TUYÊN NGÔN DIGNITAS INFINITA VỀ PHẨM GIÁ CON NGƯỜI: PHẦN 4

Written by xbvn on Tháng Tư 16th, 2024. Posted in Học thuyết xã hội, Lm Võ Xuân Tiến, Luân lý, Nhân bản, Phái tính, Tâm linh, Thế Giới, Tý Linh, Văn kiện Giáo Hội, Đạo đức sinh học

4. Một số vi phạm nghiêm trọng đối với nhân phẩm

33. Dưới ánh sáng của những suy tư đã được đưa ra cho đến nay về đặc tính trung tâm của phẩm giá con người, phần cuối cùng của Tuyên ngôn đề cập đến một số vi phạm cụ thể và nghiêm trọng đối với phẩm giá đó. Tuyên ngôn làm như vậy theo tinh thần Huấn quyền của Giáo hội, được thể hiện đầy đủ trong giáo huấn của các Đức Giáo hoàng gần đây, như chúng ta đã đề cập. Chẳng hạn, Đức Thánh Cha Phanxicô không bao giờ mệt mỏi kêu gọi tôn trọng phẩm giá con người: “Mọi người đều có quyền sống có phẩm giá và được phát triển đầy đủ, và quyền cơ bản này không thể bị từ chối bởi bất kỳ quốc gia nào. Con người có quyền này ngay cả khi họ không hiệu quả lắm, ngay cả khi họ sinh ra hoặc lớn lên với những hạn chế. Bởi vì điều này không làm tổn hại đến phẩm giá vô hạn của nhân vị, vốn không dựa trên hoàn cảnh, nhưng trên giá trị hữu thể của họ. Khi nguyên tắc cơ bản này không được bảo vệ, sẽ không có tương lai cho tình huynh đệ cũng như cho sự sống còn của nhân loại.”[52] Mặt khác, ngài không ngừng chỉ ra cho mọi người thấy những vi phạm cụ thể đối với phẩm giá con người trong thời đại chúng ta, kêu gọi mỗi người gia tăng trách nhiệm và dấn thân tích cực.

34. Để chỉ ra một số trong nhiều vi phạm nghiêm trọng đối với phẩm giá con người trong thế giới đương đại, chúng ta có thể nhắc lại những gì Công đồng Vatican II đã dạy về vấn đề này. Phải thừa nhận rằng “bất cứ điều gì chống lại chính sự sống, chẳng hạn như bất kỳ hình thức giết người, diệt chủng, phá thai, an tử và thậm chí cả cố ý tự sát” đều chống lại phẩm giá con người. Cũng gây tổn hại đến phẩm giá của chúng ta “bất cứ điều gì làm nên sự vi phạm đến tính toàn vẹn của nhân vị, chẳng hạn như cắt xẻo, tra tấn về thể xác hoặc tinh thần, những ép buộc về tâm lý”.[54] Và cuối cùng “tất cả những gì xúc phạm phẩm giá con người, chẳng hạn như những điều kiện sống dưới nhân bản, bỏ tù tùy tiện, lưu đày, nô lệ, mại dâm, buôn bán phụ nữ và thanh niên; hoặc những điều kiện làm việc xuống cấp khiến người lao động trở thành công cụ lợi nhuận thuần túy mà không quan tâm đến nhân cách tự do và trách nhiệm của họ”.[55] Chủ đề án tử hình cũng phải được đề cập ở đây[56]: án tử hình cũng vi phạm phẩm giá của mỗi con người, vốn không thể tước bỏ trong mọi hoàn cảnh. Trái lại, cần phải thừa nhận rằng “việc cương quyết bác bỏ án tử hình cho thấy có thể thừa nhận phẩm giá bất khả tước bỏ của mỗi con người và chấp nhận vị trí của họ trong vũ trụ này đến mức độ nào. Vì nếu tôi không từ chối phẩm giá này với tên tội phạm tồi tệ nhất, thì tôi sẽ không từ chối nó với bất kỳ ai, tôi sẽ cho mỗi người khả năng chia sẻ hành tinh này với tôi bất chấp điều gì có thể chia cắt chúng ta.”[57] Cũng có vẻ thích hợp để nhắc lại phẩm giá của những người bị bỏ tù, thường bị buộc phải sống trong những điều kiện thiếu phẩm giá, và việc thực hành tra tấn gây tổn hại đến phẩm giá vượt trên mọi giới hạn của mỗi con người, ngay cả khi họ phạm những tội ác nghiêm trọng.

