SỨ ĐIỆP CHO NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO 2023 : BẢO VỆ NGƯỜI NGHÈO HƠN LÀ CẢM ĐỘNG TRƯỚC SỐ PHẬN CỦA HỌ

Written by xbvn on Tháng Mười Một 14th, 2023. Posted in Học thuyết xã hội, Luân lý, Nhân bản, Sứ điệp, Tâm linh, Thế Giới, Tý Linh

Trong Sứ điệp cho Ngày Thế giới Người Nghèo, dựa vào Sách Tôbia, Đức Phanxicô mời gọi đừng ngoảnh mặt làm ngơ với những người đang gặp khó khăn, dấn thân cụ thể bảo vệ họ hơn là cảm động trước số phận của họ.

Đức Thánh Cha cảnh giác : « Thực tại ảo đang thắng thế trên cuộc sống thực và ngày càng dễ nhầm lẫn giữa hai thế giới. Người nghèo trở thành hình ảnh có thể làm động lòng trong chốc lát, nhưng khi gặp họ bằng xương bằng thịt trên đường phố, thì sự khó chịu và việc gạt ra bên lề xã hội lại diễn ra. » Bởi vì « khi chúng ta đứng trước một người nghèo khổ, chúng ta không thể ngoảnh mặt đi, vì chúng ta sẽ ngăn cản mình gặp gỡ khuôn mặt của Chúa Giêsu » và « đức tin dạy chúng ta rằng mọi người nghèo đều là con cái của Thiên Chúa và Chúa Kitô hiện diện nơi họ : « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy » (Mt 25, 40) ».

Do đó, Đức Thánh Cha nhấn mạnh : « chúng ta được mời gọi gặp gỡ mọi người nghèo khổ và mọi loại nghèo khổ, rũ bỏ khỏi chúng ta sự thờ ơ và những lời bào chữa tầm thường mà chúng ta đưa ra để bảo vệ phúc lợi ảo tưởng của mình. » Đặc biệt, « khi nói về người nghèo, người ta dễ rơi vào lối hùng biện. Cũng có một cám dỗ ngấm ngầm dừng lại ở số liệu thống kê và các con số. Người nghèo là những nhân vị, họ có khuôn mặt, trái tim và linh hồn. »

Bữa ăn của Đức Thánh Cha với người nghèo nhân Ngày Thế giới Người Nghèo 2022

Dưới đây là toàn văn sứ điệp của Đức Thánh Cha :

 

19/11/2023, Chúa Nhật 33 Thường Niên

« Đối với ai nghèo khổ, con đừng ngoảnh mặt làm ngơ » (Tb 4, 7)

1. Ngày Thế Giới Người Nghèo, dấu hiệu phong nhiêu của lòng thương xót của Chúa Cha, diễn ra lần thứ VII để nâng đỡ cho sự tiến triển của các cộng đồng chúng ta. Đó là một cuộc hẹn mà Giáo hội đang dần dần bén rễ vào đời sống mục vụ của mình, để khám phá ngày càng tốt hơn nội dung trung tâm của Tin Mừng. Mỗi ngày, chúng ta dấn thân đón tiếp người nghèo, nhưng điều đó vẫn chưa đủ. Một dòng sông của sự nghèo đói đang chảy qua các thành phố của chúng ta và dâng lên đến mức tràn ngập ; dòng sông này dường như tràn ngập chúng ta đến nỗi tiếng kêu của anh chị em cầu xin sự trợ giúp, nâng đỡ và liên đới ngày càng mãnh liệt hơn. Đó là lý do tại sao, vào Chúa Nhật trước lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta gặp nhau quanh Bàn tiệc của Ngài để lại nhận được từ Ngài món quà và sự dấn thân sống khó nghèo và phục vụ người nghèo.

