nguồn cảm hứng từ Thượng phụ Chính Thống Bartholomew, người anh em của tôi, và là người đã lên tiếng rất mạnh mẽ rằng chúng ta cần phải chăm sóc công trình tạo dựng. Còn ở đây, tôi cảm thấy được khích lệ cách riêng bởi Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb, người mà tôi đã gặp ở Abu Dhabi, và tại đó chúng tôi đã tuyên bố rằng “Thượng đế đã dựng nên mọi người bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và phẩm giá, và đã kêu gọi họ sống với nhau như anh chị em”. (5) Đây không phải một cử chỉ ngoại giao thuần túy, mà là một phản hồi từ cuộc đối thoại và sự cam kết chung. Thông điệp này đề cập và khai triển một số chủ đề lớn được nêu lên trong Văn kiện mà cả hai chúng tôi đã ký. Bên cạnh những suy tưởng của mình, tôi cũng thu nạp vào đây nhiều thư từ, tài liệu và nhận định mà tôi nhận được từ nhiều cá nhân và nhiều nhóm trên khắp thế giới.
  4. Những trang sau đây không tham vọng cung ứng một giáo huấn hoàn chỉnh về tình yêu huynh đệ, nhưng đúng hơn muốn xem xét tầm phổ quát của nó, sự khai mở nó cho mọi người nam cũng như nữ. Tôi trao gửi Thông điệp xã hội này như một đóng góp khiêm tốn vào công cuộc suy tư còn tiếp tục, trong hy vọng rằng khi đứng trước những mưu toan ngày nay nhằm loại bỏ hay thờ ơ tha nhân, chúng ta có thể chứng minh rằng mình có khả năng đáp trả với một tầm nhìn mới về tình huynh đệ và tình thân hữu xã hội không chỉ dừng lại ở những lời lẽ suông. Mặc dù tôi viết Thông điệp này từ những xác tín Kitô giáo là nguồn cảm hứng và nâng đỡ mình, tôi vẫn muốn làm cho những suy tư này trở thành một lời mời gọi đối thoại giữa mọi người thiện chí.
  5. Khi tôi viết Thông điệp này, cơn đại dịch Covid-19 bất ngờ bùng phát, làm lộ rõ những sự an toàn giả tạo của chúng ta. Bên cạnh những phương thức khác nhau mà nhiều quốc gia dùng để đối phó với cơn khủng hoảng, thì sự bất lực của các quốc gia trong việc cộng tác với nhau cũng được thấy rõ ràng. Bất chấp mọi nối kết của chúng ta, chúng ta chứng kiến một sự phân hóa làm cho việc giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến tất cả chúng ta trở nên khó khăn hơn. Bất cứ ai nghĩ rằng bài học duy nhất để học là cần phải làm tốt hơn những gì mình vẫn đang làm, hay cần phải thanh lọc các hệ thống và các qui tắc hiện hành, thì đó là những người đang phủ nhận thực tại.
  6. Trong thời đại này của chúng ta, tôi ao ước rằng bằng cách nhìn nhận phẩm giá của mọi con người, chúng ta có thể góp phần phục sinh một cảm hứng phổ quát về tình huynh đệ. Tình huynh đệ giữa mọi người, nam cũng như nữ. “Ở đây chúng ta có một bí quyết tuyệt diệu giúp chúng ta biết cách ước mơ và biến đời sống mình thành một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Không ai có thể một mình đối mặt với đời sống… Chúng ta cần một cộng đoàn nâng đỡ và trợ giúp mình, trong đó chúng ta có thể giúp nhau hướng nhìn về phía trước. Thật quan trọng biết bao việc biết cùng mơ ước với nhau… Tự sức mình, chúng ta có nguy cơ nhìn thấy những ảo ảnh, là những cái không có ở đó. Mặt khác, các giấc mơ được kiến tạo cùng với nhau”. (6) Vì thế, chúng ta hãy mơ, trong tư cách là một gia đình nhân loại duy nhất, như những bạn đồng hành chia sẻ cùng một cốt nhục, như những đứa con của cùng mẹ trái đất là ngôi nhà chung của mình, mỗi người chúng ta đóng góp bằng sự phong phú của những niềm tin tưởng và xác tín của mình, mỗi chúng ta với tiếng nói của mình, tất cả đều là anh chị em.

CHƯƠNG I

MÂY ĐEN PHỦ TRÙM MỘT THẾ GIỚI ĐÓNG KÍN

  1. Không tham vọng làm một phân tích toàn triệt hay nghiên cứu mọi khía cạnh trong kinh nghiệm hiện thời của chúng ta, tôi chỉ muốn xem xét một số xu hướng trong thế giới hiện nay đang làm bế tắc sự phát triển của tình huynh đệ đại đồng.

NHỮNG GIẤC MƠ VỠ VỤN

  1. Trong nhiều thập kỷ, dường như thế giới đã học được bài học từ nhiều cuộc chiến tranh và tai ương của mình, và đã dần dần đi tới hội nhập trong những hình thức khác nhau. Chẳng hạn, đã có giấc mơ về một Châu Âu hợp nhất, có thể nhìn nhận những gốc rễ chung của nó và cảm thụ tính đa dạng phong phú của nó. Chúng ta nghĩ về “niềm xác tín vững chắc của các nhà sáng lập Cộng đồng Châu Âu, họ đã hình dung một tương lai dựa trên khả năng làm việc với nhau để nối kết những sự phân hóa, thúc đẩy hòa bình và hữu nghị giữa mọi dân tộc trên lục địa này”. (7) Cũng đã có một khát vọng ngày càng hơn về sự hội nhập ở Châu Mỹ La tinh, và một số bước đã được thực hiện trong chiều hướng này. Tại một số quốc gia và khu vực, những cố gắng hòa giải và hữu nghị đã tỏ ra có hiệu quả, trong khi những nơi khác thì được thấy có nhiều triển vọng.
  2. Tuy nhiên, tình hình hiện tại của chúng ta dường như đang cho thấy những dấu hiệu của một sự giật lùi nào đó. Những xung đột cũ tưởng là đã chôn vùi từ lâu thì nay đang bùng phát lại, trong khi những biểu hiện của một chủ nghĩa dân tộc thù hận và hung hăng, cực đoan và thiển cận đang leo thang. Tại một số quốc gia, một quan điểm nào đó về sự thống nhất đất nước và dân tộc bị ảnh hưởng bởi nhiều ý thức hệ khác nhau đang tạo ra những hình thức ích kỷ mới và sự đánh mất cảm thức xã hội được ngụy trang bởi việc bảo vệ các quyền lợi quốc gia. Một lần nữa chúng ta được nhắc nhớ rằng “mỗi thế hệ mới phải phấn đấu và đạt được những hiểu biết của các thế hệ đi trước, trong khi xác lập những tầm nhìn cao hơn thế. Đó là nẻo đường. Sự thiện, cùng với tình yêu, công lý và tình liên đới, không đạt được một lần thay cho tất cả; chúng phải được thể hiện mỗi ngày. Không thể tự hài lòng với những gì đã đạt được trong quá khứ và hưởng dụng nó cách mãn nguyện, như thể chúng ta cách nào đó có thể phớt lơ thực tế rằng nhiều anh chị em mình vẫn đang chịu đựng những hoàn cảnh thống thiết kêu gọi sự chú ý của chúng ta”. (8)
  3. “Mở ra với thế giới” là một thành ngữ đã được tuyển chọn bởi lãnh vực kinh tế và tài chánh, và nay được dùng cách chuyên biệt để chỉ sự mở ra cho các lợi ích của nước ngoài, hay cho sự tự do của các cường quốc kinh tế trong việc đầu tư mà không bị những cản trở hay những rắc rối tại mọi quốc gia. Những xung đột địa phương và sự bất chấp lợi ích chung được nền kinh tế toàn cầu khai thác để áp đặt một mẫu văn hóa duy nhất. Thứ văn hóa này hợp nhất thế giới, nhưng phân rẽ các cá nhân và các dân tộc, vì “khi xã hội trở nên toàn cầu hóa hơn, nó làm cho chúng ta trở thành những người hàng xóm, nhưng không làm cho chúng ta thành anh em”. (9) Chúng ta trở nên cô đơn hơn bao giờ hết trong một thế giới ngày càng đồng nhất đại trà cổ võ những ích lợi cá nhân và làm suy yếu chiều kích đời sống cộng đồng. Thật vậy, có những thị trường mà ở đó các cá nhân trở thành những khách tiêu thụ thuần túy hay những kẻ bàng quan. Như một qui luật, sự tăng triển của loại toàn cầu hóa này càng củng cố căn tính của những người mạnh hơn, những người có thể bảo vệ chính mình, nhưng nó có chiều hướng làm suy giảm căn tính của những khu vực yếu và nghèo hơn, làm cho người ta càng chênh vênh và lệ thuộc nhiều hơn. Theo cách này, đời sống chính trị trở nên ngày càng mong manh đứng trước những thế lực kinh tế xuyên quốc gia vốn vận hành theo nguyên tắc “chia để trị”.

Sự kết thúc của ý thức lịch sử

  1. Điều xảy ra là cảm thức lịch sử ngày càng biến mất, dẫn tới tình trạng càng đổ vỡ thêm. Một xu hướng “phá vỡ kết cấu”, cho rằng sự tự do của con người có thể tạo lập mọi sự bắt đầu từ zê-rô, đang lấn lướt trong nền văn hóa hôm nay. Một hệ lụy của nó, đó là xung năng tiêu thụ vô giới hạn và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trống rỗng. Mối ưu tư về điều này thúc đẩy tôi đưa ra cho các bạn trẻ một lời khuyên. “Nếu có kẻ nào xúi các bạn trẻ đừng quan tâm đến lịch sử của mình, tẩy chay những kinh nghiệm của các bậc lão thành, xem thường quá khứ và hướng tới một tương lai mà kẻ ấy mời mọc, thì đấy không phải là để dễ dẫn dụ các bạn trẻ đến chỗ họ chỉ làm những gì kẻ ấy bảo họ làm đó sao? Kẻ ấy muốn các bạn trẻ nông cạn hời hợt, mất gốc và mất lòng tin, để các bạn trẻ chỉ tin vào những lời hứa của y và hành động theo các kế hoạch của y mà thôi. Đó là cách mà nhiều ý thức hệ khác nhau vận hành: chúng hủy diệt (hay làm phân rã) mọi sự khác biệt, để chúng có thể thống trị mà không bị phản đối. Nhưng để làm như thế, chúng cần những người trẻ xem thường lịch sử, những người vứt bỏ các kho tàng nhân bản và tâm linh thừa hưởng từ các thế hệ đi trước, và là những người không ý thức gì về mọi sự đã xảy ra trước mình”. (10)
  2. Đấy là những hình thức mới của thực dân văn hóa. Chúng ta đừng quên rằng “các dân tộc rũ bỏ truyền thống của mình, và hoặc bởi a dua muốn bắt chước người khác hay muốn kích động bạo lực, hoặc bởi thái độ lãnh đạm hay vô tâm không thể tha thứ được, các dân tộc ấy để cho kẻ khác tước mất chính linh hồn mình, rốt cục đánh mất luôn không chỉ căn tính tâm linh mà cả tính nhất quán đạo đức, và cuối cùng mất luôn sự độc lập về chính trị, kinh tế và tri thức của mình”. (11) Một cách hữu hiệu để làm suy yếu ý thức lịch sử, khả năng suy nghĩ có phê bình, việc tranh đấu cho công lý và những tiến trình hội nhập, đó là làm cho những từ ngữ quan trọng trở thành trống rỗng ý nghĩa hoặc bóp méo chúng. Ngày nay, một số từ như dân chủ, tự do, công lý hay hiệp nhất thực sự có ý nghĩa gì? Chúng đã bị uốn ép để phục vụ như những công cụ thống trị, những nhãn hiệu vô nghĩa có thể được dùng để biện minh cho bất kỳ hành động nào.

