CHRISTUS VIVIT – CHUONG III

Written by lcd on Tháng Tư 13th, 2019. Posted in Thế Giới

Lm. Lê Công Đức, PSS., dịch

 

CHƯƠNG BA

 

CÁC CON LÀ “HIỆN TẠI” CỦA THIÊN CHÚA  

 

 

  1. Sau khi lướt qua Lời Chúa, chúng ta không thể duy chỉ nói rằng người trẻ là tương lai của thế giới. Họ là hiện tại của thế giới; ngay lúc này đây, họ đang giúp làm phong phú thế giới. Các bạn trẻ không còn là những trẻ con nữa. Họ đã tới lúc bắt đầu đảm nhận nhiều trách nhiệm, chia sẻ với người lớn trong việc phát triển gia đình, xã hội và Giáo hội. Tuy nhiên, thời đại đang thay đổi, khiến chúng ta tự hỏi: Người trẻ hôm nay thực sự thích gì? Điều gì đang diễn ra trong đời sống của họ?

 

Về mặt tích cực

  1. Thượng hội đồng nhìn nhận rằng các thành viên trong Giáo hội không luôn luôn áp dụng cách tiếp cận của Đức Giêsu. Thay vì chú ý lắng nghe người trẻ, “rất thường có một xu hướng đưa ra những câu trả lời đóng gói sẵn và những giải pháp tiền chế, mà không cho phép họ nêu lên những câu hỏi thực sự của họ, cũng không đối mặt với những thách đố mà họ đề ra”. [24] Nhưng một khi Giáo hội gạt bỏ các định kiến chật hẹp và nghiêm túc lắng nghe những người trẻ, thì sự thấu cảm này sẽ làm cho Giáo hội nên phong phú, vì “nó cho phép người trẻ đóng góp cho cộng đoàn, giúp cộng đoàn biết trân trọng những cảm thức mới và khảo sát những vấn đề mới”. [25]
  2. Người lớn chúng ta có thể thường bị cám dỗ để liệt kê tất cả các vấn đề và các nhược điểm của giới trẻ. Có lẽ một số người sẽ ủng hộ điều đó, cho rằng như vậy chúng ta tỏ ra sắc sảo trong việc nhận định những khó khăn và những nguy hiểm. Nhưng một thái độ như thế sẽ dẫn tới điều gì nếu không phải là xa cách hơn, ít gần gũi hơn, và ít sự hỗ trợ nhau hơn?
  3. Bất cứ ai được kêu gọi trở thành một phụ huynh, mục tử hay người hướng dẫn của các bạn trẻ thì phải có tầm nhìn xa, để biết trân trọng ngọn đèn còn leo lét cháy, trân trọng cây lau mong manh dù bị dập vùi nhưng chưa đứt gãy (x. Is 42,3). Đó là cái khả năng nhìn thấy đường đi nơi mà kẻ khác chỉ thấy các bức tường, khả năng nhận ra tiềm năng nơi mà kẻ khác chỉ thấy hiểm họa. Đó là cách mà Thiên Chúa Cha nhìn mọi sự; Ngài biết cách nâng niu nuôi dưỡng những hạt giống thiện hảo trong trái tim những người trẻ. Vì thế tâm hồn mỗi người trẻ phải được xem là “đất thánh”, nơi mang các hạt giống sự sống thần linh; chúng ta phải “cởi giày ra” trước khi đến gần và bước sâu hơn vào Mầu nhiệm.

 

Nhiều cách để trẻ trung

  1. Hẳn chúng ta có thể vẽ một bức tranh về giới trẻ ngày nay, nhưng trước hết tôi muốn làm vang âm lại ghi nhận của các Nghị phụ Thượng hội đồng rằng “việc qui tụ Thượng hội đồng đã bao gồm sự hiện diện và đóng góp của nhiều vùng khác nhau trên thế giới, và đã bộc lộ vẻ đẹp của chúng ta xét như Giáo hội hoàn vũ. Trong một bối cảnh ngày càng toàn cầu hóa, các Nghị phụ Thượng hội đồng mong muốn nhấn mạnh đúng mức nhiều sự khác biệt về các bối cảnh và các nền văn hóa ấy, ngay cả trong phạm vi mỗi quốc gia. Có nhiều thế giới của tuổi trẻ ngày nay, đến nỗi tại một số nước người ta có khuynh hướng nói về ‘giới trẻ’ ở số nhiều. Nhóm tuổi được quan niệm bởi Thượng hội đồng (16-29 tuổi) không biểu thị một phạm trù thuần nhất, nhưng bao gồm các nhóm khác nhau, mỗi nhóm có kinh nghiệm sống riêng của mình”. [26]
  2. Cũng từ một quan điểm nhân khẩu học, một số nước có nhiều người trẻ, trong khi những nước khác có sinh suất rất thấp. “Một yếu tố phân biệt khác nữa, đó là yếu tố lịch sử: có những quốc gia và lục địa thuộc truyền thống Kitô giáo cựu trào, với nền văn hóa được ghi dấu sâu xa bởi một ký ức không thể bị thản nhiên gạt bỏ, trong khi nhiều quốc gia và lục địa khác được đặc trưng bởi những truyền thống tôn giáo khác, nơi mà sự hiện diện của Kitô giáo chỉ rất nhỏ nhoi – và nhiều trường hợp chỉ mới hiện diện gần đây thôi. Ngoài ra, tại những nơi khác, các cộng đoàn Kitô hữu và giới trẻ của các cộng đoàn ấy đang kinh nghiệm sự bách hại”. [27] Cũng cần phải phân biệt giữa những người trẻ “được tiếp cận ngày càng nhiều cơ hội do nền toàn cầu hóa cung ứng và những người trẻ sống ngoài rìa xã hội hay tại các vùng thôn quê và nhận thấy mình bị gạt ra ngoài”. [28]
  3. Còn nhiều sự khác biệt nữa, khó mà khảo sát ở đây. Dù sao, thiết tưởng không cần phải có một phân tích rất chi tiết về người trẻ hôm nay, về đời sống và kinh nghiệm của họ. Song tôi cũng không muốn bỏ qua thực tế ấy, vì thế tôi sẽ tổng hợp vắn tắt một số đóng góp nhận được hồi trước Thượng hội đồng, và một số khác tôi đã nghe từ các cuộc thảo luận.