« Đối với ai nghèo khổ, con đừng ngoảnh mặt làm ngơ » (Tb 4, 7). Lời này giúp chúng ta hiểu được thực chất của chứng tá của mình. Tìm hiểu Sách Tôbia, một bản văn ít được biết đến của Cựu Ước, hấp dẫn và giàu khôn ngoan, sẽ cho phép chúng ta đi sâu hơn vào nội dung mà tác giả thánh muốn truyền đạt. Một khung cảnh của cuộc sống gia đình mở ra trước mắt chúng ta : người cha, ông Tôbít, chào mừng cậu con trai Tôbia sắp thực hiện một chuyến hành trình dài. Ông cụ Tôbít sợ sẽ không thể gặp lại con trai của mình nữa và đó là lý do ông để lại cho cậy « di chúc tinh thần » của mình. Ông từng bị trục xuất đến Ninivê và giờ đây ông bị mù, vì thế đáng thương gấp đôi, nhưng ông luôn có một niềm xác  tín được diễn tả qua cái tên mà ông mang : « Chúa là sự thiện hảo của tôi ».

Con người này, luôn tin tưởng vào Chúa, với tư cách là một người cha tốt lành, ao ước để lại cho con trai mình không chỉ một số của cải vật chất, mà còn là chứng tá về con đường phải theo trong cuộc sống. Đó là lý do tại sao ông nói với cậu : « Con ơi, con hãy tưởng nhớ Đức Chúa mọi ngày, đừng có ưng phạm tội và làm trái mệnh lệnh của Người. Hãy thực thi công chính suốt mọi ngày đời con và đừng đi theo những nẻo đường bất chính » (4, 5).

2. Như chúng ta có thể thấy ngay, kỷ niệm mà ông cụ Tôbít yêu cầu con trai mình không chỉ giới hạn ở một hành động ký ức hay một lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa. Ông đề cập đến những cử chỉ cụ thể hệ tại thực thi những việc lành và sống công chính. Lời khích lệ này còn được nêu rõ : « Con hãy dùng của cải bố thí cho tất cả những ai thực thi công chính, và khi bố thí, mắt con đừng có so đo » (4, 7).

Những lời của ông cụ khôn ngoan này rất đáng kinh ngạc. Quả thế, chúng ta đừng quên rằng ông Tôbít đã bị mù chính sau khi thực hiện một hành vi thương xót. Như chính ông kể lại, cuộc sống của ông từ khi còn nhỏ đã dành cho các công việc từ thiện. : « Tôi cũng đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người cùng đi đày với tôi qua Ninivê, ở xứ Átsua. […]Cơm bánh của tôi, tôi cho người đói khát; quần áo của tôi, tôi cho kẻ trần truồng; nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía sau tường thành Ninivê, thì tôi chôn cất người đó » (1, 3.17).

Do chứng tá bác ái của ông, nhà vua đã tước hết của cải của ông, khiến ông hoàn toàn trở nên nghèo khổ. Nhưng Chúa vẫn cần ông. Nắm lại chức vụ quản trị viên, ông không sợ kiên trì trong lối sống của mình. Hãy lắng nghe câu chuyện của ông mà ngày nay cũng đang nói với chúng ta : « Ngày lễ Ngũ Tuần của chúng tôi, tức là ngày lễ thánh mừng các Tuần, người ta dọn cho tôi một bữa ăn ngon, và tôi nghiêng người xuống để dùng bữa. Người ta bày bàn, dọn cho tôi nhiều món. Tôi nói với Tôbia, con tôi: « Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Ninivê, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha. Này, con ơi, cha đợi con cho đến khi con về » » (2, 1-2). Sẽ có ý nghĩa biết bao nếu nhân dịp Ngày Người Nghèo, mối quan tâm này của ông Tôbít cũng là mối quan tâm của chúng ta !  Mời chia sẻ bữa ăn Chúa Nhật sau khi chia sẻ Bàn Tiệc Thánh Thể. Thánh Thể được cử hành sẽ thực sự trở thành tiêu chí hiệp thông. Hơn nữa, nếu xung quanh bàn thờ Chúa, chúng ta ý thức tất cả đều là anh chị em,  thì tình huynh đệ này càng trở nên hữu hình biết bao khi chia sẻ bữa ăn ngày lễ với những người thiếu thốn những thứ cần thiết !