35. Không có tham vọng đầy đủ, dưới đây chúng tôi lưu ý đến một số vi phạm nghiêm trọng về phẩm giá con người, đặc biệt mang tính thời sự.

Thảm kịch nghèo khổ

36. Một trong những hiện tượng góp phần đáng kể vào việc phủ nhận phẩm giá của rất nhiều người là tình trạng nghèo đói cùng cực, gắn liền với việc phân phối của cải không đồng đều. Như thánh Gioan-Phaolô II đã từng chỉ ra, “một trong những bất công lớn nhất của thế giới đương đại nằm ở chỗ có tương đối ít người lại sở hữu nhiều, trong khi nhiều người hầu như không có gì cả. Đó là sự bất công trong việc phân phối tồi tệ của cải và dịch vụ vốn ban đầu dành cho tất cả mọi người.”[58] Vả lại, sẽ là ảo tưởng nếu đưa ra một sự phân biệt đơn giản giữa “các nước giàu” và “các nước nghèo”: Quả thật, Đức Bênêđíctô XVI đã thừa nhận rằng “xét về bản thân, của cải thế giới đang tăng lên, nhưng sự bất bình đẳng lại đang gia tăng. Ở các nước giàu, các phạm trù xã hội mới đang trở nên nghèo hơn và các hình thức nghèo đói mới đang xuất hiện. Ở những khu vực nghèo hơn, một số nhóm được hưởng một kiểu phát triển quá mức, trong đó tiêu dùng và lãng phí đi đôi với nhau, điều này tương phản một cách không thể chấp nhận được với những hoàn cảnh nghèo đói phi nhân bản thường xuyên. “Tai tiếng về sự chênh lệch đáng phẫn nộ” vẫn còn” [59] trong đó phẩm giá của người nghèo bị phủ nhận hai lần, vừa do thiếu các nguồn lực sẵn có để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ vừa do sự thờ ơ mà những người sống bên cạnh họ đối xử với họ.

37. Do đó, với Đức Thánh Cha Phanxicô, cần phải kết luận rằng “sự giàu có đã tăng lên, nhưng bằng những bất bình đẳng; và do đó, xảy ra tình trạng “nghèo khổ mới xuất hiện”. Khi người ta nói rằng thế giới hiện đại đã giảm nghèo, người ta nói như vậy bằng cách đo lường sự nghèo khổ bằng những tiêu chí từ thời xa xưa vốn không thể so sánh được với thực tế hiện tại.”[60] Kết quả là, tình trạng nghèo khổ lan rộng “theo nhiều cách, chẳng hạn như nỗi ám ảnh về việc giảm chi phí lao động mà không tính đến những hậu quả nghiêm trọng mà việc này gây ra, bởi vì tình trạng thất nghiệp là kết quả trực tiếp của nó đã mở rộng ranh giới của nghèo khổ.”[61] Trong số những “tác động tàn phá của Đế chế Tiền bạc”,[62] phải thừa nhận rằng “không có tình trạng nghèo khổ nào tồi tệ hơn tình trạng nghèo khổ tước đi lao động và phẩm giá của lao động”.[63] Nếu một số người sinh ra ở một đất nước hoặc một gia đình mà họ có ít khả năng phát triển hơn, thì chúng ta phải thừa nhận rằng điều này đi ngược lại với phẩm giá của họ, vốn chính là phẩm giá giống như phẩm giá của những người sinh ra trong một gia đình hoặc đất nước giàu có. Tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm, ở những mức độ khác nhau, về sự bất bình đẳng rõ rệt này.