 

Một số kinh nghiệm của người trẻ

  1. Tuổi trẻ không phải là một cái gì để người ta phân tích cách trừu tượng. Thật vậy, “tuổi trẻ” không tồn tại, chỉ tồn tại những người trẻ thôi, mỗi người với thực tế đời sống của mình. Trong thế giới thay đổi rất nhanh chóng hôm nay, nhiều cuộc đời ấy bị phơi sườn để hứng chịu đau khổ và bị dẫn dụ.

 

Sống trong một thế giới khủng hoảng

  1. Các Nghị phụ Thượng hội đồng đau buồn ghi nhận rằng “nhiều người trẻ hôm nay sống trong những vùng chiến sự và kinh nghiệm bạo lực dưới vô vàn hình thức: bắt cóc, truy bức, tội phạm có tổ chức, buôn người, khai thác nô lệ và tình dục, lợi dụng thời chiến để cưỡng hiếp, vân vân. Nhiều người trẻ khác, vì đức tin của mình, phải đấu tranh để tìm chỗ của mình trong xã hội và phải chịu những loại bách hại khác nhau, ngay cả bị thảm sát. Nhiều người trẻ khác, do bị ép buộc hay do bởi không có chọn lựa nào khác, phải sống bằng việc phạm tội ác và những hành động bạo lực: các binh sĩ trẻ em, các băng nhóm tội phạm vũ trang, hoạt động buôn ma túy, khủng bố, vân vân. Tình trạng bạo lực này hủy hoại cuộc đời nhiều người trẻ. Những sự lạm dụng và nghiện ngập, cùng với bạo lực và vọng động, là một số trong những lý do đẩy người trẻ vào tù tội, với tỉ lệ cao hơn được ghi nhận nơi một số nhóm sắc tộc và xã hội nào đó”. [29]
  2. Nhiều người trẻ khác bị lung lạc bởi các ý thức hệ, bị sử dụng và khai thác như bia đỡ đạn hay như sức mạnh trấn áp để tiêu diệt, khủng bố hay hạ nhục những người khác. Tệ hơn nữa, nhiều người trong họ rốt cục trở thành những con người cá nhân chủ nghĩa, hay gây hấn và nghi ngờ người khác; bằng cách này, họ trở thành một mục tiêu dễ dàng cho những sách lược bạo tàn của các nhóm chính trị hay các thế lực kinh tế.
  3. “Con số còn đông đảo hơn nữa trên thế giới, đó là những người trẻ bị gạt ra rìa cách này hay cách khác, và bị xã hội tẩy chay vì các lý do tôn giáo, sắc tộc hay kinh tế. Chúng ta đừng quên hoàn cảnh khó khăn của các thanh niên thiếu nữ thấy mình trong tình trạng mang thai, trong nạn phá thai, nạn dịch HIV, trong vô số hình thức nghiện ngập (ma túy, cờ bạc, phim ảnh sách báo khiêu dâm, vân vân), và thảm cảnh của các trẻ em đường phố không có nhà cửa, gia đình hay chỗ dựa kinh tế”. [30] Đối với nữ giới, những hoàn cảnh này sẽ khó khăn và khổ sở gấp đôi.
  4. Là Giáo hội, chúng ta không thể vô cảm trước những bi kịch ấy của các bạn trẻ. Chúng ta không bao giờ được phép trơ lì trước các bi kịch ấy, vì bất cứ ai không biết khóc thì không thể nào làm một người mẹ. Chúng ta muốn khóc lên để chính xã hội có thể trở thành đúng nghĩa một người mẹ hơn, để thay vì giết người thì xã hội có thể học biết cách sinh sản, trở thành một nơi hứa hẹn của sự sống. Chúng ta khóc lên khi nghĩ về tất cả những người trẻ đã bị tước đi mạng sống do nghèo đói và bạo lực, và chúng ta kêu gọi xã hội trở thành một người mẹ ân cần hơn. Tất cả nỗi đau này không phai nhạt đi; nó còn đó với chúng ta, vì thực tế nghiệt ngã không còn có thể bị che giấu được nữa. Điều tệ hại nhất chúng ta có thể làm, đó là hùa theo cái tinh thần thế gian mà giải pháp của nó duy chỉ là ru ngủ người trẻ với những thông điệp khác, với những bận tâm khác, với những theo đuổi tầm thường vớ vẩn.