Tôbia làm theo lời cha, nhưng cậu trở lại với tin tức rằng một người nghèo đã bị giết và bỏ lại giữa quảng trường. Không do dự, ông cụ Tôbít đứng dậy khỏi bản ăn và đi chôn người này. Về đến nhà mệt quá, ông ngủ quên ngoài sân ; phân chim rơi vào mắt ông và ông bị mù (x. 2, 1-10). Số phận trớ trêu : bạn làm một cử chỉ từ thiện và điều bất hạnh xảy đến với bạn ! Người ta có thể nghĩ như thế ; nhưng đúc tin dạy chúng ta đi sâu hơn. Sự mù lòa của ông Tôbít sẽ trở thành sức mạnh của ông để nhận ra rõ hơn nhiều hình thức nghèo khổ mà ông phải đối mặt. Và đến lúc, Chúa sẽ cho người cha già được sáng mắt và vui mừng khi được gặp lại con trai mình là Tôbia. Khi ngày đó đến, « ông Tôbít ôm choàng lấy cổ cậu, vừa khóc vừa nói: « Con ơi, cha đã thấy con! Con là ánh sáng cho đôi mắt cha!” Rồi ông nói: « Chúc tụng Thiên Chúa! Chúc tụng Danh cao trọng của Người. Chúc tụng mọi thiên sứ thánh thiện của Người! Ước gì Danh cao trọng của Người che chở chúng ta! Chúc tụng mọi thiên sứ đến muôn đời! Vì tôi đã bị Người đánh phạt, nhưng nay lại được thấy Tô-bi-a, con tôi! » » (11, 13-14).

3. Chúng ta có thể tự hỏi : ông Tôbít lấy đâu ra can đảm và sức mạnh nội tâm cho phép ông phụng sự Thiên Chúa giữa một dân tộc ngoại giáo và do đó yêu thương người lân cận bát chấp tính mạng của mình ? Chúng ta đang đứng trước một mẫu gương phi thường : ông Tôbít là một người chồng chung thủy và một người cha chu đáo ; ông đã bị trục xuất xa khỏi vùng đất của mình và chịu đau khổ một cách bất công ; ông bị bách hại bởi nhà vua và những người hàng xóm của mình…Dù tốt bụng, nhưng ông đã bị thử thách. Như Thánh Kinh thường dạy chúng ta, Thiên Chúa không tha những thử thách cho những người làm điều thiện. Tại sao ? Ngài làm điều đó không phải để hạ nhục chúng ta, nhưng để củng cố đức tin của chúng ta vào Ngài.

Lúc chịu thử thách, ông Tôbít khám phá ra sự nghèo khổ của mình, điều này khiến ông có thể nhận ra người nghèo. Ông trung thành với Lề luật của Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn, nhưng điều đó không đủ đối với ông. Ông có thể quan tâm cụ thể đến người nghèo vì ông đã cảm nghiệm được sự nghèo khổ trong thân xác mình. Vì thế, những lời ông nói với con trai Tôbia là di sản đích thực của ông : « Đối với ai nghèo khổ, con đừng ngoảnh mặt làm ngơ » (4, 7). Thực ra, khi chúng ta đứng trước một người nghèo khổ, chúng ta không thể ngoảnh mặt đi, vì chúng ta sẽ ngăn cản mình gặp gỡ khuôn mặt của Chúa Giêsu. Và chúng ta nhận thấy rõ kiểu nói « đối với ai nghèo khổ ». Mỗi người trong họ là người thân cận của chúng ta. Không quan trọng màu da, địa vị xã hội, xuất thân…Nếu tôi nghèo khổ, tôi có thể nhận ra ai thực sự là người anh em cần đến tôi. Chúng ta được mời gọi gặp gỡ mọi người nghèo khổ và mọi loại nghèo khổ, rũ bỏ khỏi chúng ta sự thờ ơ và những lời bào chữa tầm thường mà chúng ta đưa ra để bảo vệ phúc lợi ảo tưởng của mình.