THIẾU MỘT KẾ HOẠCH CHO MỌI NGƯỜI

  1. Cách hay nhất để khống chế và kiểm soát người ta là làm lan tràn nỗi thất vọng chán chường, ngay cả dưới danh nghĩa bảo vệ những giá trị nào đó. Ngày nay tại nhiều nước, sự cường điệu, quá khích và phân cực đã trở thành những công cụ chính trị. Bằng nhiều cách thức sử dụng sách lược chế nhạo, nghi ngờ và chỉ trích dai dẳng, người ta phủ nhận quyền hiện hữu hay quyền có quan điểm riêng của người khác. Sự thật và các giá trị nơi người khác bị bác bỏ, và kết quả là đời sống xã hội trở nên nghèo nàn và phải chịu đựng sự ngạo mạn của kẻ có quyền lực. Đời sống chính trị không còn liên quan tới những cuộc tranh luận lành mạnh về các kế hoạch dài hạn để cải thiện đời sống con người và thăng tiến thiện ích chung, mà chỉ liên quan tới những kỹ thuật tuyên truyền tinh vi chủ yếu nhằm làm mất uy tín những kẻ khác. Trong cuộc rình rập đấu đá qua lại này, sự tranh luận suy thoái thành một tình trạng thường xuyên bất hòa và xung đột.
  2. Ở giữa những cọ xát do xung đột lợi ích, trong đó chiến thắng hệ tại việc loại trừ các đối thủ của mình, làm sao ta có thể nâng tầm nhìn lên để nhận ra những người thân cận của mình, hay giúp đỡ những người gục ngã trên đường? Một kế hoạch xác lập các mục tiêu lớn lao nhằm phát triển toàn thể gia đình nhân loại ngày nay xem chừng nghe có vẻ là điên rồ. Chúng ta đang trở nên ngày càng xa cách nhau, trong khi những bước đi chậm chạp và khó khăn hướng về một thế giới công bằng và hiệp nhất hơn thì đang bị một cú dội ngược mới và thảm hại.
  3. Chăm sóc thế giới mà ta sống trong đó có nghĩa là chúng ta chăm sóc chính mình. Nhưng chúng ta cần nghĩ nhiều hơn nữa về chính chúng ta như một gia đình duy nhất sống trong một mái nhà chung. Sự chăm sóc như thế không phải là mối quan tâm của những thế lực kinh tế muốn đòi những món lợi nhanh chóng. Những tiếng nói cất lên bảo vệ môi trường thường bị dập tắt hay chế nhạo, trong đó người ta dùng những lập luận nghe có vẻ hợp lý song đó chỉ là một cách che đậy các đặc quyền đặc lợi. Trong nền văn hóa nông cạn và thiển cận mà chúng ta đã tạo ra, thiếu một tầm nhìn chung, “thì có thể đoán trước rằng đến khi một số tài nguyên nào đó cạn kiệt, những cuộc chiến tranh mới sẽ nổ ra, dù che đậy bằng những danh nghĩa cao quí nào đó”. (12)

Một thế giới “vứt bỏ”

  1. Dường như một số thành phần trong gia đình nhân loại của chúng ta có thể bị hy sinh bất cứ lúc nào vì ích lợi của những người khác vốn được xem là có quyền sống một cách vô tư. Cuối cùng, “nhân vị không còn được xem là một giá trị cao nhất phải được quan tâm và kính trọng, nhất là khi người ta nghèo khổ và tàn tật, ‘chưa có ích’ – như các thai nhi, hay ‘không còn cần đến nữa’ – như những người già. Chúng ta ngày càng thản nhiên với mọi thứ hoang phí, trước hết là sự hoang phí thực phẩm, điều hết sức tồi tệ”. (13)
  2. Sự suy giảm trong tỉ lệ sinh sản, dẫn tới tình trạng dân số già nua, cùng với sự hất hủi người già khiến họ sống cô độc và buồn thảm, đó là một cách khéo léo để tuyên bố rằng chỉ chúng ta mới quan trọng, rằng những bận tâm cá nhân của chúng ta mới là điều duy nhất đáng kể. Theo cách này, “cái bị vứt bỏ không chỉ là thực phẩm và những đồ vật dư thừa, mà thường là chính những con người nữa”. (14) Chúng ta đã thấy những gì xảy ra với các cụ già tại một số nơi trên thế giới do hậu quả của vi-rút corona. Họ đã không phải chết cách đó. Nhưng một cái gì đó tương tự đã xảy ra từ lâu rồi trong những đợt nóng bức và trong những tình cảnh khác nữa: các cụ già thấy mình bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Chúng ta không nhận ra rằng khi cô lập người già và bỏ mặc họ cho sự săn sóc của những người dưng, không có sự thân thiết và quan tâm của người thân trong gia đình, thì đó là chúng ta đang làm méo mó và làm nghèo nàn chính gia đình. Chúng ta cũng đang tước mất của những người trẻ một sự nối kết cần thiết với các gốc rễ của họ, và tước mất một sự khôn ngoan mà người trẻ không thể tự mình đạt được.
  3. Cách loại bỏ người khác cũng có nhiều dạng, như khi người ta mải mê tìm cách giảm chi phí lao động, mà không quan tâm đến những hậu quả nghiêm trọng của điều đó, vì nạn thất nghiệp mà nó trực tiếp gây ra sẽ dẫn tới tình trạng nghèo túng tràn lan. (15) Ngoài ra, một sự sẵn sàng loại bỏ người khác được thể hiện nơi những thái độ độc ác mà chúng ta nghĩ rằng đã trôi qua lâu rồi, như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng thật sự vẫn ngầm ẩn đâu đó chỉ để tiếp tục bùng lên. Những trường hợp phân biệt chủng tộc tiếp tục làm chúng ta xấu hổ, vì chúng cho thấy rằng cái gọi là sự tiến bộ xã hội của chúng ta thì không có thực hay không rõ ràng như chúng ta nghĩ.
  4. Một số qui luật kinh tế đã tỏ ra rất hữu hiệu cho sự phát triển, nhưng không phải cho sự phát triển con người toàn diện. (16) Của cải gia tăng, nhưng sự bất bình đẳng cũng gia tăng, dẫn đến “những hình thức mới của nghèo khổ”. (17) Quan điểm rằng thế giới hiện đại đã làm giảm đi cái nghèo là quan điểm dựa trên việc đo lường cái nghèo theo các tiêu chuẩn trong quá khứ, không còn tương ứng với các thực tế ngày nay nữa. Chẳng hạn, vào các thời trước, tình trạng không có điện năng không được xem là một dấu hiệu của cái nghèo, tình trạng ấy cũng không phải là một nguồn của sự khổ cực. Cái nghèo luôn luôn phải được hiểu và lượng định trong bối cảnh của những cơ hội thực tế có sẵn tại mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.

Các quyền của con người không đủ phổ quát

  1. Trong thực tiễn, thường ta thấy rõ là các quyền con người không bình đẳng cho tất cả. Việc tôn trọng các quyền ấy “là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Khi phẩm giá của nhân vị được tôn trọng, và các quyền của người ta được bảo đảm, thì tính sáng tạo và tính phụ thuộc lẫn nhau sẽ triển nở, và khả năng sáng tạo của nhân cách con người sẽ phát tiết xuyên qua những hành động thúc đẩy thêm thiện ích chung”. (18) Thế nhưng, “khi nhìn kỹ các xã hội hiện thời của chúng ta, chúng ta thấy vô số những mâu thuẫn khiến ta tự hỏi phải chăng phẩm giá bình đẳng của mọi con người, vốn được long trọng tuyên bố cách đây bảy mươi năm, thực sự được nhìn nhận, được tôn trọng, bảo vệ và cổ võ trong mọi hoàn cảnh. Trong thế giới ngày nay, nhiều hình thức bất công vẫn còn dai dẳng, được nuôi dưỡng bởi những quan điểm nhân học phiến diện và bởi một mô hình kinh tế dựa trên lợi nhuận, do đó không ngần ngại bóc lột, vứt bỏ và ngay cả giết hại những con người. Trong khi một phần của nhân loại sống dư thừa xa xỉ, thì một phần khác thấy phẩm giá của mình bị phủ nhận, khinh rẻ hay chà đạp, và các quyền căn bản của mình bị vứt bỏ hay xâm phạm”. (19) Điều này nói gì với chúng ta về sự bình đẳng của các quyền cắm rễ sâu trong phẩm giá con người?
  2. Tương tự, việc tổ chức các xã hội trên khắp thế giới vẫn còn chưa phản ảnh bao nhiêu rằng phụ nữ có cùng phẩm giá và các quyền giống như nam giới. Chúng ta nói một đàng, nhưng các quyết định và thực tế của chúng ta lại đi một nẻo khác. Thật vậy, “có những người nghèo hai lần, đó là những phụ nữ phải chịu những hoàn cảnh bị loại trừ, bị ngược đãi và bạo hành, vì họ thường ít có khả năng bảo vệ các quyền của họ”. (20)
  3. Chúng ta cũng nên nhận ra rằng “ngay cả dù cộng đồng quốc tế đã có nhiều hiệp ước nhằm chấm dứt chế độ nô lệ trong mọi hình thức của nó, và đã đưa ra nhiều chiến lược khác nhau để đấu tranh với hiện tượng này, thì hàng triệu con người hôm nay – trẻ em, phụ nữ, nam giới, ở mọi lứa tuổi – vẫn đang bị tước mất tự do và bị cưỡng chế phải sống trong những điều kiện giống như nô lệ… Ngày nay, giống như trong quá khứ, chế độ nô lệ cắm rễ trong một quan niệm về nhân vị con người trong đó con người bị đối xử như một đồ vật… Bằng sự khống chế hay bằng lừa gạt, bằng sự đe dọa tâm lý hay thể lý, những nhân vị con người được sinh ra theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài bị tước mất tự do, bị bán và bị coi như là tài sản của kẻ khác. Họ bị đối xử như phương tiện để phục vụ cho mục đích… [Các mạng lưới tội phạm] rất tinh quái trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông như một cách dụ dỗ các chàng trai và các cô gái trẻ ở mọi miền trên thế giới”. (21) Một sự đồi bại vượt mọi giới hạn khi nó cưỡng bức phụ nữ và rồi buộc họ phá thai. Một sự ghê tởm đến mức bắt cóc người ta để bán nội tạng của họ. Nạn buôn người và những hình thức chiếm hữu nô lệ khác hiện nay là một vấn đề trên toàn thế giới cần phải được toàn thể nhân loại nghiêm túc lưu tâm: “vì các tổ chức tội phạm dùng những mạng lưới toàn cầu để đạt được các mục tiêu của chúng, các nỗ lực loại trừ hiện tượng này cũng đòi hỏi một cố gắng chung và thực sự có tính toàn cầu từ phía các bộ phận khác nhau của xã hội”. (22)