  5. Có lẽ “những ai trong chúng ta có một cuộc sống thoải mái dễ chịu thì sẽ không biết khóc. Một số thực tế trong đời sống chỉ có thể được nhìn thấy bằng đôi mắt từng đẫm lệ. Cha muốn mỗi người trong các con tự hỏi mình: Tôi có biết khóc không? Tôi có biết khóc khi nhìn thấy một đứa trẻ bị đói, bị dính vào ma túy hay bụi đời, vô gia cư, bị xã hội bỏ rơi, bạo hành hay khai thác như một nô lệ? Hay tôi chỉ biết khóc cho mình, như những kẻ vùng vằng khóc đòi thứ gì đó khác?” [31]. Các con hãy học để biết khóc cho tất cả những bạn trẻ kém may mắn hơn mình. Khóc cũng là một diễn tả lòng thương xót và trắc ẩn. Nếu thấy nước mắt mình không trào ra được, các con hãy xin Chúa ban cho mình ơn biết khóc trước những khổ đau của tha nhân. Một khi các con có thể khóc, các con sẽ có thể giúp đỡ người khác với cả tấm lòng.
  6. Có những lúc, nỗi đau nơi một số người trẻ thật xé lòng, một nỗi đau sâu thẳm không thể diễn tả thành lời. Họ chỉ có thể nói với Chúa rằng họ đang đau khổ nhiều lắm, rằng họ thật khó đứng vững, vì họ không còn tin vào ai nữa. Nhưng trong lời cầu xin thống thiết đó, họ sẽ nghe vang vọng những lời của Đức Giêsu: “Phúc cho ai than khóc, vì họ sẽ được an ủi” (Mt 5,4). Một số bạn trẻ nam nữ có thể bước tới nhờ nghe lời hứa ấy của Chúa. Ước gì tất cả các bạn trẻ đang đau khổ cảm nhận được sự gần gũi của một cộng đoàn Kitô hữu có sức làm hiện thực lời hứa ấy bằng các hành động của mình, bằng sự bao bọc và sự trợ giúp cụ thể của mình.
  7. Quả thực là những người nắm quyền lực có cung ứng sự trợ giúp nào đó, nhưng điều này thường gắn với một cái giá cao. Tại nhiều nước nghèo, sự trợ giúp kinh tế từ các nước giàu hơn hay từ các tổ chức quốc tế thường được ràng buộc với việc chấp nhận các quan điểm của phương Tây về tính dục, về hôn nhân, về sự sống hay về công bằng xã hội. Tình trạng thực dân ý thức hệ này có sức tàn phá đặc biệt đối với người trẻ. Chúng ta cũng thấy cách mà một loại quảng cáo nào đó dạy cho người trẻ thường xuyên không thỏa mãn, và đóng góp vào nền văn hóa vứt bỏ, trong đó chính những người trẻ cuối cùng bị vứt bỏ.
  8. Nền văn hóa hiện nay khai thác hình ảnh của người trẻ. Vẻ đẹp được gắn kết với một dáng vẻ trẻ trung, với những món mỹ phẩm che lấp đi dấu vết của thời gian. Thân thể của người trẻ thường xuyên được quảng cáo như cách để bán các sản phẩm. Lý tưởng của vẻ đẹp là nét trẻ, nhưng chúng ta cần nhận ra rằng điều này chẳng liên quan bao nhiêu với người trẻ. Nó chỉ có nghĩa rằng những người lớn muốn níu giữ nét trẻ cho mình, chứ không có nghĩa rằng họ tôn trọng, yêu thương và chăm sóc người trẻ.
  9. Một số người trẻ “cảm thấy các truyền thống gia đình có tính đè nén ngột ngạt, và họ thoát ly khỏi chúng do bị thúc đẩy bởi một nền văn hóa toàn cầu hóa vốn nhiều khi bỏ mặc họ chới với không điểm tựa. Tại những vùng khác trên thế giới, vấn đề không chỉ là xung đột thế hệ giữa giới trẻ và người lớn, mà còn có tình trạng ghẻ lạnh xa rời nhau. Đôi khi người lớn mất khả năng – hay thậm chí không dám thử – truyền thụ những giá trị căn bản của đời sống, hoặc giả họ cố gắng bắt chước giới trẻ, và như thế là đảo ngược mối tương quan giữa các thế hệ. Mối tương quan giữa giới trẻ và người lớn như vậy có nguy cơ dừng lại ở bình diện tâm cảm, không đụng chạm gì đến các phương diện giáo dục và văn hóa”. [32] Thật tai hại cho giới trẻ biết bao, dù một số người không nhận ra điều này! Chính người trẻ đã cho biết rằng tình trạng ấy làm cho việc truyền thụ đức tin trở nên vô cùng khó khăn “tại một số nước không có tự do biểu đạt, những nơi mà người trẻ bị ngăn chặn tham dự vào đời sống Giáo hội”. [33]