Chiến tranh

38. Một thảm kịch khác phủ nhận phẩm giá con người là việc xảy ra chiến tranh, ngày nay cũng như mọi thời đại: “Các cuộc chiến tranh, bạo lực, bách hại vì những lý do chủng tộc hoặc tôn giáo, và rất nhiều cuộc gây tổn hại đến nhân phẩm […] đang gia tăng “một cách đau đớn ở nhiều vùng trên thế giới, đến mức mang những nét của cái mà người ta có thể gọi là ‘chiến tranh thế giới thứ ba phân mảnh””.[64] Với những hủy diệt và đau đớn kèm theo, chiến tranh gây tổn hại đến phẩm giá con người trong ngắn hạn và dài hạn: “Trong khi tái khẳng định quyền tự vệ chính đáng bất khả tước bỏ, cũng như trách nhiệm bảo vệ những người mà sự tồn tại của họ bị đe dọa, chúng ta phải thừa nhận rằng chiến tranh luôn luôn là một “thất bại của nhân loại”. Không có cuộc chiến nào đáng để người mẹ phải rơi nước mắt khi chứng kiến ​​con mình bị thương tật hoặc chết chóc; không có cuộc chiến nào đáng để mất đi mạng sống, dù chỉ là của một nhân vị duy nhất, một hữu thể thiêng liêng, được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Đấng Tạo Hóa; không có cuộc chiến nào đáng để đầu độc ngôi nhà chung của chúng ta; và không có cuộc chiến nào đáng để những người tuyệt vọng buộc phải rời bỏ quê hương và bị tước đoạt, từ lúc này sang lúc khác, mái nhà và tất cả các mối liên hệ gia đình, bằng hữu, xã hội và văn hóa vốn đã được xây dựng, đôi khi trong nhiều thế hệ. ”[65] Tất cả các cuộc chiến tranh, bởi sự kiện đơn giản là chúng mâu thuẫn với phẩm giá con người, đều là “những xung đột không giải quyết được vấn đề nhưng sẽ làm tăng thêm vấn đề”.[66] Điều này thậm chí còn nghiêm trọng hơn trong thời đại chúng ta, nơi rất nhiều thường dân vô tội chết bên ngoài chiến trường đã trở thành chuyện bình thường.

39. Đó là lý do tại sao, ngay cả ngày nay, Giáo hội chỉ có thể lấy những lời của các Đức Giáo hoàng làm của mình, khi lặp lại với thánh Phaolô VI: “Đừng bao giờ chiến tranh nữa, đừng bao giờ chiến tranh nữa!” »,[67] và yêu cầu, cùng với thánh Gioan Phaolô II, “với tất cả mọi người nhân danh Thiên Chúa và nhân danh con người: đừng giết người! Đừng chuẩn bị sự hủy diệt và tiêu diệt loài người! Hãy nghĩ đến những người anh em của các bạn đang phải chịu cảnh đói nghèo! Hãy tôn trọng phẩm giá và tự do của mọi người! ”.[68] Đây chính là tiếng kêu của Giáo hội và của toàn thể nhân loại trong thời đại chúng ta. Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng “chúng ta không còn có thể nghĩ đến chiến tranh như một giải pháp nữa, bởi vì những rủi ro có thể sẽ luôn lớn hơn lợi ích giả định được gán cho nó. Đối mặt với thực tế này, ngày nay rất khó bảo vệ các tiêu chí hợp lý, đã chín muồi ở thời khác, để nói về một “cuộc chiến tranh chính đáng” có thể xảy ra. Đừng bao giờ chiến tranh nữa! ”.[69] Vì nhân loại thường rơi vào những lỗi lầm như trong quá khứ, nên “để xây dựng hòa bình, chúng ta phải thoát khỏi lôgic về tính hợp pháp của chiến tranh”.[70] Mối quan hệ mật thiết giữa đức tin và phẩm giá con người khiến cho việc chiến tranh dựa trên niềm tin tôn giáo trở nên mâu thuẫn: “Ai kêu cầu danh Thiên Chúa để biện minh cho chủ nghĩa khủng bố, bạo lực và chiến tranh thì không đi trên con đường của Ngài: chiến tranh nhân danh tôn giáo trở thành một cuộc chiến tranh chống lại chính tôn giáo”.[71]