Xung đột và sợ hãi

  1. Chiến tranh, những cuộc tấn công khủng bố, sự bách hại tôn giáo và chủng tộc, và nhiều sự sỉ nhục khác đối với phẩm giá con người được đánh giá một cách khác nhau, tùy nó tỏ ra thuận lợi thế nào cho một số lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế. Điều được coi là đúng miễn là nó thuận lợi cho ai đó nắm quyền lực sẽ không còn đúng một khi nó trở nên bất lợi. Thật buồn để nói rằng những cảnh bạo lực này “đã trở thành quá phổ biến đến nỗi thực sự tạo nên một ‘thế chiến thứ ba’ từng phần”. (23)
  2. Điều nói trên không đáng ngạc nhiên, nếu chúng ta nhận ra rằng không còn những chân trời chung hợp nhất chúng ta nữa; thật vậy, nạn nhân thứ nhất của mọi cuộc chiến tranh là “tiếng gọi từ bên trong hướng đến tình huynh đệ của gia đình nhân loại”. Hậu quả là “mọi hoàn cảnh đe dọa sẽ gây mất sự tin tưởng và thúc đẩy người ta rút vào vùng an toàn của riêng mình”. (24) Thế giới chúng ta bị kẹt trong một mâu thuẫn kỳ lạ: chúng ta tin rằng mình có thể “bảo đảm ổn định và hòa bình xuyên qua một cảm thức an toàn giả tạo được nâng đỡ bởi một tâm thức sợ hãi và nghi ngờ”. (25)
  3. Thật nghịch lý, chúng ta có một số nỗi sợ truyền kiếp mà sự phát triển công nghệ đã không loại trừ được chúng; quả thật, những nỗi sợ ấy có thể ẩn nấp và lan tràn đằng sau các công nghệ mới. Ngày nay cũng vậy, bên ngoài những bức tường thành cổ là vực sâu, vùng đất bí ẩn, cảnh hoang vu. Bất cứ gì đến từ đó thì không thể tin tưởng được, vì nó bí ẩn, không quen, không phải là một phần của làng xã. Đó là vùng đất của “mọi rợ”, chúng ta phải chiến đấu chống lại họ để tự vệ bằng mọi giá. Thế là những bức tường mới được xây dựng lên để bảo vệ chính mình, thế giới bên ngoài ngừng tồn tại và chỉ còn thế giới “của tôi”, tới mức những người khác không còn được xem là những con người có phẩm giá bất khả nhượng, trở thành “chúng nó” mà thôi. Một lần nữa, chúng ta gặp “cơn cám dỗ xây dựng một nền văn hóa của những bức tường, xây tường lên khắp nơi, những bức tường trong trái tim, những bức tường trên mặt đất, để tránh gặp gỡ những nền văn hóa khác, những người khác. Và những người xây tường sẽ rốt cục trở thành nô lệ bên trong chính những bức tường mà họ đã xây lên. Họ trở thành những người không có chân trời, vì họ thiếu giao tiếp với người khác”. (26)
  4. Nỗi cô đơn, sợ hãi và bất an, được kinh nghiệm nơi những người cảm thấy mình bị bỏ rơi bởi hệ thống, sẽ tạo ra một mảnh đất màu mỡ cho đủ các loại “mafia”. Những thứ này sinh sôi bởi vì chúng tự coi là người bảo vệ cho những ai bị quên lãng, thường bằng cách cung cấp các hình thức hỗ trợ khác nhau, ngay cả trong khi chúng theo đuổi những lợi ích có tính tội phạm của mình. Cũng có tồn tại một khoa sư phạm đặc trưng “mafia”; bằng cách nại đến một thần bí cộng đồng giả tạo, nó tạo ra những mối ràng buộc lệ thuộc và trung thành mà người ta rất khó thoát ra.

TOÀN CẦU HÓA VÀ TIẾN BỘ MÀ KHÔNG CÓ MỘT HƯỚNG ĐI CHUNG

  1. Cùng với Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb, chúng tôi không bỏ qua những bước tiến tích cực được thực hiện trong các lãnh vực khoa học, công nghệ, y tế, công nghiệp và phúc lợi, nhất là tại các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, “chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cùng với những tiến bộ ấn tượng này, thật là to lớn và có giá trị, vẫn có tồn tại một sự suy thoái đạo đức ảnh hưởng đến tương tác quốc tế, và một tình trạng suy yếu các giá trị tâm linh và trách nhiệm. Điều này góp phần gây ra một cảm giác chán nản, cô độc và thất vọng”. Chúng tôi nhận thấy “những bộc phát căng thẳng và tình trạng tăng cường vũ khí và đạn dược trong một bối cảnh toàn cầu bị thống trị bởi những bất trắc, vỡ mộng, nỗi sợ hãi tương lai, và bị kiểm soát bởi những lợi ích kinh tế hẹp hòi”. Chúng tôi cũng có thể chỉ ra “những khủng hoảng lớn về chính trị, những tình trạng bất công và sự thiếu quân bình trong phân phối các nguồn tài nguyên thiên nhiên… Đứng trước những khủng hoảng như thế – gây ra cái chết của hàng triệu trẻ em, bị suy dinh dưỡng do nghèo đói – có một sự thinh lặng không thể chấp nhận được trên bình diện quốc tế”. (27) Bức tranh toàn cảnh này, dù với những tiến bộ không thể chối cãi của nó, có vẻ không dẫn tới một tương lai nhân đạo hơn.
  2. Trong thế giới ngày nay, cảm thức thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất đang mờ nhạt dần, và giấc mơ cùng làm việc với nhau mưu cầu công lý và hòa bình dường như là một lý tưởng đã lỗi thời. Thay vào đó, cái đang thống trị là một sự thờ ơ vô tâm lạnh lùng được toàn cầu hóa, phát sinh từ sự vỡ mộng sâu xa ẩn đằng sau một ảo tưởng có tính đánh lừa: ý nghĩ rằng chúng ta toàn năng, trong khi không nhận ra rằng tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con thuyền. Ảo tưởng này, không chút ý thức về các giá trị lớn lao của tình huynh đệ, dẫn tới “một loại chủ trương yếm thế. Bởi đó là cám dỗ chúng ta sẽ gặp nếu đi theo con đường vỡ mộng và thất vọng… Tình trạng cô lập và sự rút vào trong những lợi ích riêng mình không bao giờ là con đường phục hồi niềm hy vọng và đem lại sự đổi mới. Đúng hơn, phải là sự gần gũi; phải là nền văn hóa gặp gỡ. Hãy nói ‘không’ với cô lập, và nói ‘vâng’ với gần gũi! Hãy nói ‘không’ với văn hóa đối đầu, và hãy nói ‘vâng’ với văn hóa gặp gỡ”. (28)
  3. Trong thế giới đang lao gấp về phía trước này, nhưng lại thiếu một định hướng chung, chúng ta ngày càng cảm thấy rằng “khoảng cách giữa mối bận tâm về sự sung túc riêng mình và sự sung túc của gia đình nhân loại rộng lớn hơn dường như là một khoảng cách đang giãn ra tới mức phân hóa hoàn toàn giữa các cá nhân và cộng đồng nhân loại… Việc cảm thấy buộc lòng phải sống với nhau là một chuyện, nhưng việc trân trọng sự phong phú và vẻ đẹp nơi những hạt giống của đời sống chung cần được tìm kiếm và chăm sóc, thì đó lại là một chuyện hoàn toàn khác”. (29) Công nghệ thì thường xuyên tiến bộ, nhưng “sẽ tuyệt vời biết bao nếu sự phát triển của việc đổi mới khoa học và công nghệ có thể song hành với việc có sự bình đẳng và sự bao gồm xã hội nhiều hơn. Tuyệt vời biết bao, nếu trong khi chúng ta khám phá những hành tinh rất xa xăm, thì chúng ta cũng khám phá lại các nhu cầu của những người anh em chị em đang đi xung quanh mình”. (30)