4. Chúng ta đang sống trong một thời điểm lịch sử không thúc đẩy việc quan tâm đến những người nghèo khổ nhất. Âm lượng của lời kêu gọi phúc lợi ngày càng lớn, trong khi tiếng nói của những người sống trong nghèo đói bị bắt chịu im lặng. Người ta có xu hướng bỏ qua tất cả những gì không phù hợp với những mô hình sống đặc biệt dành cho thế hệ trẻ, vốn mong manh nhất trước sự thay đổi văn hóa đang diễn tiến. Người ta gạt sang một bên những gì khó chịu và gây ra đau khổ, đồng thời tán dương những phẩm chất thể lý như thể chúng là mục tiêu chính cần phải đạt được. Thực tại ảo đang thắng thế trên cuộc sống thực và ngày càng dễ nhầm lẫn giữa hai thế giới. Người nghèo trở thành hình ảnh có thể làm động lòng trong chốc lát, nhưng khi gặp họ bằng xương bằng thịt trên đường phố, thì sự khó chịu và việc gạt ra bên lề xã hội lại diễn ra. Sự vội vàng, kẻ đồng hành hằng ngày trong cuộc sống, ngăn cản chúng ta dừng lại, giúp đỡ và chăm sóc người khác. Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x. Lc 10, 25-37) không phải là câu chuyện của quá khứ, nó chất vấn hiện tại của mỗi người chúng ta. Giao việc cho người khác thật dễ dàng ; đóng góp tiền bạc để người khác làm việc từ thiện là một cử chỉ quảng đại ; dấn thân cá nhân là ơn gọi của mọi Kitô hữu.

5. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì nhiều người nam nữ sống hết mình cho người nghèo và những người bị loại trừ, và chia sẻ với họ ; những người ở mọi lứa tuổi và mọi điều kiện xã hội thực hành việc đón tiếp và dấn thân bên cạnh những người đang sống trong những hoàn cảnh bị gạt ra bên lề xã hội và đau khổ. Họ không phải là những siêu nhân, nhưng là những « láng giềng » mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày và âm thầm trở nên nghèo với người nghèo. Họ không bằng lòng với việc cho cái gì đó : họ lắng nghe, họ nói chuyện, họ cố gắng hiểu hoàn cảnh và những nguyên nhân của nó để đưa ra những lời khuyên thích hợp và những tiêu chuẩn đúng đắn. Họ quan tâm đến những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, đến sự thăng tiến toàn diện con người. Nước Thiên Chúa hiện diện và hữu hình trong sự phục vụ quảng đại và nhưng không này ; nó thực sự giống như hạt giống gieo vào mảnh đất tốt của cuộc sống của những người này và sinh hoa kết trái (x. Lc 8, 4-15). Lòng biết ơn đối với rất nhiều tình nguyện viên phải được thực hiện bằng lời cầu nguyện để chứng tá của họ có kết quả.

6. Nhân kỷ niệm 60 năm Thông điệp Pacem in terris, thật cấp bách để lấy lại những lời của thánh Giáo hoàng Gioan XXIII khi ngài viết : « Mọi người đều có quyền sống, quyền toàn vẹn thể lý và các phương tiện cần thiết và đủ để có một cuộc sống đàng hoàng, đặc biệt là về thực phẩm, quần áo, chỗ ở, sự nghỉ ngơi, chăm sóc y tế, các dịch vụ xã hội. Do đó, con người có quyền được an sinh trong trường hợp ốm đau, tàn tật, góa bụa, tuổi già, thất nghiệp và bất cứ khi nào nó bị tước đi những phương tiện sinh sống, do những hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của mình » (số 6).