 

Những khao khát, những tổn thương, và những tìm kiếm

  1. Người trẻ ý thức rằng thân xác và tính dục có một tầm quan trọng thiết yếu cho đời sống và cho tiến trình trưởng thành trong căn tính của họ. Nhưng trong một thế giới thường xuyên tôn thờ tính dục, việc giữ gìn một mối tương quan lành mạnh với thân xác mình và giữ một đời sống tình cảm yên ả thì không hề dễ dàng. Vì lý do này và nhiều lý do khác, luân lý tính dục thường được thấy như một nguồn gây “khó hiểu và dị ứng đối với Giáo hội, trong mức độ mà Giáo hội được coi như một nơi phán xét và lên án”. Tuy nhiên, người trẻ cũng biểu lộ “một khát vọng rõ ràng muốn thảo luận những vấn đề về sự khác biệt giữa căn tính nam và nữ, về tính hỗ tương giữa hai giới, và về tình dục đồng giới”. [34]
  2. Trong thời đại chúng ta, “những tiến bộ trong khoa học và trong các công nghệ y khoa-sinh học tác động mạnh mẽ trên những nhận thức về thân xác, dẫn tới ý tưởng rằng thân xác có thể mở ra cho sự biến đổi không giới hạn. Khả năng can thiệp vào ADN, khả năng đưa những yếu tố nhân tạo vào trong sinh vật (cyborgs) và sự phát triển của các khoa thần kinh cho thấy một nguồn lực lớn lao, nhưng đồng thời chúng cũng làm bật lên những vấn đề nghiêm trọng về nhân học và đạo đức”. [35] Chúng có thể làm ta quên rằng sự sống là một quà tặng, và quên rằng chúng ta là thụ tạo với những giới hạn cố hữu, rất dễ bị khai thác bởi những kẻ nắm giữ sức mạnh công nghệ. [36] “Hơn nữa, nơi một số nhóm trẻ, có một xu thế ngày càng tăng việc hành xử liều lĩnh, coi đó như một cách thăm dò chính mình, tìm kiếm cảm giác mạnh và lôi cuốn sự chú ý… Những thực tế này – vốn đang hoành hành nơi các thế hệ trẻ – là một chướng ngại trong tiến trình trưởng thành tự nhiên của họ”. [37]
  3. Người trẻ cũng kinh nghiệm những bế tắc, những thất vọng và những ký ức đau đớn sâu xa. Họ thường cảm thấy “nỗi đau của những thất bại trong quá khứ, những vỡ mộng, những kinh nghiệm về sự phân biệt đối xử và bất công, về cảm giác mình không được yêu thương và đón nhận”. Rồi, cũng “có những tổn thương luân lý, sự đè nặng của những lỗi lầm trong quá khứ, và một mặc cảm tội lỗi vì mình đã phạm các sai lầm”. [38] Giữa những thập giá này mà người trẻ phải mang vác, Đức Giêsu cho thấy sự hiện diện của Người; Người trao cho họ tình bạn của Người, sự đồng hành đầy sức an ủi và chữa lành của Người. Giáo hội muốn trở thành khí cụ của Đức Giêsu trên con đường này, con đường dẫn đến sự chữa lành và sự bình an nội tâm.
  4. Nơi một số người trẻ, chúng ta có thể nhận thấy một khát vọng Thiên Chúa, dù vẫn còn mơ hồ và còn rất xa lạ với sự hiểu biết về vị Thiên Chúa của mặc khải. Nơi những người trẻ khác, chúng ta có thể thoáng thấy một lý tưởng về tình huynh đệ giữa con người, điều này không hề nhỏ nhoi chút nào. Nhiều bạn trẻ có một khát vọng chân thành muốn phát triển các tài năng của mình để cống hiến một cái gì đó cho đời. Nơi một số bạn trẻ, chúng ta thấy một sự nhạy cảm đặc biệt với nghệ thuật, hay một khao khát hòa điệu với thiên nhiên. Có lẽ nơi một số khác, ta thấy một mối quan tâm lớn đối với truyền thông. Nơi nhiều người trong họ, chúng ta gặp một khát vọng sâu xa muốn sống đời mình một cách mới mẻ. Trong tất cả những điều này, chúng ta có thể nhận ra những khởi điểm thật sự, những nguồn lực nội tại đang chờ nhận được một lời kích hoạt, soi sáng và khích lệ.
  5. Thượng hội đồng quan tâm cách riêng tới ba lãnh vực có tầm quan trọng nhất. Ở đây tôi muốn dẫn lại các đúc kết của Thượng hội đồng, với ý thức rằng các đúc kết này mời gọi ta phân tích kỹ hơn và phát triển một khả năng đáp ứng thích hợp và hữu hiệu hơn.

 