NHỮNG ĐẠI DỊCH VÀ NHỮNG TAI ƯƠNG KHÁC TRONG LỊCH SỬ

  1. Quả là một bi kịch toàn thế giới như cơn đại dịch Covid-19 đã tức thời khơi lại cảm thức rằng chúng ta là một cộng đồng toàn cầu, tất cả ở trên cùng một con thuyền, trong đó những vấn đề của một người là những vấn đề của tất cả. Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng không ai được cứu một mình; chúng ta chỉ có thể được cứu cùng với nhau. Như tôi đã nói trong những ngày đó: “Cơn bão đã phơi bày sự mong manh của chúng ta, và cho thấy những sự an ổn hời hợt và giả tạo mà chúng ta đã dựa vào đó để thiết lập thời biểu hằng ngày của mình, thiết lập những kế hoạch, những thói quen và những mối ưu tiên của mình… Ở giữa cơn bão này, bộ mặt của những khuôn mẫu mà chúng ta dùng để che đậy cái tôi của mình – bởi ta luôn lo lắng về những dáng vẻ bên ngoài – bộ mặt ấy đã rơi đi, và một lần nữa cho thấy cái ý thức hiển nhiên và chân thực rằng chúng ta là một phần của nhau, chúng ta là anh em chị em của nhau”. (31)
  2. Thế giới đã ngang nhiên tiến tới một nền kinh tế tìm cách giảm “các chi phí con người”, nhờ vào những tiến bộ công nghệ; có những người muốn thuyết phục chúng ta tin rằng sự tự do của thị trường là đủ để giữ mọi sự được yên ổn. Nhưng cú tát dữ dội bất ngờ của cơn đại dịch bất kham này đã buộc chúng ta phải phục hồi lại mối quan tâm dành cho con người, cho mọi người, thay vì cho lợi ích của một ít người. Ngày nay chúng ta có thể nhận ra rằng “chúng ta đã nuôi mình bằng những giấc mơ huy hoàng vĩ đại, để kết cuộc là hứng lấy sự phiền trí, sự đóng kín và cô độc. Chúng ta mải mê tạo các mối quan hệ, và đánh mất cảm giác về tình huynh đệ. Chúng ta tìm kiếm những kết quả nhanh chóng và chắc chắn, chỉ để tìm thấy chính mình ngập chìm trong sự nóng nảy và lo âu. Là những tù nhân của một thực tế ảo, chúng ta đánh mất hương vị của những gì thực sự là hiện thực”. (32) Cơn đại dịch đem lại nỗi đau đớn, bất an và sợ hãi, và giúp ta nhận ra những giới hạn của chính mình, điều này càng cho thấy ta phải khẩn thiết suy nghĩ lại về lối sống của mình, về các mối tương quan của chúng ta, về sự tổ chức các xã hội của chúng ta, và nhất là về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
  3. Nếu mọi sự nối kết nhau, thì thật khó tưởng tượng rằng tai họa toàn cầu này không dính dáng gì đến cách chúng ta tiếp cận thực tại, cũng như việc ta tự coi mình là chủ nhân tuyệt đối của cuộc sống mình và của tất cả những gì hiện hữu. Tôi không muốn nói về sự trừng phạt của Thiên Chúa, cũng sẽ bất cập nếu nói rằng việc chúng ta phá hại thiên nhiên thì tự nó là hình phạt cho những xúc phạm của chúng ta. Chính thế giới đang kêu gào phản loạn. Chúng ta được nhắc nhớ câu thơ nổi tiếng của Virgil về “nước mắt của mọi vật”, về những mối họa của đời sống và của lịch sử. (33)
  4. Tuy nhiên, thật nhanh chóng, chúng ta quên những bài học của lịch sử là “vị thầy dạy sống”. (34) Một khi cơn khủng hoảng y tế này trôi qua, câu trả lời tệ nhất của chúng ta sẽ là cắm đầu sâu hơn nữa vào thói hăm hở tiêu thụ và những hình thức mới của bản năng tự tồn nhuốm màu ích kỷ. Hy vọng rằng sau tất cả những điều này, chúng ta sẽ không còn nghĩ về “họ” hay “chúng nó”, nhưng chỉ nghĩ về “chúng ta”. Ước gì đây không chỉ là thêm một bi kịch nữa trong lịch sử mà chúng ta không rút ra được bài học gì từ nó. Ước gì chúng ta không quên tất cả những cụ già đã phải chết do thiếu máy trợ thở, phần nào đó là hậu quả của sự phân rã các hệ thống y tế từ năm này qua năm khác. Ước gì nỗi buồn đau này không trở thành vô ích, nhưng có thể giúp chúng ta bước tới một phong cách sống mới. Ước gì chúng ta có thể khám phá lại một cách rõ ràng dứt khoát rằng chúng ta cần nhau, và rằng bằng cách này gia đình nhân loại của chúng ta có thể kinh nghiệm một cuộc tái sinh, với tất cả các khuôn mặt của nó, với tất cả những bàn tay và những tiếng nói của nó, bên kia những bức tường mà chúng ta đã dựng lên.
  5. Nếu chúng ta không phục hồi niềm say mê cùng nhau kiến tạo một cộng đồng với cảm thức thuộc về và liên đới với nhau, xứng đáng với thời gian, năng lực và các nguồn tài nguyên của mình, thì cái ảo tưởng toàn cầu từng dẫn chúng ta đi lạc sẽ sụp đổ và đặt nhiều người vào gọng kìm của khổ sở và trống rỗng. Chúng ta cũng sẽ không ngây thơ phủ nhận sự thật rằng “việc đắm chìm trong một lối sống hưởng thụ, nhất là khi chỉ một ít người có khả năng đạt được nó, chỉ có thể dẫn tới bạo lực và sự hủy diệt lẫn nhau”. (35) Quan niệm “phần ai nấy lo” sẽ nhanh chóng dẫn tới một tình trạng hỗn loạn còn tệ hại hơn bất cứ cơn đại dịch nào.

KHÔNG THẤY NHÂN PHẨM Ở CÁC VÙNG BIÊN GIỚI

  1. Một số chế độ chính trị dân túy, cũng như một số đường lối kinh tế tự do, chủ trương rằng bằng mọi giá phải ngăn chặn tình trạng tràn ngập di dân. Người ta cũng đưa ra các luận điểm biện minh cho việc giới hạn sự trợ giúp các nước nghèo, rằng để các nước ấy rơi xuống tận đáy và nhận ra rằng họ phải thắt lưng buộc bụng. Người ta không nhận thức được rằng đằng sau những tuyên bố như thế, vốn rất trừu tượng và khó chấp nhận, có vô số mảnh đời đang lâm nguy. Nhiều di dân đã chạy trốn tránh chiến tranh, bách hại, và thiên tai. Những người khác, quả thật, “đang tìm kiếm các cơ hội cho bản thân và gia đình mình. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và họ muốn tạo ra các điều kiện để đạt được tương lai ấy”. (36)
  2. Buồn thay, một số người “bị lôi cuốn bởi nền văn hóa phương Tây, đôi khi với các kỳ vọng không thực tế để rồi phải hứng thất vọng ê chề. Những kẻ buôn lậu bất lương thường liên kết với các tập đoàn ma túy hay vũ khí để khai thác điểm yếu của những người di dân, là những người thường kinh nghiệm bạo lực, việc buôn bán phi pháp, sự lạm dụng tâm lý và thể lý, và vô vàn nỗi khổ trên hành trình của họ”. (37) Những người ra đi thì “kinh nghiệm sự tách rời khỏi nguyên quán của mình, cũng như thường kinh nghiệm một sự bật rễ về tôn giáo và văn hóa. Tình trạng phân rã cũng được cảm nhận bởi những cộng đồng mà họ bỏ lại sau lưng – những cộng đồng ấy đánh mất các phần tử năng động và trổi trang nhất của mình – cũng như được cảm nhận bởi các gia đình, nhất là khi một hay cả hai cha mẹ di cư, để con cái lại ở quê nhà”. (38) Vì thế, “cũng cần phải khẳng định lại quyền không di cư, nghĩa là người ta có quyền ở lại quê hương của họ”. (39)
  3. Thêm nữa, “tại một số nước chủ nhà, hiện tượng di dân gây ra sự sợ hãi và cảnh giác, thường được kích động và khai thác để phục vụ những mục tiêu chính trị. Điều này có thể dẫn tới một não trạng bài ngoại, trong đó người ta đóng kín nơi chính mình, cần phải giải quyết dứt khoát não trạng như thế”. (40) Những người di dân không được xem là có quyền tham gia vào đời sống xã hội như những người khác, và người ta quên rằng người di dân có cùng phẩm giá thâm sâu như bất cứ ai. Vì thế họ phải là “những tác nhân trong công cuộc cứu chuộc của chính mình”. (41) Không ai dám công khai bảo rằng họ không phải là những con người, nhưng trong thực tế, qua những quyết định và cách thức chúng ta đối xử với họ, chúng ta có thể cho thấy rằng chúng ta xem họ như ít có giá trị, ít quan trọng, ít là người hơn. Đối với các Kitô hữu, lối suy nghĩ và hành động này không thể chấp nhận được, vì nó đặt một số quan tâm chính trị lên trên những xác tín sâu xa của đức tin chúng ta: phẩm giá bất khả nhượng của mỗi nhân vị bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo, cùng với luật tối thượng là tình yêu huynh đệ.
  4. “Hiện tượng di dân, hơn bất cứ thời nào trước đây, sẽ đóng một vai trò then chốt trong tương lai của thế giới chúng ta”. (42) Tuy nhiên, hiện nay việc di dân bị ảnh hưởng bởi “tình trạng mất cảm thức trách nhiệm đối với anh chị em mình, cảm thức mà mọi xã hội dân sự đặt nền trên đó”. (43) Âu Châu, chẳng hạn, đang có nhiều nguy cơ trôi theo nẻo đường này. Dù sao, “được trợ giúp bởi di sản tôn giáo và văn hóa lớn lao của mình, lục địa này có phương tiện để bảo vệ tính trung tâm của nhân vị và để tìm ra sự cân bằng đúng đắn giữa trách nhiệm luân lý lưỡng diện của mình, đó là vừa bảo vệ quyền lợi của các công dân vừa bảo đảm sự trợ giúp và đón nhận những người nhập cư”. (44)
  5. Tôi nhận thấy một số người lưỡng lự và lo sợ trước những người nhập cư. Tôi xem đây là một phần của bản năng tự vệ tự nhiên của chúng ta. Tuy nhiên, cũng hiển nhiên rằng một cá nhân và một dân tộc chỉ triển nở và phong phú khi có thể phát triển một thái độ cởi mở đầy sáng tạo đối với người khác. Tôi xin mọi người vượt qua những cách phản ứng quá sơ khai nói trên, vì “sẽ là vấn đề khi những nghi ngờ và sợ hãi dẫn dắt cách nghĩ và cách hành động của chúng ta, tới mức làm cho chúng ta trở thành bất bao dung, đóng kín và có lẽ ngay cả kỳ thị chủng tộc mà không hề ý thức. Theo cách này, sự sợ hãi tước khỏi chúng ta khát vọng và khả năng gặp gỡ người khác”. (45)

ẢO TƯỞNG CỦA TRUYỀN THÔNG

  1. Thật kỳ quặc, trong khi những thái độ đóng kín và bất bao dung đối với người khác đang trên đà gia tăng, thì những khoảng cách đang thu lại hay biến mất, tới mức quyền riêng tư dường như không còn tồn tại. Mọi sự đã trở thành một thứ sân khấu cho người ta khảo sát và do thám, và cuộc sống con người giờ đây thường xuyên bị giám sát. Truyền thông kỹ thuật số muốn đưa tất cả ra công khai; cuộc sống của người ta bị săm soi, bị phơi trần và kháo láo, thường là một cách vô danh. Sự tôn trọng người khác bị tan vỡ, và trong khi chúng ta loại trừ, thờ ơ hay giữ khoảng cách với người khác, thì chúng ta lại có thể trơ tráo lùng sục vào mọi chi tiết trong cuộc sống của họ.
  2. Những chiến dịch trên mạng có tính thù hận và hủy diệt, về phần chúng, không phải là một hình thức tích cực của sự tương trợ – như một số người muốn làm cho chúng ta tin như thế – song đó chỉ là một khối liên kết các cá nhân để chống lại một ai đó được cho là kẻ thù chung. “Truyền thông kỹ thuật số cũng có thể đặt người ta trước nguy cơ nghiện ngập, cô lập và dần dần đánh mất sự tiếp xúc với thực tế cụ thể, chặn đứng sự phát triển các mối tương quan liên vị đích thực”. (46) Chúng không có những cử chỉ thân thể, những diễn tả trên nét mặt, những khoảnh khắc thinh lặng, ngôn ngữ thân xác và thậm chí không có mùi hương, không có cái run rẩy của đôi bàn tay, sự đỏ mặt hay toát mồ hôi, là những điều có thể nói với chúng ta và là một phần của truyền thông con người. Những mối tương quan trên mạng, vốn không đòi hỏi sự vun xới dần dần tình thân hữu, sự tương tác ổn định hay việc xây dựng một sự đồng tâm nhất trí chín muồi qua thời gian, chúng có dáng vẻ của sự hòa đồng. Nhưng chúng không thực sự làm nên cộng đồng; thay vào đó, chúng có khuynh hướng che đậy và bành trướng cái chủ nghĩa cá nhân được biểu hiện nơi sự bài ngoại và sự coi thường những người yếu đuối. Sự nối kết trên mạng không đủ để xây dựng những nhịp cầu. Nó không có khả năng hợp nhất nhân loại.