Lao động của người di cư

40. Người di cư nằm trong số những nạn nhân đầu tiên của nhiều hình thức nghèo khổ. Phẩm giá của họ không chỉ bị xâm phạm tại đất nước của họ,[72] nhưng chính mạng sống của họ cũng bị đe dọa vì họ không còn phương tiện để lập gia đình, lao động hoặc nuôi sống bản thân.[73] Hơn nữa, một khi đến những quốc gia có thể đón tiếp họ, “người di cư không được coi là đủ xứng đáng để tham gia vào đời sống xã hội như bất kỳ người nào khác và người ta quên rằng họ có cùng phẩm giá nội tại như bất kỳ ai khác. […] Người ta sẽ không bao giờ nói rằng họ không phải là con người, nhưng trên thực tế, thông qua những quyết định và cách đối xử với họ, người ta cho thấy họ bị coi là những người kém giá trị hơn, kém quan trọng hơn, kém nhân tính hơn”.[74] Do đó, thật cấp bách phải luôn nhớ rằng “mọi người di cư đều là một nhân vị, và như thế, sở hữu những quyền cơ bản bất khả tước bỏ vốn phải được mọi người tôn trọng trong mọi hoàn cảnh” [75] Đón tiếp họ là một cách quan trọng và có ý nghĩa để bảo vệ “phẩm giá bất khả tước bỏ của mỗi nhân vị bất kể nguồn gốc, màu da hay tôn giáo” [76]

Buôn bán người

41. Việc buôn bán người cũng phải bị coi là vi phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm.[77]. Nó không phải là mới, nhưng sự phát triển của nó đã mang những chiều kích bi thảm trước mắt chúng ta, đó là lý do tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô đã tố giác nó bằng những lời lẽ đặc biệt mạnh mẽ: “Tôi tái khẳng định rằng “việc buôn bán người” là một hoạt động hèn hạ, một sự xấu hổ đối với xã hội của chúng ta vốn coi mình là văn minh! Những kẻ khai thác và khách hàng ở mọi cấp độ cần tự vấn lương tâm một cách nghiêm túc trước bản thân và trước Thiên Chúa! Giáo hội ngày nay nhắc lại lời kêu gọi mạnh mẽ của mình, để phẩm giá và vị trí trung tâm của mỗi nhân vị luôn được bảo vệ, trong sự tôn trọng các quyền cơ bản, như được nhấn mạnh trong học thuyết xã hội của mình, những quyền mà Giáo hội đòi hỏi chúng ta phải thực sự mở rộng đến những nơi chúng không được công nhận đối với hàng triệu người nam và người nữ ở mỗi châu lục. Trong một thế giới mà chúng ta nói rất nhiều về quyền lợi, nhân phẩm thường bị chà đạp biết bao! Trong một thế giới mà người ta nói quá nhiều về quyền, có vẻ như thứ duy nhất để có được chúng là tiền.”[78]

42. Vì những lý do này, Giáo hội và nhân loại không được từ bỏ cuộc đấu tranh chống lại các hiện tượng “buôn bán các cơ quan và các mô người, khai thác tình dục trẻ em, lao động nô lệ – bao gồm cả mại dâm –, buôn bán ma túy và vũ khí, chủ nghĩa khủng bố và tội phạm quốc tế có tổ chức. Quy mô của những hoàn cảnh này và số lượng sinh mạng vô tội mà chúng hy sinh đến độ chúng ta phải tránh mọi cám dỗ rơi vào chủ nghĩa duy danh của những tuyên bố có tác dụng xoa dịu lương tâm. Chúng ta phải đảm bảo rằng các thể chế của chúng ta thực sự hữu hiệu trong cuộc chiến chống lại tất cả những tai họa này.”[79] Đối mặt với những hình thức phủ nhận phẩm giá con người đa dạng và tàn bạo như vậy, cần phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng “việc buôn bán người là một tội ác chống lại nhân loại” [80]. Về cơ bản, nó phủ nhận phẩm giá con người ít nhất theo hai cách: “Việc buôn bán người làm biến dạng nhân tính của nạn nhân, bằng cách xúc phạm đến tự do và phẩm giá của họ. Nhưng đồng thời, nó làm mất nhân tính của người buôn bán.”[81]

Lạm dụng tình dục

43. Phẩm giá sâu xa gắn liền với con người trong toàn bộ thể xác và tâm trí của họ cũng cho phép chúng ta hiểu tại sao bất kỳ hành vi lạm dụng tình dục nào đều để lại những vết sẹo sâu xa trong tâm hồn của người phải chịu đựng nó: Thật vậy, họ cảm thấy bị tổn thương trong nhân phẩm của mình. Đây là “những đau khổ có thể kéo dài suốt đời và không có sự ăn năn nào có thể chữa lành được. Hiện tượng này lan rộng trong xã hội, nhưng nó cũng ảnh hưởng đến Giáo hội và là một trở ngại nghiêm trọng cho sứ mạng của Giáo hội.”[82] Từ đó, Giáo hội luôn dấn thân chấm dứt mọi hình thức lạm dụng, bắt đầu từ chính mình.