Môi trường kỹ thuật số  

  1. “Môi trường kỹ thuật số là đặc trưng của thế giới hiện đại. Những lãnh vực rộng lớn của con người được đưa vào trong đó, một cách thông thường và liên tục. Vấn đề không còn duy chỉ là ‘dùng’ các công cụ truyền thông, nhưng vấn đề là sống trong một nền văn hóa kỹ thuật số cao độ vốn có một tác động sâu xa trên các ý niệm về thời gian và không gian, trên việc chúng ta nhận hiểu chính mình, nhận hiểu người khác và thế giới, và trên khả năng liên lạc, học tập, tiếp cận thông tin và đi vào mối tương quan với người khác. Một cách tiếp cận thực tại thiên về hình ảnh hơn là nghe và đọc đã ảnh hưởng đến cách người ta học tập cũng như ảnh hưởng đến việc phát triển khiếu phê bình của họ”. [39]
  2. Internet và các mạng xã hội đã tạo ra một cách thức mới để truyền thông và thiết lập tương quan. Chúng là “một quảng trường công cộng, nơi mà người trẻ tiêu tốn phần lớn thời gian của mình và gặp gỡ người khác khá dễ dàng, cho dù không phải ai cũng có cơ hội như nhau để tiếp cận nó, cách riêng tại một số vùng trên thế giới. Chúng cung cấp một cơ hội phi thường để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi giữa người này và người khác, cũng như để tiếp cận thông tin và tri thức. Hơn nữa, thế giới kỹ thuật số là một thế giới của việc dấn thân chính trị xã hội và hoạt động dân sự, nó giúp phổ biến các thông tin độc lập, cung ứng sự bảo vệ hữu hiệu cho những người yếu đuối nhất và lên tiếng công khai về những vụ xâm phạm các quyền của họ. Tại nhiều quốc gia, internet và các mạng xã hội đã làm nên một diễn đàn vững chắc để tiếp cận với người trẻ, cách riêng trong các sáng kiến và các hoạt động mục vụ”. [40]
  3. Nhưng để hiểu hiện tượng này cách toàn diện, chúng ta cần nhận ra rằng cũng như mọi thực tại con người, nó cũng có những giới hạn và khiếm khuyết. Thật không lành mạnh nếu nhập nhằng đánh đồng sự truyền thông liên lạc với sự tiếp xúc hoàn toàn ảo. Thật vậy, “môi trường kỹ thuật số cũng là một môi trường của sự cô đơn, dẫn dụ, bóc lột và bạo lực, đến mức quá quắt như trường hợp các ‘web đen’. Truyền thông kỹ thuật số có thể đặt người ta trước nguy cơ nghiện ngập, cô lập và dần dần đánh mất sự tiếp xúc với thực tế cụ thể, làm bế tắc sự phát triển các tương quan liên vị đích thực. Những hình thức bạo lực mới đang tràn lan thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, chẳng hạn việc uy hiếp trên mạng. Internet cũng là một kênh truyền bá khiêu dâm và khai thác người ta cho những mục tiêu tình dục hay cho hoạt động cờ bạc”. [41]
  4. Không được quên rằng “có những lợi nhuận kinh tế khổng lồ vận hành trong thế giới kỹ thuật số, nó có thể có những hình thức kiểm soát vừa rất tinh vi vừa rất lan tràn, tạo ra cơ chế cho việc dẫn dụ lương tâm người ta và sự lừa mị tiến trình dân chủ. Cách thế mà nhiều diễn đàn làm việc thường dẫn đến chỗ ủng hộ sự gặp gỡ giữa những người có suy nghĩ giống nhau, tránh cho họ khỏi bị tranh cãi. Những nhóm đóng kín này dễ tạo điều kiện cho sự lan truyền tin giả và thông tin không đúng, kích động thành kiến và đố kỵ. Việc tuyên truyền tin giả là sự thể hiện của một nền văn hóa đã đánh mất cảm thức sự thật, nó bóp méo các sự thật để phục vụ cho lợi ích riêng. Thanh danh của các cá nhân bị lâm nguy bởi những ‘phiên tòa rút gọn’ được tiến hành trên mạng. Giáo hội và các mục tử của Giáo hội cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của hiện tượng này”. [42]
  5. Một tài liệu chuẩn bị hội trước Thượng hội đồng, được thực hiện bởi ba trăm bạn trẻ trên khắp thế giới, đã chỉ ra rằng “những mối tương quan trên mạng có thể trở thành phi nhân. Không gian kỹ thuật số làm ta mờ mắt, không nhìn thấy tình trạng dễ tổn thương của người khác, và nó ngăn cản ta phản tỉnh. Truyền thông khiêu dâm, chẳng hạn, làm méo mó nhận thức của người trẻ về tính dục con người. Công nghệ được dùng theo cách này tạo ra một thực tế hàm hồ có tính đánh lừa, không quan tâm đến phẩm giá con người”. [43] Đối với nhiều người, việc chìm đắm trong thế giới ảo dẫn tới một kiểu “di cư kỹ thuật số”, nó làm cho người ta rút khỏi gia đình, rút khỏi các giá trị văn hóa và tôn giáo, để đi vào trong một thế giới của cô đơn và tự dò dẫm, kết quả là họ cảm thấy bị bật rễ ngay cả dù trong thực tế mình vẫn còn ở đó. Những lối sống mới và cuồng nhiệt của những người trẻ muốn khẳng định tính cách của mình ngày nay đang đương đầu với một thách đố mới: đó là việc tương tác với một thế giới thực và ảo mà họ bước vào một mình, dường như họ đặt chân đến một lục địa chưa hề được khám phá. Người trẻ hôm nay là những người trước hết phải thực hiện sự tổng hợp này giữa những gì là cá vị, những gì là riêng biệt của mỗi nền văn hóa, và những gì là phổ quát. Điều này có nghĩa họ phải tìm ra những cách thế để đi qua sự tiếp xúc ảo và tiến đến sự liên lạc tốt đẹp và lành mạnh.

 