Sự hung hăng trơ trẽn

  1. Dù các cá nhân giữ tình trạng cô lập có tính hưởng thụ và thoải mái của mình, họ có thể chọn một dạng gắn kết sốt sắng và thường xuyên, trong đó họ rõ ràng cổ vũ thái độ thù địch, những lăng mạ, lạm dụng, phỉ báng, và ngôn ngữ bạo lực có sức hủy diệt người khác – và những điều này được thể hiện một cách thiếu kiềm chế, theo cách không thể tồn tại trong thế giới thực mà không xé nát vụn chúng ta. Sự gây hấn xã hội đã tìm thấy chỗ ‘tốt nhất’ của nó để lan tỏa xuyên qua các máy tính và các thiết bị di động.
  2. Hiện nay tình hình này đã thả phanh cho các ý thức hệ. Có những điều mà cho tới ít năm cách đây thôi không ai có thể nói mà không có nguy cơ đánh mất sự tôn trọng của mọi người, thì nay người ta có thể nói mà không hề hấn gì, và nói thẳng tuột, ngay cả bởi một số chính khách tên tuổi. Chúng ta cũng đừng quên rằng “có những lợi nhuận khổng lồ vận hành trong thế giới kỹ thuật số, nó có thể có những hình thức kiểm soát vừa rất tinh vi vừa rất lan tràn, tạo ra cơ chế cho sự dẫn dụ lương tâm người ta và sự lừa mị tiến trình dân chủ. Cách thế mà nhiều diễn đàn làm việc thường dẫn đến chỗ ủng hộ sự gặp gỡ giữa những người có suy nghĩ giống nhau, tránh cho họ khỏi bị tranh cãi. Những nhóm đóng kín này dễ tạo điều kiện cho sự lan truyền tin giả và thông tin không đúng, kích động thành kiến và đố kỵ”. (47)
  3. Chúng ta cũng cần nhận ra rằng những hình thức cực đoan đầy sức tàn phá đôi khi được tìm thấy giữa các tín đồ của các tôn giáo, kể cả các Kitô hữu; họ cũng “có thể bị cuốn vào mạng lưới ngôn ngữ bạo lực trên mạng internet và những diễn đàn khác nhau của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trong truyền thông Công giáo, có thể người ta cũng bỏ qua các giới hạn, việc bôi nhọ và vu khống có thể trở nên phổ biến, và người ta có thể vứt bỏ mọi tiêu chuẩn đạo đức và sự tôn trọng thanh danh của người khác”. (48) Làm sao điều này có thể đóng góp vào tình huynh đệ mà Cha trên trời kêu gọi chúng ta?

Thông tin mà không có sự khôn ngoan

  1. Sự khôn ngoan đích thực đòi hỏi phải gặp gỡ thực tại. Tuy nhiên, ngày nay mọi sự có thể được tạo ra, ngụy trang và thay thế. Vì thế, một sự gặp gỡ trực tiếp với chỉ men bờ của thực tại cũng có thể được thấy là quá sức chịu đựng. Bấy giờ một thứ nguyên tắc chọn lựa sẽ nhập cuộc, theo đó tôi có thể ngay lập tức phân ra hai loại: thích và không thích; tức những gì tôi thấy hấp dẫn và những gì tôi thấy ngán ngẩm. Tương tự, chúng ta có thể chọn những người mà mình muốn chia sẻ thế giới của mình với họ. Còn những người hay những tình huống mà ta thấy không thích thú hay không hợp ý thì đương nhiên bị xóa trong mạng lưới ảo hôm nay; như vậy một nhóm ảo được tạo ra, cô lập chúng ta khỏi thế giới thực mà mình sống trong đó.
  2. Khả năng ngồi xuống và lắng nghe người khác, đặc trưng của những gặp gỡ liên vị, là kiểu thức của thái độ nồng nhiệt nơi những người vượt qua xu hướng ái kỷ và đón nhận người khác, quan tâm đến họ và đón nhận họ vào cuộc sống mình. Nhưng “thế giới ngày nay nhìn chung là một thế giới điếc… Nhiều khi, nhịp sống hối hả của thế giới hiện đại không cho phép chúng ta chú ý lắng nghe những gì mà người khác nói. Mới nghe nửa chừng, chúng ta ngắt lời người ấy và muốn cãi lại điều mà người ấy thậm chí chưa nói xong. Chúng ta không được đánh mất khả năng lắng nghe”. Thánh Phanxicô “nghe tiếng nói của Thiên Chúa, ngài nghe tiếng nói của người nghèo, tiếng nói của người đau yếu, và tiếng nói của thiên nhiên. Ngài lấy tất cả làm con đường sống. Tôi mong ước hạt giống mà Thánh Phanxicô đã gieo trồng có thể lớn lên trong trái tim của nhiều người”. (49)
  3. Khi sự thinh lặng và sự chú ý lắng nghe biến mất, bị thay thế bằng đủ thứ tin nhắn, thì cấu trúc căn bản này trong sự truyền thông của con người khôn ngoan bị lâm nguy. Một lối sống mới nổi lên, trong đó chúng ta tạo ra chỉ những gì chúng ta muốn, và loại bỏ tất cả những gì chúng ta không thể kiểm soát hay không thể biết được cách hời hợt và ngay tức thì. Tiến trình này, do lô-gic nội tại của nó, chặn đứng loại suy tư thanh thản có thể dẫn chúng ta đến một sự khôn ngoan chung.
  4. Cùng với nhau, chúng ta có thể tìm kiếm sự thật trong đối thoại, trong trao đổi nhẹ nhàng hay trong tranh luận sôi nổi. Để làm thế, cần kiên nhẫn; nó gắn liền với những khoảnh khắc thinh lặng và đau khổ, nhưng nó có thể nhẫn nại đón nhận kinh nghiệm lớn hơn của các cá nhân và các dân tộc. Cơn lũ thông tin ở các đầu ngón tay chúng ta không đem lại nhiều khôn ngoan hơn. Sự khôn ngoan không sinh ra từ những tra cứu nhanh trên internet, nó cũng không phải là một mớ dữ liệu không được xác thực. Đó không phải là cách để trưởng thành trong gặp gỡ sự thật. Những cuộc trò chuyện chỉ xoay quanh các dữ kiện mới nhất; chúng trở thành duy chỉ một chiều ngang và được chất đống. Chúng ta không tập trung được sự chú ý của mình, để thâm nhập vào cốt lõi của sự vật, và để nhận ra cái gì là thiết yếu trao ban ý nghĩa cho đời sống chúng ta. Như thế tự do trở thành một ảo tưởng mà chúng ta được nhồi nhét cho, nó dễ bị lẫn lộn với khả năng lướt mạng internet. Tiến trình xây dựng tình huynh đệ, ở cấp địa phương hay phổ quát, chỉ có thể được đảm nhận bởi những tinh thần thực sự tự do và mở ra cho những sự gặp gỡ chân thực.

NHỮNG HÌNH THỨC PHỤC TÙNG VÀ TỰ COI THƯỜNG MÌNH

  1. Một số quốc gia sung túc về kinh tế thường được biểu dương như những hình mẫu văn hóa cho các nước kém phát triển hơn; thay vào đó, mỗi quốc gia nên được giúp đỡ để phát triển theo cách thức riêng của mình, và phát triển khả năng đổi mới của mình trong khi tôn trọng các giá trị văn hóa của riêng mình. Một ao ước nông cạn và ngớ ngẩn muốn bắt chước kẻ khác sẽ dẫn người ta tới chỗ sao chép và tiêu thụ thay vì sáng tạo, và sẽ củng cố mặc cảm tự ti dân tộc. Tại những khu nhà giàu của nhiều nước nghèo, và đôi khi nơi những người vừa mới thoát lên khỏi cảnh nghèo, có một sự đề kháng đối với những cách nghĩ và cách làm của bản xứ, và một khuynh hướng coi thường căn tính văn hóa của chính mình, như thể đó là nguyên nhân duy nhất của mọi sự yếu kém.
  2. Tiêu diệt lòng tự trọng là một cách dễ dàng để thống trị người khác. Đàng sau những xu hướng san phẳng thế giới của chúng ta có nổi lên những lợi ích của kẻ mạnh tìm cách lợi dụng thái độ tự ti như thế, trong khi cố dùng mạng lưới truyền thông để tạo ra một nền văn hóa mới nhằm phục vụ tầng lớp thượng lưu. Điều này chống đỡ cho chủ nghĩa cơ hội của các nhà đầu tư và các nhà khai thác tài chính, rốt cục người nghèo luôn luôn là những người chịu thiệt. Thêm nữa, việc coi thường văn hóa của dân chúng đã dẫn tới sự bất lực của nhiều chính khách lãnh đạo trong việc phác họa một kế hoạch phát triển hữu hiệu có thể được người ta tự do chấp nhận và ủng hộ lâu dài.
  3. Chúng ta quên rằng “không có hình thức tha hóa nào tệ hơn là cảm giác bị mất gốc, chẳng thuộc về gì cả. Một xứ sở sẽ phồn vinh, người dân ở đó sẽ thành đạt và kiến tạo được tương lai chỉ trong mức độ nó có thể thúc đẩy một cảm thức thuộc về giữa các thành viên của mình, tạo ra những mối gắn kết giữa các thế hệ và các cộng đồng khác nhau, và tránh tất cả những gì làm cho ta vô cảm với người khác và gây ra tha hóa nhiều hơn”. (50)

HY VỌNG

  1. Bất chấp những đám mây đen ấy, mà chúng ta không thể phớt lơ, trong những trang sau đây tôi muốn đề cập và thảo luận nhiều nẻo đường mới của niềm hy vọng. Vì Thiên Chúa không ngừng gieo vãi tràn lan những hạt giống tốt lành trong gia đình nhân loại chúng ta. Cơn đại dịch vừa qua giúp chúng ta một lần nữa nhận ra và trân trọng tất cả những con người xung quanh chúng ta đã đáp lại bằng cách sẵn sàng đặt mạng sống của mình lên tuyến đầu, ngay giữa nỗi sợ hãi. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng sự sống của chúng ta được đan kết với và được nâng đỡ bởi những con người bình thường dũng cảm làm nên những biến cố quyết định trong lịch sử chung của chúng ta: các bác sĩ, y tá, dược sĩ, các chủ cửa hàng và các nhân viên siêu thị, những nhân viên vệ sinh, những người chăm sóc, những công nhân ngành giao thông, những người nam và nữ làm việc để cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an ninh công cộng, các tình nguyện viên, các linh mục và tu sĩ… Họ hiểu rằng không ai được cứu một mình. (51)
  2. Tôi mời gọi mọi người đến với niềm hy vọng mới mẻ, vì hy vọng “nói với chúng ta về một cái gì đó cắm rễ sâu trong mọi trái tim con người, dù hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của chúng ta thế nào đi nữa. Hy vọng nói với chúng ta về một nỗi khát khao, một cảm hứng, một mong ước đời sống viên mãn, một khát vọng đạt được những điều cao cả, những điều lấp đầy con tim chúng ta và nâng tinh thần chúng ta lên những thực tại cao thượng như chân, thiện, mỹ, công lý, và tình yêu… Hy vọng là dũng cảm; nó có thể nhìn quá sự tiện lợi riêng mình, những sự an toàn và những phần thưởng vụn vặt vốn làm giới hạn chân trời của chúng ta, và nó có thể khai mở chúng ta tới những lý tưởng lớn lao làm cho đời sống đẹp hơn và đáng giá hơn”. (52) Vì thế, chúng ta hãy tiếp tục bước tới trên những nẻo đường hy vọng.