Còn cả một chặng đường dài phía trước để những lời này trở thành hiện thực, cũng thông qua sự dấn thân chính trị và lập pháp nghiêm túc và hiệu quả ! Bất chấp những giới hạn và đôi khi là những bất lực của chính trị trong việc nhìn nhận và phục vụ công ích, cầu mong cho sự liên đới và bổ trợ của nhiều công dân được phát triển, những người tin vào giá trị của sự dấn thân tự nguyện phục vụ người nghèo. Đó chắc chắn là vấn đề thúc giục và gây áp lực để các cơ quan công quyền hoàn thành tốt bổn phận của họ ; nhưng không có ích gì khi tiếp tục thụ động trong khi chờ đợi đón nhận mọi thứ « từ trên cao » : những người sống trong hoàn cảnh nghèo khó cũng phải được tham gia và đồng hành trên hành trình thay đổi và trách nhiệm.

7. Thật không may, một lần nữa, chúng ta phải ghi nhận những hình thức nghèo khổ mới bên cạnh những hình thức đã được mô tả trên đây. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người sống trong các vùng chiến sự, đặc biệt các trẻ em bị tước mất một hiện tại thanh bình và một tương lai xứng đáng. Không ai có thể được quen với hoàn cảnh này ; chúng ta hãy duy trì sống động mọi nỗ lực để hòa bình được thiết lập như một món quà của Chúa phục sinh và là hoa trái của sự dấn thân cho công lý và đối thoại.

Tôi không thể quên những suy đoán mà, trong các lĩnh vực khác nhau, dẫn đến chi phí tăng thê thảm khiến rất nhiều gia đình càng thêm túng quẫn. Đồng lương nhanh chóng cạn kiệt và dẫn đến những thiếu thốn làm tổn hại phẩm giá của mỗi người. Nếu một gia đình phải lựa chọn giữa thực phẩm để nuôi dưỡng và thuộc men để chữa trị, thì tiếng nói của những người đòi quyền được hưởng cả hai thiện ích đó phải được lắng nghe, nhân danh phẩm giá của nhân vị.

Rồi làm thế nào chúng ta có thể không chỉ ra sự hỗn độn đạo đức liên quan đến thế giới lao động ? Sự đối xử phi nhân dành cho nhiều công nhân ; việc thiếu trả lương tương xứng với công việc được thực hiện ; tai họa của sự bấp bênh ; quá nhiều nạn nhân của các vụ tai nạn, thường là do não trạng thích lợi nhuận tức thời hơn là sự an toàn…Chúng ta nhớ đến những lời của thánh Gioan-Phaolô II : « Nền tảng đầu tiên của giá trị của lao động là chính con người. […] Con người được dự định và được mời gọi lao động, lao động trước hết là ‘vì con người’ chứ không phải con người ‘vì lao động’» (Thông điệp Laborem exercens, số 6).

8. Danh sách này, tự nó đã là rất bi thảm, chỉ phản ảnh phần nào tình trạng nghèo khổ vốn là một phần trong đời thường của chúng ta. Đặc biệt, tôi không thể bỏ qua một dạng khó chịu ngày càng rõ ràng hơn và ảnh hưởng đến thế giới của giới trẻ. Biết bao cuộc đời thất vọng và thậm chí tự tử của các bạn trẻ, bị lừa dối bởi một nền văn hóa khiến họ cảm thấy mình « không hiệu năng » và « thất bại ». Chúng ta hãy giúp đỡ họ phản ứng lại những xúi giục có hại này, để mỗi người có thể tìm thấy con đường phải theo để đạt được một căn tính mạnh mẽ và quảng đại.

Khi nói về người nghèo, người ta dễ rơi vào lối hùng biện. Cũng có một cám dỗ ngấm ngầm dừng lại ở số liệu thống kê và các con số. Người nghèo là những nhân vị, họ có khuôn mặt, trái tim và linh hồn. Họ là những anh chị em với những ưu và khuyết điểm của họ, giống như những người khác, và điều quan rọng là phải đi vào tương quan cá nhân với mỗi người trong họ.