Bạo lực đối với nữ giới

44. Bạo lực đối với nữ giới là một vụ bê bối toàn cầu, ngày càng được thừa nhận. Trong khi phẩm giá bình đẳng của nữ giới được thừa nhận bằng lời nói, thì ở một số nước, sự bất bình đẳng giữa nữ giới và nam giới là rất nghiêm trọng và ngay cả ở những nước phát triển và dân chủ nhất, thực tại xã hội cụ thể lại chứng thực sự kiện là nữ giới thường không được công nhận là có cùng phẩm giá như nam giới. Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh thực tế này bằng cách nói rằng “việc tổ chức các xã hội trên toàn thế giới còn lâu mới phản ánh rõ ràng sự kiện rằng nữ giới có cùng phẩm giá và quyền lợi như nam giới. Người ta khẳng định một điều bằng lời nói, nhưng các quyết định và thực tế lại mang đến một thông điệp khác. Đó là một sự kiện, “nghèo khổ gấp đôi là những người nữ phải chịu đựng những hoàn cảnh bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực, bởi vì, họ thường thấy mình có ít cơ hội nhất để bảo vệ quyền lợi của mình.”[83]

45. Thánh Gioan-Phaolô II đã thừa nhận rằng “còn nhiều việc phải làm để thân phận của người nữ và người mẹ không dẫn đến bất kỳ sự phân biệt kỳ thị nào. Điều cấp bách là phải đạt được sự bình đẳng hữu hiệu về quyền của nhân vị ở mọi nơi và do đó đạt được sự bình đẳng về lương bổng cho một công việc như nhau, việc bảo vệ các bà mẹ đang đi làm, công bằng trong thăng tiến nghề nghiệp, bình đẳng giữa vợ chồng trong quyền gia đình, sự công nhận mọi thứ gắn liền với quyền và bổn phận của công dân trong chế độ dân chủ.”[84] Những bất bình đẳng trong những lĩnh vực này là những hình thức bạo lực khác nhau. Ngài cũng nhắc lại rằng “đã đến lúc phải mạnh mẽ lên án các hình thức bạo lực tình dục thường nhắm vào phụ nữ làm đối tượng, bằng cách tạo ra các công cụ lập pháp bảo vệ thích hợp. Nhân danh sự tôn trọng nhân vị, chúng ta không thể không tố cáo nền văn hóa hoan lạc chủ nghĩa và hám lợi đang lan rộng, cổ vũ việc khai thác tính dục một cách có hệ thống, thậm chí đẩy các bé gái ngay từ khi còn rất nhỏ rơi vào vòng hư hỏng và biến thân xác mình thành món hàng hóa.”[85] Trong số các bạo lực đối với phụ nữ, làm sao không đề cập đến việc ép buộc phá thai, vốn ảnh hưởng đến cả mẹ và con, rất thường để thỏa mãn thói ích kỷ của đàn ông? Và làm sao lại không đề cập đến việc thực hành chế độ đa thê – như Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo nhắc nhở – vốn trái với phẩm giá bình đẳng của người nữ và người nam và cũng trái với “tình yêu vợ chồng vốn là duy nhất và độc hữu”? [86]

46. Trong chân trời bạo lực đối với nữ giới này, hiện tượng giết hại nữ giới sẽ không bao giờ bị lên án đủ. Về mặt trận này, sự dấn thân của toàn thể cộng đồng quốc tế phải chặt chẽ và cụ thể, như Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở: “Tình yêu dành cho Đức Maria phải giúp chúng ta có thái độ nhìn nhận và biết ơn đối với người nữ, đối với những người mẹ và người bà của chúng ta, những người là thành trì trong đời sống của các thành đô chúng ta. Hầu như luôn im lặng, họ giúp cuộc sống tiến về phía trước. Đó là sự im lặng và sức mạnh của niềm hy vọng. Cảm ơn chứng tá của họ. […] Tuy nhiên, nhìn vào những người mẹ và người bà, tôi muốn mời gọi anh chị em hãy chiến đấu chống lại một tai họa đang ảnh hưởng đến lục địa Châu Mỹ của chúng ta: vô số trường hợp giết hại phụ nữ. Có rất nhiều hoàn cảnh bạo lực bị che giấu đằng sau rất nhiều bức tường. Tôi mời gọi anh chị em đấu tranh chống lại nguồn gốc của đau khổ này, bằng cách yêu cầu khuyến khích luật pháp và văn hóa bác bỏ mọi hình thức bạo lực.”[87]