CHƯƠNG II

MỘT KHÁCH LẠ TRÊN ĐƯỜNG

  1. Không nên đọc chương trước như một mô tả lạnh lùng và tách rời khỏi những vấn đề ngày nay, vì “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người thời nay, nhất là của những người nghèo và đau khổ, là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô. Không có gì thực sự là con người mà không gieo âm hưởng trong lòng các môn đệ Chúa”. (53) Trong cố gắng tìm kiếm một tia sáng giữa những gì mà chúng ta đang kinh nghiệm, và trước khi nêu ra một vài hướng hành động, giờ đây tôi muốn dành chương này cho một dụ ngôn được Chúa Giêsu kể cách đây hai ngàn năm. Mặc dù Thông điệp này được gửi cho mọi người thiện chí, bất kể những niềm xác tín tôn giáo của họ, dụ ngôn ở đây là một câu chuyện mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể liên hệ và nhận thấy mình bị thách đố.

Có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”  Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Đức Giê-su đáp: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

Bối cảnh

  1. Dụ ngôn này liên quan tới một vấn đề từ thời xa xưa. Không lâu sau trình thuật về việc tạo dựng thế giới và con người, Thánh Kinh nói đến vấn đề các mối tương quan của con người. Cain giết em mình là Abel và rồi nghe Thiên Chúa nói: “Abel em ngươi đâu?” (St 4,9). Câu trả lời của anh ta là một câu trả lời mà chính chúng ta rất thường đưa ra: “Tôi là người giữ em tôi sao?” (ibid.). Với chính câu hỏi của Ngài, Thiên Chúa không dành chỗ nào cho một sự viện dẫn thuyết tiền định hay thuyết định mệnh như một biện minh cho thái độ thờ ơ của chúng ta. Thay vào đó, Ngài khuyến khích chúng ta tạo ra một nền văn hóa khác, trong đó chúng ta giải quyết những xung đột của mình và quan tâm chăm sóc nhau.
  2. Sách Gióp nhìn thấy nguồn gốc của chúng ta nơi Đấng Sáng tạo duy nhất là nền tảng của một số quyền phổ quát: “Đấng đã tạo ra tôi trong dạ mẹ không phải là Đấng tạo ra nó hay sao? Không phải cũng một Thiên Chúa đã tạo ra chúng tôi hết thảy sao?” (G 31,15). Nhiều thế kỷ sau, Thánh Irênê sẽ dùng hình ảnh một giai điệu để nói điều tương tự: “Người tìm kiếm chân lý không nên tập trung vào những khác biệt giữa nốt nhạc này với một nốt khác, như thể cho rằng mỗi nốt được tạo ra cách riêng biệt và tách rời khỏi những nốt khác; thay vào đó, người ấy nên nhận ra rằng chỉ một tác giả duy nhất đã soạn trọn vẹn giai điệu”. (54)
  3. Trong các truyền thống xa xưa của Do thái giáo, mệnh lệnh yêu thương và chăm sóc người khác có vẻ bị giới hạn nơi các mối tương quan giữa các thành viên của cùng một dân tộc. Điều răn cổ xưa dạy “hãy yêu người thân cận như chính mình” (Lv 19,18) thường được hiểu là qui chiếu đến đồng bào của mình, nhưng các vành đai dần dần được mở rộng ra, nhất là những nơi Do thái giáo phát triển bên ngoài lãnh thổ Israel. Chúng ta gặp lệnh truyền đừng làm cho người khác điều bạn không muốn họ làm cho bạn (x. Tb 4,15). Vào thế kỷ thứ nhất trước Chúa Kitô, Rabbi Hillel tuyên bố: “Đó là toàn bộ Lề Luật. Mọi điều khác chỉ là diễn giải”. (55) Khát vọng bắt chước chính đường lối hành động của Thiên Chúa dần dần thay thế cho khuynh hướng chỉ nghĩ về những người ở gần chúng ta: “Tình thương của con người dành cho người thân cận, nhưng tình thương của Đức Chúa thì dành cho mọi sinh linh” (Hc 18,13).
  4. Trong Tân Ước, nguyên tắc của Hillel được diễn tả theo hướng tích cực: “Trong mọi sự, hãy làm cho người khác những gì anh em muốn họ làm cho anh em; vì đó là Lề Luật và lời các ngôn sứ” (Mt 7,12). Lệnh truyền này có tầm phổ quát, bao trùm hết mọi người trong nhân loại chúng ta, vì Cha trên trời “cho mặt trời của Người mọc lên trên kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,45). Vì thế có lời hiệu triệu “hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng đầy lòng xót thương” (Lc 6,36).
  5. Trong các bản văn cũ xưa nhất của Thánh Kinh, chúng ta tìm thấy một lý do tại sao tấm lòng chúng ta phải mở ra để ôm lấy người ngoại kiều. Nó rút ra từ ký ức sâu đậm của dân Do thái về sự kiện rằng chính họ đã từng là những ngoại kiều ở Ai Cập:

“Người ngoại kiều, các ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều bên Ai Cập” (Xh 22,20).

“Người ngoại kiều, các ngươi không được áp bức; chính các ngươi đã biết thân phận của người ngoại kiều, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập” (Xh 23,9).

“Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập” (Lv 19,33-34).

“Khi hái nho, thì anh em không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ. Anh em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập” (Đnl 24,21-22).

Tiếng gọi tình yêu huynh đệ âm vang trong toàn bộ Tân Ước:

“Vì toàn bộ Lề Luật được tóm lại trong một điều răn duy nhất: ‘Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình’” (Gl 5,14).

“Ai yêu anh chị em mình thì ở trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì là cớ vấp phạm. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối” (1Ga 2,10-11).

“Chúng ta biết rằng chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết” (1Ga 3,14).

“Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

  1. Nhưng tiếng gọi yêu thương có thể bị hiểu nhầm. Thánh Phaolô, nhận ra cái cám dỗ của các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, trong đó họ muốn hình thành những nhóm cô lập và đóng kín, ngài đã thúc đẩy các môn đệ của ngài yêu thương thắm thiết “đối với nhau và đối với mọi người” (1Tx 3,12). Trong cộng đoàn của Gioan, các anh em Kitô hữu phải được đón tiếp, “dù họ là những người xa lạ đối với anh” (3Ga 5). Trong bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa của dụ ngôn Người Samari Tốt Lành: tình yêu không đặt vấn đề người anh em hay chị em đang cần giúp đỡ kia đến từ nơi này hay nơi khác. Vì “tình yêu đập vỡ những sợi xích giữ chúng ta trong tình trạng cô lập và tách rời; thay vào đó, tình yêu xây dựng những cây cầu. Tình yêu giúp chúng ta tạo ra một gia đình lớn, ở đó tất cả chúng ta có thể cảm thấy như ở nhà… Tình yêu phát tiết ra lòng thương cảm và phẩm giá”. (56)

Bị bỏ bên đường

  1. Chúa Giêsu kể câu chuyện về một người bị bọn cướp tấn công và nằm bên vệ đường với đầy thương tích. Vài người đi qua chỗ anh ta, nhưng đã không dừng lại. Đây là những người ở những địa vị quan trọng trong xã hội, nhưng thiếu mối quan tâm thực sự đối với thiện ích chung. Họ không chấp nhận bỏ ra vài phút để ghé mắt đến con người bị thương kia, hay thậm chí để gọi người cứu giúp. Chỉ một người dừng lại, đến gần nạn nhân và đích thân chăm sóc, ngay cả bỏ tiền của mình ra để chi trả cho các nhu cầu của nạn nhân. Người này cũng dành cho nạn nhân một cái gì đó mà trong thế giới cuồng nhiệt hôm nay chúng ta luôn bám chặt: dành thời gian của mình cho nạn nhân! Chắc chắn là anh ta có những chương trình của mình cho ngày hôm ấy, những nhu cầu của anh, những bổn phận và những ước muốn. Nhưng anh đã có thể đặt tất cả qua một bên, khi đối diện với một người đang cần được giúp đỡ. Dù thậm chí không biết nạn nhân, anh đã nhận thấy rằng nạn nhân đáng được anh dành thời gian và sự quan tâm.
  2. Bạn nhận diện mình là ai trong những người đó? Câu hỏi này không chỉ thẳng thừng mà còn thật thấm thía. Bạn giống nhân vật nào trong đó? Chúng ta cần nhận ra rằng chúng ta thường xuyên bị cám dỗ thờ ơ với người khác, nhất là những người yếu nhược. Chúng ta hãy nhìn nhận rằng dù với tất cả những tiến bộ mà mình đạt được, chúng ta vẫn “dốt đặc” trong việc đồng hành, săn sóc và nâng đỡ những thành viên yếu ớt và mong manh nhất trong các xã hội phát triển của chúng ta. Chúng ta đã trở nên quen với việc tìm con đường khác, bỏ đi qua, phớt lơ những hoàn cảnh cho đến khi chúng ảnh hưởng trực tiếp đến mình.
  3. Một người nào đó bị tấn công trên đường phố của chúng ta, và nhiều người vội vã đi qua như thể họ không nhìn thấy. Có người lái ô tô đụng phải một người nào đó, rồi chạy luôn khỏi hiện trường. Mong muốn duy nhất của họ là tránh các vấn đề; họ không quan tâm sự việc rằng chính do lỗi của mình mà một người khác có thể chết. Tất cả những điều này là những dấu hiệu của một lối sống đang lan rộng ra bằng những cách tế nhị và đa dạng. Hơn nữa, do bận bịu với những nhu cầu của mình, việc nhìn thấy một người đang khốn khổ sẽ làm chúng ta cảm thấy bị quấy rầy. Nó làm ta thấy không dễ chịu, vì chúng ta không có thời giờ để phung phí cho những vấn đề của người khác. Đây là những triệu chứng của một xã hội bệnh hoạn. Một xã hội tìm kiếm sự phồn vinh nhưng quay lưng lại với đau khổ.
  4. Chúng ta đừng chìm sâu như thế! Hãy nhìn mẫu gương của Người Samari Tốt Lành. Dụ ngôn của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta khám phá lại ơn gọi của mình trong tư cách là công dân của đất nước mình và của toàn thế giới, chúng ta là những nhà xây dựng một mối gắn kết xã hội mới. Sứ mạng này vẫn luôn mới mẻ, nhưng nó cắm rễ trong một luật nền tảng của hữu thể chúng ta: chúng ta được mời gọi định hướng xã hội theo đuổi thiện ích chung và – với mục đích này trong tâm trí – chúng ta kiên trì củng cố trật tự xã hội và chính trị, mạng lưới các mối liên hệ của nó, các mục tiêu nhân bản của nó. Với những hành động của mình, Người Samari Tốt Lành cho thấy rằng “hiện hữu của mỗi người và của mọi cá nhân được gắn chặt với hiện hữu của những người khác: đời sống không phải duy chỉ là thời gian trôi qua; đời sống là một thời gian cho những tương tác”. (57)
  5. Dụ ngôn này trình bày rất hay cái quyết định căn bản mà chúng ta cần phải có để xây dựng lại thế giới đầy thương tích của mình. Đứng trước quá nhiều đau đớn và thống khổ, con đường duy nhất của chúng ta là bắt chước Người Samari Tốt Lành. Bất cứ quyết định nào khác sẽ làm cho chúng ta hoặc trở thành một trong những kẻ cướp hoặc một trong những kẻ bỏ đi qua mà không thể hiện lòng thương cảm trước những đau khổ của nạn nhân bên đường. Dụ ngôn này cho ta thấy cách mà một cộng đoàn có thể được xây dựng lại bởi những con người nam cũng như nữ đồng hóa mình với sự yếu đuối của những người khác, khước từ việc xây dựng một xã hội có tính loại trừ, và thay vào đó, hành động như những người thân cận, nâng dậy và cấp cứu những người gục ngã, vì thiện ích chung. Đồng thời, dụ ngôn cảnh giác chúng ta về thái độ của những kẻ chỉ nghĩ về bản thân mình, và không gánh vác những trách nhiệm tất yếu trong đời sống.
  6. Dụ ngôn rõ ràng không sa đà trong thuyết pháp luân lý cách trừu tượng, sứ điệp của nó cũng không duy chỉ có tính xã hội và đạo đức. Nó nói với chúng ta về một khía cạnh thiết yếu và thường bị lãng quên của nhân tính chúng ta: chúng ta được tạo dựng cho một sự viên mãn vốn chỉ được tìm thấy trong tình yêu. Chúng ta không thể dửng dưng trước đau khổ; chúng ta không thể cho phép bất cứ ai đi qua cuộc đời như một kẻ bị loại trừ. Trái lại, chúng ta phải cảm thấy bức xúc, cảm thấy bị thách đố thoát lên khỏi sự cô lập dễ chịu của mình, và được thay đổi nhờ tiếp xúc với đau khổ của con người. Đó là ý nghĩa của phẩm giá.