Di dân, một kiểu thức của thời đại chúng ta

  1. Làm sao chúng ta có thể không nghĩ đến tất cả những người trẻ bị ảnh hưởng bởi những làn sóng di dân? “Di dân, nhìn tổng quát, là một hiện tượng có tính cấu trúc chứ không phải một trào lưu nhất thời. Nó có thể diễn ra trong một nước hay giữa các nước khác nhau. Mối quan tâm của Giáo hội đặc biệt tập chú vào những người chạy tránh chiến tranh, bạo lực, tránh sự bách hại vì lý do tôn giáo hay chính trị, hay chạy tránh các thiên tai, bao gồm cả những tai họa do sự biến đổi khí hậu, và chạy tránh tình trạng nghèo đói cùng cực. Nhiều người trong họ còn rất trẻ. Nói chung, họ đang tìm kiếm các cơ hội cho bản thân và cho gia đình. Họ mơ về một tương lai tốt đẹp hơn, và họ muốn tạo điều kiện để đạt được tương lai ấy”. [44] Những người di dân “nhắc chúng ta về một khía cạnh căn bản của đức tin chúng ta: chúng ta là ‘những khách ngoại kiều và những lưu dân trên mặt đất này’ (Dt 11,13)”. [45]
  2. Có những di dân là những người “bị lôi kéo bởi văn hóa phương Tây, đôi khi với các kỳ vọng thiếu thực tiễn đưa họ tới những thất vọng ê chề. Những con buôn vô lương tâm, thường liên kết với các đường dây ma túy và vũ khí, khai thác sự yếu đuối của người di dân, làm cho họ thường kinh nghiệm tình trạng bạo lực, buôn lậu, lạm dụng tâm lý và thể lý, và vô vàn nỗi khổ không kể xiết trên hành trình của họ. Chúng ta cũng không được bỏ qua tình trạng chênh vênh đặc biệt của những di dân là những trẻ vị thành niên không có người đi theo, hay tình trạng của những người bị buộc phải trải qua nhiều năm trong các trại tị nạn, hay những người bị mắc kẹt lâu dài tại những nước trung chuyển, mà không có điều kiện để theo đuổi việc học vấn hay sử dụng các năng khiếu của mình. Tại một số nước chủ nhà, hiện tượng di dân gây ra nỗi sợ và sự cảnh giác, thường được kích động và khai thác cho những mục đích chính trị. Điều này có thể dẫn tới một não trạng bài ngoại, trong đó người ta đóng kín nơi chính mình, và điều này cần phải được giải quyết dứt khoát”. [46]
  3. “Người di dân trẻ kinh nghiệm sự tách biệt khỏi quê quán mình, và cũng thường kinh nghiệm một tình trạng trốc rễ tôn giáo và văn hóa. Sự phân mảnh cũng được cảm thấy bởi các cộng đoàn mà họ bỏ lại phía sau, vì mất đi những nhân tố năng động và có sức sáng tạo nhất của mình; sự phân mảnh cũng xảy ra cho các gia đình, nhất là khi một hoặc cả hai cha mẹ là người di dân, để con cái lại nơi quê quán. Giáo hội có một vai trò quan trọng trong tư cách là điểm tựa cho các thành viên trẻ của những gia đình bị phân tán này. Tuy nhiên, câu chuyện di dân cũng là câu chuyện gặp gỡ giữa các cá nhân và giữa các nền văn hóa. Đối với các cộng đồng và các xã hội nơi người di dân đặt chân đến, họ đem lại một cơ hội cho sự phong phú hóa và cho sự phát triển nhân văn toàn diện của mọi người. Từ nhãn giới này, các sáng kiến tiếp đón – mà Giáo hội có liên can – sẽ có một vai trò quan trọng; chúng có thể đem lại sức sống mới cho các cộng đoàn biết sử dụng chúng”. [47]
  4. “Vì các Nghị phụ Thượng hội đồng đến từ những bối cảnh khác nhau, cuộc thảo luận về di dân có được lợi điểm nhờ rất nhiều hướng tiếp cận đa dạng, nhất là từ những nước di cư và những nước nhập cư. Mối ưu tư đặc biệt cũng được diễn tả bởi các Giáo hội có những thành viên của mình cảm thấy bị buộc phải chạy tránh chiến tranh và bách hại, và bởi những người khác khi nhìn những làn sóng di dân bắt buộc như một mối đe dọa cho sự sống còn của mình. Chính sự kiện Giáo hội có thể nhận lấy tất cả những nhãn giới đa dạng này cho phép Giáo hội đóng một vai trò ngôn sứ trong xã hội trong liên hệ đến vấn đề di dân”. [48] Một cách đặc biệt, cha khẩn khoản kêu gọi các bạn trẻ, các con đừng để mình bị lôi kéo bởi những kẻ gài các con vào thế chống lại các bạn trẻ khác là những người mới đến xứ sở mình, cũng như những kẻ thúc đẩy các con nhìn các bạn nhập cư như một mối đe dọa và như những người không có cùng phẩm giá bất khả nhượng của mọi con người.

 