Phá thai

47. Giáo hội không ngừng nhắc nhở rằng “phẩm giá của mỗi con người có một đặc tính nội tại, có giá trị từ lúc được thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Chính việc khẳng định phẩm giá này là điều kiện tiên quyết không thể tránh khỏi để bảo vệ sự tồn tại cá nhân và xã hội, cũng như là điều kiện cần thiết để tình huynh đệ và tình bạn xã hội được thể hiện giữa tất cả các dân tộc trên trái đất”.[88] Dựa trên giá trị bất khả xâm phạm này của sự sống con người, Huấn quyền của Giáo hội luôn lên tiếng chống lại việc phá thai. Về vấn đề này, thánh Gioan-Phaolô II viết: “Trong số tất cả những tội ác mà con người có thể phạm chống lại sự sống, việc phá thai có những đặc điểm khiến nó trở nên đặc biệt nghiêm trọng và đáng lên án. […] Nhưng ngày nay, trong lương tâm của nhiều người, nhận thức về mức độ nghiêm trọng của nó đã dần trở nên lu mờ. Việc chấp nhận phá thai trong tâm thức, trong phong tục và trong chính luật pháp là một dấu hiệu hùng hồn của một cuộc khủng hoảng rất nguy hiểm về ý thức luân lý, vốn ngày càng trở nên không thể phân biệt giữa thiện và ác, ngay cả khi quyền cơ bản được sống đang bị đe dọa. Trước hoàn cảnh nghiêm trọng như vậy, việc can đảm đối mặt với sự thật và gọi sự việc bằng đúng tên của chúng là điều cần thiết hơn bao giờ hết, không nhượng bộ cho những thỏa hiệp dễ dãi hoặc cho cám dỗ tự lừa dối mình. Về vấn đề này, lời khiển trách của Ngôn sứ vang lên một cách dứt khoát: “Khốn thay những kẻ bảo cái tốt là xấu, cái xấu là tốt, những kẻ biến tối thành sáng, sáng thành tối” (Is 5, 20). Chính trong trường hợp phá thai, người ta nhận thấy sự phát triển của những thuật ngữ mơ hồ, chẳng hạn như “chấm dứt thai kỳ”, vốn có xu hướng che giấu bản chất thực sự của nó và làm giảm bớt tính nghiêm trọng của nó trong công luận. Hiện tượng ngôn ngữ này chắc chắn chính là triệu chứng của sự bất ổn mà lương tâm gặp phải. Nhưng không lời nào có thể thay đổi được thực tại của sự việc: phá thai, bất kể nó được thực hiện bằng cách nào, đều là hành vi giết người có chủ ý và trực tiếp đối với một con người trong giai đoạn đầu của cuộc đời, nằm giữa lúc thụ thai và khi sinh ra”[89] ]. Do đó, những đứa trẻ chưa sinh ra là “những người không có khả năng tự vệ và vô tội nhất, những người mà ngày nay người ta muốn phủ nhận nhân phẩm để có thể biến chúng thành những gì người ta muốn, bằng cách tước đoạt mạng sống của chúng và thúc đẩy luật pháp để làm cho không ai có thể ngăn cản được.” [90] Do đó, cần phải khẳng định một cách mạnh mẽ và rõ ràng, kể cả trong thời đại của chúng ta, rằng “việc bảo vệ sự sống chưa sinh ra này gắn liền mật thiết với việc bảo vệ mọi quyền con người. Nó giả định niềm tin rằng con người luôn thánh thiêng và bất khả xâm phạm, trong mọi hoàn cảnh và mọi giai đoạn phát triển của mình. Con người tự nó là một mục đích và không bao giờ là một phương tiện để giải quyết những khó khăn khác. Nếu niềm tin này biến mất, sẽ không còn những nền tảng vững chắc và thường hằng để bảo vệ nhân quyền, vốn sẽ luôn phụ thuộc vào những sở thích tùy tiện của những kẻ có quyền lực vào lúc đó. Chỉ lý trí thôi cũng đủ để nhận ra giá trị bất khả xâm phạm của mỗi mạng sống con người, nhưng nếu chúng ta cũng nhìn nó từ đức tin, thì “bất kỳ sự vi phạm nào đối với phẩm giá nhân vị của con người đều đòi hỏi sự trừng phạt trước sự hiện diện của Thiên Chúa và trở thành một sự xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa của con người” [91]. Ở đây, thật đáng ghi nhớ sự dấn thân quảng đại và can đảm của thánh Têrêsa Calcutta trong việc bảo vệ mọi sự sống được thụ thai.