Một câu chuyện không ngừng được kể lại

  1. Dụ ngôn này thật rõ ràng và thẳng thắn, nhưng nó cũng khơi dậy cuộc đấu tranh nội tâm mà mỗi người chúng ta kinh nghiệm khi chúng ta dần dần tiến tới hiểu biết chính mình xuyên qua những mối tương quan với anh chị em mình. Sớm hay muộn, tất cả chúng ta sẽ gặp gỡ một con người đang đau khổ. Ngày nay ngày càng có thêm nhiều người đau khổ. Cái quyết định đón nhận lấy hay loại trừ những người bị thương nằm bên đường có thể phục vụ như một tiêu chuẩn để đánh giá mọi dự án kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo. Mỗi ngày chúng ta phải quyết định hoặc làm những Người Samari Tốt Lành hoặc làm những kẻ dửng dưng đi qua. Và nếu chúng ta mở rộng tầm nhìn đến lịch sử cuộc đời của chính chúng ta và của toàn thế giới, thì tất cả chúng ta đang hoặc đã từng giống như mỗi nhân vật trong dụ ngôn. Tất cả chúng ta có nơi mình một cái gì đó của nạn nhân bị thương tích, một cái gì đó của những tên cướp, một cái gì đó của những người bỏ đi qua, và một cái gì đó của Người Samari Tốt Lành.
  2. Thật ấn tượng về cách thay đổi của các nhân vật khác nhau trong câu chuyện, khi đối diện với cảnh thương tâm của con người khốn khổ bền đường. Những nét phân biệt giữa người Do thái và Samari, tư tế và nhà buôn, trở nên mờ nhòa chẳng nghĩa lý gì. Giờ đây chỉ có hai loại người: Những người quan tâm tới kẻ bị thương và những người bỏ đi qua; những người cúi xuống giúp đỡ và những người tìm đường khác mà bỏ đi. Ở đây, tất cả những nét phân biệt của chúng ta, những nhãn hiệu và mặt nạ đều rơi rụng: đây là khoảnh khắc của sự thật. Chúng ta có sẽ cúi xuống chạm vào và chữa lành những vết thương của người khác không? Chúng ta có sẽ cúi xuống và giúp người khác đứng dậy không? Đó là thách đố của ngày hôm nay, và chúng ta đừng sợ đối diện với nó. Trong những thời khắc khủng hoảng, các quyết định trở thành cấp bách. Có thể nói rằng, ở đây và bây giờ, bất cứ ai không phải hoặc là một tên cướp hay một người bỏ đi qua thì người đó sẽ hoặc là nạn nhân bị thương tích hoặc là người đang vác kẻ bị thương tích trên vai mình.
  3. Câu chuyện Người Samari Tốt Lành thường xuyên được lặp lại. Chúng ta có thể thấy điều này rõ ràng khi sức ì chính trị và xã hội đang biến nhiều phần của thế giới chúng ta thành một đường mòn hoang vắng, chính khi mà những tranh chấp nội địa cũng như quốc tế và việc cướp mất các cơ hội đang loại bỏ rất nhiều người bên lề chơ vơ bên đường. Trong dụ ngôn của Người, Chúa Giêsu không đề ra những khả năng thay thế; Người không hỏi cái gì rất có thể xảy ra nếu nạn nhân hoặc người cứu giúp nạn nhân không kiềm được cơn phẫn nộ hay cơn sôi sục muốn báo thù. Chúa Giêsu tin tưởng vào ‘tính bổn thiện’ của con người; với dụ ngôn này, Người khích lệ chúng ta kiên trì trong yêu thương, phục hồi phẩm giá cho người đau khổ và xây dựng một xã hội xứng đáng.

Các nhân vật của câu chuyện

  1. Dụ ngôn bắt đầu với những kẻ cướp. Chúa Giêsu chọn bắt đầu khi vụ cướp đã xảy ra, để chúng ta khỏi sa đà vào chính vụ việc tội ác đó, hay vào bọn cướp là những kẻ phạm tội. Đó là những điều chúng ta biết rõ. Chúng ta đã thấy ập tới trên thế giới mình những bóng tối của thờ ơ và bạo lực, để phục vụ cho những lợi ích ti tiện của quyền lực, lòng tham và sự chia rẽ. Câu hỏi có thể là: Phải chăng chúng ta sẽ bỏ nạn nhân và chạy đi để tránh bạo lực, hay chúng ta sẽ đuổi theo bọn cướp? Phải chăng nạn nhân đầy thương tích kia rốt cục là sự biện minh cho những chia rẽ không thể hòa giải của chúng ta, cho sự thờ ơ độc ác của chúng ta, cho những xung đột bên trong của chúng ta?
  2. Rồi dụ ngôn mời gọi chúng ta nhìn kỹ vào những kẻ bỏ đi qua. Cái lạnh lùng vô tư khiến họ đi qua phía bên kia đường – dù đáng trách hay không, dù bởi khinh người hay duy chỉ bởi đãng trí – thì điều ấy cũng làm cho ông tư tế và ông Lê-vi trở thành một phản ảnh đáng buồn của sự phân cách ngày càng tăng giữa chúng ta và thế giới xung quanh mình. Có nhiều cách để bỏ đi qua và giữ khoảng cách an toàn: chúng ta có thể rút lui vào bên trong mình, phớt lơ người khác, hoặc dửng dưng với thảm cảnh của họ. Hoặc người ta đơn giản nhìn đi nơi khác, như thấy nơi một số quốc gia, hay một số bộ phận của các quốc gia, trong đó người nghèo và tương lai của họ bị xem là không quan trọng, và người ta nhìn ra hướng khác, như thể một kế hoạch phát triển du nhập từ bên ngoài sẽ có thể giúp họ giải quyết. Đây là cách mà một số người biện minh cho sự thờ ơ của mình: những người nghèo mà tiếng kêu cứu có thể làm họ động lòng thì hoàn toàn không tồn tại. Người nghèo ở ngoài phạm vi quan tâm của họ.
  3. Một chi tiết nổi bật về những kẻ bỏ đi qua: họ là một tư tế và một thầy Lê-vi, những con người tôn giáo, tận tụy với việc thờ phượng Thiên Chúa. Chi tiết này không nên bị bỏ qua. Nó cho thấy rằng niềm tin vào Thiên Chúa và việc thờ phượng Thiên Chúa thì không đủ để nắm chắc rằng chúng ta đang thực sự sống theo cách mà Thiên Chúa vui lòng. Một tín hữu có thể không trung tín với tất cả những gì mà đức tin đòi hỏi mình, song vẫn nghĩ mình gần gũi Thiên Chúa và mình tốt hơn những người khác. Đàng khác, sự bảo đảm một thái độ cởi mở đích thực với Thiên Chúa là một cách thực hành đức tin giúp mở lòng chúng ta ra với anh chị em mình. Thánh Gioan Kim Khẩu diễn tả điều này cách sắc bén khi ngài thách đố các thính giả Kitô hữu của ngài: Anh chị em mong muốn tôn vinh thân mình Đấng Cứu Độ phải không? Vậy thì đừng khinh bỉ khi thân mình đó bị trần truồng. Đừng tôn vinh thân mình Chúa trong nhà thờ với các lớp áo lụa, trong khi bên ngoài kia thân mình Chúa bị trần truồng và buốt lạnh”. (58) Thật nghịch lý, những người tự nhận mình là người không tin nhiều khi có thể thi hành thánh ý Thiên Chúa tốt hơn các tín hữu.
  4. “Bọn cướp” thường tìm thấy những đồng minh bí mật nơi những người “bỏ đi qua và tìm đường khác”. Có một tác động qua lại nào đó giữa những kẻ thao túng và dối gạt xã hội, và những kẻ trong khi tự nhận mình là người phê bình khách quan và không thiên vị thì lại sống dựa vào hệ thống ấy và những ân lộc của nó. Có một tình trạng đạo đức giả rất đáng buồn khi sự dung túng tội ác, việc dùng các cơ chế để kiếm lợi ích cho cá nhân hay cho nhóm, và những sự dữ khác rõ ràng không thể loại trừ, được kèm theo bởi một thái độ phê bình không ngớt về mọi sự, gieo rắc thường xuyên những nghi ngờ mà hậu quả là gây mất lòng tin tưởng và hoang mang. Lời phàn nàn rằng “mọi sự đã gãy đổ” được trả lời bằng tuyên bố “không thể sửa chữa được đâu!”, hoặc “tôi có thể làm gì được chứ?” Điều này càng thúc đẩy thêm sự vỡ mộng và chán nản, và khó mà khích lệ một tinh thần liên đới và quảng đại. Việc nhận chìm dân chúng trong chán nản sẽ đóng lại một vòng tròn tai ác tận cùng: đó là đường hướng của chế độ độc tài vô hình của những lợi ích ẩn giấu đã đạt được quyền thống trị trên cả những nguồn lực lẫn khả năng suy nghĩ và bày tỏ quan điểm của người ta.
  5. Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn nạn nhân bị thương tích kia. Có những lúc chúng ta cảm thấy mình giống như người ấy, bị đánh nhừ tử và bị bỏ bên đường. Chúng ta có thể cũng cảm thấy bất lực vì các cơ chế của chúng ta chẳng được quan tâm và thiếu nguồn lực, hay đơn giản chỉ phục vụ cho ích lợi của một ít người, bên trong và bên ngoài. Thật vậy, “xã hội toàn cầu hóa thường có một cách nhẹ nhàng để quay nhìn hướng khác. Viện cớ rằng mình đúng đắn về chính trị hay hợp thời về ý thức hệ, chúng ta nhìn những người đau khổ mà không chạm đến họ. Chúng ta xem truyền hình trực tiếp về họ, ngay cả nói về họ với những uyển ngữ và với vẻ cảm thông”. (59)