Chấm dứt mọi hình thức lạm dụng

  1. Gần đây, có những lời kêu gọi khẩn thiết thúc giục chúng ta nghe tiếng than khóc của các nạn nhân liên quan đến các loại lạm dụng khác nhau gây ra bởi một số giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Những tội này gây ra cho các nạn nhân của họ “những nỗi đau khổ có thể kéo dài cả đời và không một sự hối hận nào có thể làm thuyên giảm được. Hiện tượng này lan rộng trong xã hội, nó có thể ảnh hưởng đến Giáo hội và tạo nên một cản ngại nghiêm trọng cho sứ mạng của Giáo hội”. [49]
  2. Quả thật, “nạn lạm dụng tình dục với trẻ vị thành niên hiện nay, cũng như trong lịch sử, là một hiện tượng nơi mọi xã hội và mọi nền văn hóa”, nhất là trong các gia đình và các cơ chế khác nhau; người ta biết đến tầm mức của nó chủ yếu “nhờ những thay đổi trong công luận”. Vấn đề này, ngay cả dù có tính rộng khắp và “ảnh hưởng nghiêm trọng đến các xã hội chúng ta xét như một toàn thể, thì nó vẫn còn nguyên tính khủng khiếp của nó khi xảy ra trong lòng Giáo hội”. Thật vậy, “trong sự phẫn nộ chính đáng của người ta, Giáo hội nhìn thấy phản ảnh cơn giận của Thiên Chúa, Đấng bị phản bội và lăng nhục”. [50]
  3. “Thượng hội đồng tái xác nhận sự cam kết mạnh mẽ về việc áp dụng những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhằm tránh tái diễn [các tội ác], bắt đầu với việc tuyển lựa và đào tạo những ai sẽ được ủy trao các công việc có tính trách nhiệm và giáo dục”. [51] Đồng thời, phải lặp lại quyết tâm áp dụng “những biện pháp và những hình phạt cần thiết”. [52] Và tất cả những điều này được làm với ân sủng của Đức Kitô. Không thể có chuyện lùi bước.
  4. “Có nhiều hình thức lạm dụng: lạm dụng quyền lực, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục và tiền bạc. Rõ ràng, những cách hành xử quyền bính dẫn tới tất cả những lạm dụng ấy đều phải được loại trừ, và cần phải đấu tranh với sự vô trách nhiệm và thiếu minh bạch trong khi xử lý nhiều vụ việc. Sự khao khát thống trị, tình trạng thiếu đối thoại và thiếu minh bạch, những lối sống hai mặt, sự trống rỗng tâm linh, những yếu kém về tâm lý, đều là mảnh đất cho sự thối nát hoành hành”. [53] Tinh thần giáo sĩ trị là một cám dỗ thường xuyên nơi những linh mục nhìn “sứ vụ mà họ lãnh nhận như một quyền lực để thể hiện, hơn là như một việc phục vụ tự do và quảng đại mà họ cống hiến. Tinh thần giáo sĩ trị làm cho người ta nghĩ rằng họ thuộc về một nhóm nắm giữ mọi câu trả lời và không còn cần phải lắng nghe hay học hỏi gì cả”. [54] Thật rõ, tinh thần giáo sĩ trị như thế có thể làm cho những người thánh hiến đánh mất lòng kính trọng đối với phẩm giá thánh thiêng và bất khả nhượng của mỗi con người và sự tự do của họ.
  5. Cùng với các Nghị phụ Thượng hội đồng, tôi hết lòng biết ơn “những người đã có can đảm báo cáo về những vụ việc xấu xa mà họ kinh nghiệm: họ giúp Giáo hội biết điều gì đã xảy ra và hiểu rằng cần phải xử lý dứt khoát”. [55] Tôi cũng đặc biệt biết ơn “sự dấn thân quảng đại của vô số giáo dân, linh mục, những người nam nữ thánh hiến và các giám mục trung thành hiến thân mỗi ngày với sự liêm khiết và nhiệt tâm phục vụ những người trẻ. Các nỗ lực của họ giống như một cánh rừng mênh mông đang âm thầm lớn lên. Nhiều bạn trẻ hiện diện tại Thượng hội đồng cũng diễn tả lòng tri ân đối với những người đã đồng hành với họ, và họ nhấn mạnh rằng rất cần có những người lớn có thể phục vụ như điểm qui chiếu cho họ”. [56]
  6. Tạ ơn Thiên Chúa, những kẻ phạm các tội ác khủng khiếp ấy không phải là thành phần đa số các linh mục vốn là những người thi hành sứ vụ của mình cách trung tín và quảng đại. Tôi kêu gọi các bạn trẻ hãy nhận cảm hứng từ đa số đông đảo này. Và nếu các con thấy một linh mục trong tình trạng nguy hiểm, vì ngài đã đánh mất niềm vui sứ vụ, hay tìm kiếm bù trừ tình cảm, hay đang lạc lối, thì các con hãy nhắc ngài về sự cam kết của ngài với Thiên Chúa và dân chúng, nhắc ngài nhớ đến Tin Mừng và khẩn nài ngài giữ vững con đường của mình. Bằng cách này, các con đóng góp đáng kể cho một việc rất nền tảng, đó là, ngăn chặn những việc quái ác này tiếp diễn. Đám mây đen này cũng thách đố tất cả các bạn trẻ yêu mến Đức Giêsu Kitô và Giáo hội của Người: Các bạn trẻ có thể là một nguồn chữa trị đáng kể nếu họ dùng khả năng lớn lao của mình để đem lại sự đổi mới, để khẩn nài phải có chứng tá nhất quán, để tiếp tục ước mơ và thực hiện những ý tưởng mới mẻ.
  7. Đây cũng không phải là tội lỗi duy nhất của các thành viên trong Giáo hội; trong lịch sử lâu dài của Giáo hội không thiếu những bóng tối. Tội lỗi của chúng ta sừng sững trước mắt mọi người; tất cả chúng được thấy quá rõ nơi những vết nhăn in hằn trên khuôn mặt Giáo hội, là Mẹ và Thầy của chúng ta. Đã hai ngàn năm, Giáo hội bước đi trên con đường lữ hành của mình, chia sẻ “những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” [57] của toàn thể nhân loại. Giáo hội đã bước đi như sự thật của mình, không hề có cuộc giải phẫu thẩm mỹ nào. Giáo hội không sợ phơi trần tội lỗi của các thành viên – những tội lỗi mà một số người trong Giáo hội có khi muốn che giấu – trước ánh sáng nóng bỏng của Tin Mừng vốn có sức thanh tẩy. Giáo hội cũng không ngừng kêu lên mỗi ngày trong tâm tình ăn năn: “Lạy Chúa, xin thương xót con theo lòng nhân hậu Chúa… tội lỗi con luôn ở trước mặt con” (Tv 51,3.5). Tuy nhiên, chúng ta cũng không bao giờ quên rằng chúng ta không được rời bỏ Mẹ của mình khi Mẹ bị tổn thương, nhưng đứng bên Mẹ, để Mẹ có thể vận dụng mọi sức lực và khả năng mà luôn biết bắt đầu lại.
  8. Ở giữa bi kịch gây nhiều đau đớn cho chúng ta này, “Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ bỏ Giáo hội của Người, trao ban sức mạnh và phương tiện để Giáo hội cất bước trên một nẻo đường mới.” [58] Với sự trợ giúp quí báu của người trẻ, thời khắc đen tối này “có thể thật sự là cơ hội cho một cuộc canh tân đầy ý nghĩa”, [59] đưa chúng ta vào một Lễ Hiện Xuống mới và khai mở một giai đoạn mới của sự thanh luyện và thay đổi, giúp lấy lại sự trẻ trung của Giáo hội. Các bạn trẻ sẽ càng giúp ích nhiều hơn nếu họ hoàn toàn ý thức mình thuộc về “đoàn Dân thánh thiện và kiên trung của Thiên Chúa, được tác sinh và được làm linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần”, vì “chính Dân thánh này của Thiên Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi nạn dịch của tinh thần giáo sĩ trị vốn là mảnh đất màu mỡ cho tất cả những điều kinh tởm ấy”. [60]

 