Sách Tôbia dạy chúng ta tính chất cụ thể của hành động của chúng ta với và cho người nghèo. Đây là một vấn đề công lý buộc tất cả chúng ta phải tìm kiếm và gặp gỡ nhau, nhằm thúc đẩy sự hòa hợp cần thiết để một cộng đồng có thể được xác định như thế. Vì thế, việc quan tâm đến người nghèo không chỉ giới hạn ở việc bố thí vội vàng, nhưng đòi hỏi phải khôi phục lại các mối tương quan liên vị đúng đắn vốn đã bị ảnh hưởng bởi sự nghèo khổ. Như thế, việc « không ngoảnh mặt với người nghèo » cho phép đạt được lợi ích của lòng thương xót, của lòng bác ái vốn mang lại ý nghĩa và giá trị cho toàn bộ đời sống Kitô hữu.

9. Ước gì sự quan tâm của chúng ta đối với người nghèo luôn được đánh dấu bằng tính hiện thực của Tin Mừng. Việc chia sẻ phải tương ứng với nhu cầu cụ thể của người khác, chứ không phải để tôi trút bỏ cái dư thừa. Ở đây cũng vậy, cần có sự phân định dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để nhận ra những nhu cầu thực sự của anh chị em của chúng ta chứ không phải những khát vọng của chúng ta. Điều mà họ chắc chắn cần cấp bách, đó là nhân tính của chúng ta, trái tim của chúng ta mở ra cho tình yêu. Chúng ta đừng quên : « Chúng ta được kêu gọi để khám phá Chúa Kitô nơi họ, để góp tiếng nói của chúng ta cho chính nghĩa của họ, nhưng cũng để trở thành bạn hữu của họ, lắng nghe họ, hiểu họ và đón nhận sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho chúng ta qua họ » (Evangelii gaudium, số 198). Đức tin dạy chúng ta rằng mọi người nghèo đều là con cái của Thiên Chúa và Chúa Kitô hiện diện nơi họ : « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy » (Mt 25, 40).

10. Năm nay đánh dấu kỷ niệm 150 năm ngày sinh của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Trong một trang của cuốn « Chuyện một tâm hồn » của mình, thánh nữ đã viết : « Bây giờ con hiểu được rằng đức ái hoàn hảo hệ tại chịu đựng lỗi lầm của người khác, không ngạc nhiên trước những yếu đuối của họ, xây dựng bản thân từ những hành vi nhân đức nhỏ nhất mà chúng ta thấy họ thực hành, nhưng nhất là con đã hiểu được rằng đức ái không được khép kín trong lòng : ‘Chúa Giêsu đã nói : không ai thắp đèn rồi để dưới thùng, nhưng đặt nó trên đế, để nó soi sáng cho mọi người ở trong nhà’. Đối với con, dường như ngọn đèn này tượng trưng cho đức ái vốn phải soi sáng, làm vui mừng, không chỉ những người thân yêu nhất của con, mà tất cả những người ở trong nhà, không trừ một ai » (Ms C, 12r° : Œuvres complètes, Rome1997, 247).

Trong ngôi nhà là thế giới này, tất cả mọi người đều có quyền được soi sáng bằng đức ái, không ai có thể bị lấy đi điều đó. Ước gì tình yêu bền bỉ của thánh Têrêsa truyền cảm hứng cho chúng ta trong Ngày Thế Giới này, xin thánh nữ giúp chúng ta « không ngoảnh mặt với người nghèo » và luôn hướng nhìn về khuôn mặt là người và là Thiên Chúa của Chúa Giêsu-Kitô.

Rôma, Đền thờ thánh Gioan Latêranô, ngày 13 tháng 6 năm 2023, lễ nhớ thánh Antôn Pađôva, Bổn mạng người nghèo.

PHANXICÔ

——————————-

Tý Linh chuyển ngữ

(nguồn : Vatican.va ; bản dịch Thánh Kinh của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ)

Tags: ,

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Tư 2024
H B T N S B C
« Th3    
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30