Bắt đầu lại

  1. Mỗi ngày đều trao cho ta cơ hội mới, khả năng mới. Chúng ta không nên chờ đợi mọi sự từ những người cai trị chúng ta, vì như vậy là ấu trĩ. Chúng ta có không gian mình cần để cùng đảm trách việc sáng tạo và thực hiện những tiến trình mới và những thay đổi. Chúng ta hãy tích cực góp phần vào việc đổi mới và chống đỡ các xã hội đầy xáo trộn của mình. Ngày nay chúng ta có một cơ hội lớn để thể hiện cảm thức tự nhiên của mình về tình huynh đệ, để làm những Người Samari Tốt Lành biết mang lấy nỗi đau và những vấn đề của người khác, thay vì kích động thêm oán hận. Giống như người lữ khách tình cờ trong dụ ngôn, chúng ta chỉ cần có một khát vọng đơn thuần là làm thành một dân tộc, một cộng đồng, miệt mài nỗ lực đón nhận và hội nhập mọi người, nâng dậy những ai gục ngã. Nhiều khi chúng ta thấy mình đầu hàng trước não trạng của những kẻ bạo lực, những kẻ tham lam mù quáng, những kẻ truyền bá sự nghi ngờ và dối trá. Những người khác có thể tiếp tục xem chính trị hay kinh tế như một sân khấu cho quyền lực của riêng họ tự tung tự tác. Về phần mình, chúng ta hãy thúc đẩy những điều tốt đẹp và sẵn sàng phục vụ cho những điều ấy.
  2. Chúng ta có thể bắt đầu từ dưới thấp, và lần lượt từng vụ việc, chúng ta hành động ở những cấp độ địa phương và cụ thể nhất, rồi mở rộng ra tới những tầm xa nhất của quốc gia mình và của thế giới, với cùng mối quan tâm và sự chăm sóc mà người Samari ấy đã thể hiện đối với mỗi vết thương của nạn nhân. Chúng ta hãy tìm những người khác và đón nhận thực tế của thế giới này, không sợ nỗi đau hay một cảm thức về tình trạng quá tệ, bởi vì ở đó chúng ta sẽ khám phá ra tất cả những điều tốt đẹp mà Thiên Chúa đã gieo vào trái tim con người. Những khó khăn dường như tràn ngập chính là các cơ hội để lớn lên, chứ không phải là lý do cho một sự thoái thác đầy u uất vốn chỉ có thể dẫn tới sự miễn cưỡng đầu hàng. Nhưng chúng ta đừng làm một mình, một cách cá nhân. Người Samari ấy đã khám phá ra một chủ quán để giúp chăm sóc nạn nhân; chúng ta cũng được mời gọi kết hợp lại như một gia đình, sẽ mạnh hơn là tổng số những cá thể nhỏ bé. Vì “toàn thể thì hơn từng phần, và cũng hơn tổng số các thành phần”. (60) Chúng ta hãy bỏ sự nhỏ nhen và oán hận của sự xung đột ngầm vô ích và sự đối đầu thường xuyên. Chúng ta hãy ngừng biện minh chính mình và nhìn nhận những tội ác của mình, sự lãnh đạm của mình, những dối trá của mình. Sửa sai và hòa giải sẽ trao cho chúng ta sự sống mới và giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi.
  3. Người Samari dừng lại trên đường kia đã ra đi mà không kỳ vọng bất cứ sự truy nhận hay hàm ơn nào. Nỗ lực của anh để hỗ trợ một người khác đã trao cho anh sự vui thỏa lớn lao trong đời sống và trước mặt Thiên Chúa của anh, và vì thế nỗ lực ấy trở thành một nhiệm vụ. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với những người bị thương tích, những người thuộc dân tộc mình và thuộc mọi dân tộc trên thế giới. Chúng ta hãy chăm sóc cho nhu cầu của mọi người, nam cũng như nữ, trẻ cũng như già, với cùng tinh thần huynh đệ và sự gần gũi như được thấy nơi Người Samari Tốt Lành ấy.

Người láng giềng không biên giới

  1. Chúa Giêsu kể dụ ngôn về Người Samari Tốt Lành để trả lời cho câu hỏi: Ai là người thân cận của tôi? Từ “thân cận” trong xã hội thời Chúa Giêsu thường có ý chỉ những người gần chúng ta nhất. Nghe có vẻ như sự giúp đỡ nên được trao chủ yếu cho những người thuộc nhóm và chủng tộc của mình. Đối với một số người Do thái thời ấy, người Samari bị coi thường, bị xem là ô uế. Họ không thuộc số những người đáng được giúp đỡ. Chúa Giêsu, cũng là một người Do thái, thay đổi hoàn toàn cách tiếp cận ấy. Người đề nghị chúng ta đừng ấn định xem người ta gần mình mức nào mới được gọi là thân cận, nhưng đúng hơn chính chúng ta phải trở thành thân cận với tất cả mọi người.
  2. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hiện diện với những ai cần sự giúp đỡ, bất kể họ có thuộc về nhóm xã hội của chúng ta hay không. Trong trường hợp này, người Samari ấy đã trở thành một người thân cận của người Do thái bị thương kia. Bằng cách đến gần và hiện diện, anh ta đã vượt qua tất cả các rào cản văn hóa và lịch sử. Chúa Giêsu đúc kết dụ ngôn bằng lời này: “Ông hãy đi và cũng làm như vậy” (Lc 10,37). Nói cách khác, Người thách đố chúng ta gạt những khác biệt qua một bên khi đứng trước đau khổ, để đến gần người khác mà không chần chừ nghĩ ngợi gì. Tôi không nên tiếp tục nói rằng mình có những người thân cận để giúp đỡ, nhưng tôi phải xem mình là một người thân cận của người khác.
  3. Vấn đề là Chúa Giêsu hữu ý nhấn vào chi tiết rằng nạn nhân bị thương là một người Do thái, trong khi người dừng lại để giúp nạn nhân là một người Samari. Chi tiết này rất có ý nghĩa cho suy tư của chúng ta về một tình yêu bao gồm hết mọi người. Người Samari sống trong một vùng mà ở đó người ta thực hành các nghi thức ngoại giáo. Đối với người Do thái, điều này làm cho dân Samari trở nên ô uế, đáng kinh tởm, và nguy hiểm. Thật vậy, một bản văn Do thái cổ nói về những dân bị gớm ghét đã đề cập đến Samari như “thậm chí chẳng phải là một dân” (Hc 50,25); bản văn ấy nói về “đám dân ngu xuẩn ở vùng Si-khem” (50,26).
  4. Điều này giải thích tại sao một phụ nữ Samari, khi được Chúa Giêsu xin nước uống, đã trả lời cộc lốc: “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Sự lên án nặng nề nhất mà những người tìm cách hạ uy tín của Chúa Giêsu có thể đưa ra, đó là nói rằng Người “bị quỉ ám” và là “một người Samari” (Ga 8,48). Vì thế cuộc gặp gỡ của lòng thương xót này giữa một người Samari và một người Do thái thật là cảm kích; nó không chừa chỗ cho sự lôi kéo của ý thức hệ và nó thách đố chúng ta mở rộng các biên giới của mình ra. Nó trao một chiều kích phổ quát cho tiếng gọi yêu thương của chúng ta, một tình yêu vượt trên mọi định kiến, mọi rào cản lịch sử và văn hóa, mọi lợi ích nhỏ nhen.

Tiếng kêu van của người khách lạ

  1. Cuối cùng, tôi muốn ghi nhận rằng trong một bản văn khác của Tin Mừng, Chúa Giêsu nói: “Ta là khách lạ và các ngươi đã tiếp đón Ta” (Mt 25,35). Chúa Giêsu có thể nói lên những lời ấy vì Người có một trái tim rộng mở, nhạy cảm với những khó khăn của người khác. Thánh Phaolô khuyến dụ chúng ta “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Khi trái tim của chúng ta làm như thế, nó có thể đồng hóa với người khác mà không thắc mắc họ sinh ở đâu hay đến từ đâu. Trong tiến trình này, chúng ta sẽ kinh nghiệm người khác như “cốt nhục” của chính mình (Is 58,7).
  2. Đối với các Kitô hữu, những lời của Chúa Giêsu thậm chí có một ý nghĩa sâu xa hơn. Những lời ấy thúc bách chúng ta nhận ra chính Đức Kitô nơi mỗi người anh chị em bị bỏ rơi hay bị loại trừ của mình (x. Mt 25,40.45). Đức tin có sức mạnh khôn tả để truyền cảm hứng và nâng đỡ lòng tôn trọng của chúng ta đối với người khác, vì các tín hữu nhận biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người, nam cũng như nữ, với tình yêu vô hạn và “qua đó Người trao ban phẩm giá vô hạn” cho mọi người. (61) Cũng vậy, chúng ta tin rằng Chúa Kitô đã đổ máu ra cho mỗi chúng ta, và không ai ở ngoài tình yêu phổ quát của Người. Nếu chúng ta đi tới cội nguồn cuối cùng của tình yêu ấy, tức là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta sẽ gặp trong cộng đoàn Ba-Ngôi-Vị Thần Linh nguồn gốc và kiểu mẫu hoàn hảo của mọi đời sống xã hội. Thần học tiếp tục được bồi đắp phong phú qua những suy tư về sự thật lớn lao này.
  3. Trong ánh sáng này, đôi khi tôi ngạc nhiên tại sao đã mất quá nhiều thời gian trước khi Giáo hội dứt khoát lên án chế độ nô lệ và các hình thức khác nhau của bạo lực. Ngày nay, với linh đạo và thần học đã phát triển của mình, chúng ta không có thể biện minh. Nhưng vẫn có những người có vẻ cảm thấy được khích lệ hay ít nhất được cho phép bởi đức tin của mình để ủng hộ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và bạo lực thuộc nhiều dạng khác nhau, não trạng bài ngoại và trịch thượng, và ngay cả ngược đãi những người khác mình. Đức tin, và chủ nghĩa nhân bản dựa trên đức tin, phải giữ một cảm thức phê bình khi đứng trước những khuynh hướng này, và phải lên tiếng cảnh báo ngay bất cứ khi nào những khuynh hướng ấy ngóc đầu lên. Vì thế, thật quan trọng việc dạy giáo lý và giảng thuyết phải nói trực tiếp và rõ ràng hơn nữa về ý nghĩa xã hội của hiện hữu, về chiều kích huynh đệ của linh đạo, về niềm xác tín của chúng ta rằng mỗi con người có phẩm giá bất khả nhượng, và về các lý do chúng ta phải yêu thương và đón nhận tất cả các anh chị em mình.

 

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Ba 2024
H B T N S B C
« Th2    
  1 2 3
4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17
18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30 31