Một lối thoát

  1. Trong chương này, tôi đã nhìn thực tế của giới trẻ trong thế giới ngày nay. Một số khía cạnh khác sẽ được đề cập trong các chương sau. Như đã nói, tôi không có ý bao quát mọi sự trong phân tích này. Tôi khuyến khích các cộng đoàn trân trọng và nghiêm túc khảo sát hoàn cảnh của giới trẻ tại nơi của mình, để tìm ra những cách thức thích hợp nhất mà cung cấp cho họ sự săn sóc mục vụ. Đồng thời, tôi không muốn kết thúc chương này mà không ngỏ lời với mỗi người trong các bạn trẻ.
  2. Cha muốn nhắc lại với các con tin vui mà chúng ta nhận như một quà tặng vào buổi sáng Phục Sinh: đó là, trong tất cả những tình cảnh u ám và đớn đau mà chúng ta đã đề cập, vẫn có một lối thoát. Chẳng hạn, quả thật là thế giới kỹ thuật số có thể vây bủa các con trong nguy cơ của sự đóng kín nơi chính mình, của sự cô lập và của lạc thú trống rỗng. Nhưng đừng quên rằng ở đây cũng có những người trẻ cho thấy sự sáng tạo và thậm chí là kỳ tài. Đây là trường hợp của Carlo Acutis, Tôi Tớ Chúa.
  3. Carlo ý thức rất rõ rằng tất cả phương tiện truyền thông, quảng cáo và mạng xã hội có thể được người ta dùng để mê hoặc chúng ta, làm cho ta thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ và mua sắm những món mới nhất trên thị trường, làm cho ta đắm chìm trong tiêu khiển và kẹt cứng trong những điều tiêu cực. Nhưng Carlo biết cách sử dụng công nghệ thông tin mới để truyền đạt Tin Mừng, để chuyển thông các giá trị và vẻ đẹp.
  4. Carlo đã không dính vào cái bẫy ấy. Cậu thấy rằng nhiều bạn trẻ, vì muốn tỏ ra độc đáo, cuối cùng chỉ giống như mọi người khác; họ chạy theo bất cứ gì mà những kẻ có thế lực bày ra trước mắt mình, trong cơ chế của chủ nghĩa tiêu thụ và của sự phân tán tâm trí. Như thế họ không phát huy những ơn huệ mà Chúa đã ban cho mình; họ không cống hiến cho thế giới những khả năng độc đáo mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta. Vì thế, Carlo nói: “Mỗi người được sinh ra như một cái gì độc đáo, nhưng nhiều người rốt cục chết đi như những bản sao”. Đừng để điều này xảy ra với các con!
  5. Đừng cho phép người ta cướp đi khỏi các con niềm vui và hy vọng, đừng để họ đầu độc và biến các con thành nô lệ phục vụ cho những lợi ích của họ. Các con hãy dám vượt lên trên chính mình, vì ‘mình là ai’ thì quan trọng hơn là ‘mình có gì’. Của cải hay ngoại hình phỏng có giá trị gì nào? Các con có thể trở thành điều mà Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo muốn, nếu các con nhận ra rằng mình được mời gọi vươn lên. Hãy cầu xin sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và tin tưởng nhắm đến mục tiêu cao cả là sự thánh thiện. Bằng cách này, các con sẽ không trở thành một bản sao. Các con sẽ thực sự là chính mình.
  6. Để được vậy, các con cần ý thức một sự thật căn bản: tuổi trẻ, đó không có nghĩa là chạy theo những thú vui nhất thời và những thành công hời hợt. Nếu muốn cho những năm tháng tuổi trẻ của các con đạt được ý nghĩa của nó trong đời, thì đó phải là một thời gian của quảng đại dấn thân, hết lòng cống hiến, một thời gian của những hy sinh không hề dễ dàng nhưng đem lại đầy hoa quả. Như một thi hào diễn tả:

“Làm sao được điều đã được,

nếu tiên vàn không mất điều đã mất?

Làm sao thành công,

nếu không qua vất vả?

Để yêu bây giờ,

tôi phải từng đau,

Nhưng tôi biết mình đã đau cho điều đáng đau,

và đã khóc cho điều đáng khóc.

Vì cuối cùng, tôi hiểu,

chẳng thể nào gặt trong hân hoan,

nếu đã không từng gieo trong nước mắt.

Cuối cùng, tôi hiểu,

hoa bừng nở trên cây kia

đang rút nhựa sống từ sâu dưới đất”. [61]

  1. Nếu các con trẻ trong tuổi đời nhưng cảm thấy mình yếu nhược, rã rời hay vỡ mộng, hãy xin Chúa Giêsu đổi mới các con. Có Người, luôn luôn có niềm hy vọng. Các con cũng hãy xin như vậy nếu các con cảm thấy mình chìm ngập trong trụy lạc, trong những thói xấu, trong tính ích kỷ hay những thú vui không lành mạnh. Chúa Giêsu tràn đầy sức sống, Người muốn giúp làm cho tuổi trẻ của các con có giá trị. Nhờ vậy, các con sẽ không tước mất của thế giới phần đóng góp mà chỉ mình mới thực hiện được, trong tất cả nét độc đáo riêng của các con.
  2. Nhưng cha cũng muốn nhắc các con rằng “khi chúng ta sống tách rời khỏi người khác, thì thật khó để chiến đấu chống lại nhục dục, chống lại những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỉ, cũng như tính ích kỷ của thế gian. Bị tấn công bởi quá nhiều lực lôi kéo, chúng ta có thể trở nên quá cô lập, đánh mất cảm thức về thực tại và sự trong sáng tâm hồn, và dễ dàng đầu hàng”. [62] Điều này đặc biệt đúng đối với người trẻ, vì bất cứ khi nào các con liên kết với nhau, các con sẽ có sức mạnh kỳ diệu. Bất cứ khi nào các con nhiệt tâm với đời sống cộng đoàn, các con sẽ có khả năng hy sinh cho người khác và cho cộng đoàn. Trong khi đó, sự cô lập sẽ rút cạn nghị lực của chúng ta và đặt chúng ta phơi sườn trước những sự dữ tệ hại nhất của thời đại.

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Tư 2024
H B T N S B C
« Th3    
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30