Mang thai hộ

48. Giáo hội cũng có quan điểm chống lại việc thực hành mang thai hộ, qua đó đứa trẻ, vô cùng có phẩm giá, lại trở thành một đồ vật đơn giản. Về vấn đề này, những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô thật rõ ràng: “Con đường dẫn đến hòa bình đòi hỏi phải tôn trọng sự sống, mọi sự sống của con người, bắt đầu từ sự sống của thai nhi trong bụng mẹ, vốn không thể xóa bỏ hay trở thành một đối tượng mặc cả. Về vấn đề này, tôi nhận thấy việc thực hành của cái gọi là mang thai hộ là đáng tiếc, nó làm tổn hại nghiêm trọng đến phẩm giá của người nữ và trẻ em. Nó dựa trên việc khai thác hoàn cảnh túng thiếu vật chất của người mẹ. Một đứa trẻ luôn là một món quà và không bao giờ là đối tượng của một hợp đồng. Do đó, tôi mong muốn cộng đồng quốc tế sẽ cam kết ngăn cấm thực hành này ở cấp độ toàn cầu.”[92]

49. Việc thực hành mang thai hộ trước hết gây tổn hại đến phẩm giá của đứa trẻ. Thực vậy, mọi đứa trẻ, từ khi được thụ thai, sinh ra và lớn lên thành trai hay gái, cho đến khi trưởng thành, đều có một phẩm giá bất khả xâm phạm được thể hiện rõ ràng, mặc dù theo một cách riêng biệt và khác biệt, trong mỗi giai đoạn cuộc sống của nó. Do đó, trẻ em có quyền, nhờ phẩm giá bất khả tước bỏ của mình, có một nguồn gốc hoàn toàn nhân bản và phi nhân tạo, và có quyền nhận được món quà của một sự sống vốn thể hiện đồng thời phẩm giá của người trao tặng nó và của người đón nhận nó. Việc thừa nhận phẩm giá của nhân vị cũng bao hàm việc thừa nhận phẩm giá của sự kết hợp vợ chồng và của việc sinh sản của con người trong mọi chiều kích của họ. Theo nghĩa này, ước muốn chính đáng có con không thể bị biến thành một “quyền có con” vốn không tôn trọng phẩm giá của chính đứa trẻ như một người nhận được món quà sự sống nhưng không [93].

50. Việc làm mẹ thế đồng thời gây tổn hại đến phẩm giá của chính người nữ bị ép buộc phải làm việc đó hoặc người nữ được tự do quyết định chịu theo nó. Với cách thực hành như vậy, người nữ tách mình ra khỏi đứa trẻ đang lớn lên trong mình và trở thành một phương tiện đơn giản nô lệ cho lợi nhuận hoặc ham muốn độc đoán của người khác. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với phẩm giá cơ bản của mỗi con người và với quyền của họ luôn được thừa nhận vì chính mình chứ không bao giờ là công cụ của bất cứ điều gì khác.

An tử và trợ tử

51. Có một trường hợp đặc biệt gây tổn hại đến phẩm giá con người, thầm lặng hơn nhưng đang tiến triển nhiều . Nó có đặc điểm là sử dụng một quan niệm sai lầm về phẩm giá con người để đảo ngược nó chống lại chính sự sống. Sự nhầm lẫn này, rất phổ biến ngày nay, được đưa ra ánh sáng khi người ta nói về an tử. Chẳng hạn, đạo luật công nhận khả năng an tử hoặc trợ tử đôi khi được gọi là “đạo luật về quyền được chết với phẩm giá” (“death with dignity acts”). Ý tưởng cho rằng an tử hoặc trợ tử là phù hợp với việc tôn trọng phẩm giá của nhân vị đang lan rộng. Trước nhận xét này, cần phải tái khẳng định một cách mạnh mẽ rằng đau khổ không làm cho người bệnh đánh mất đi phẩm giá nội tại và bất khả tước bỏ của họ, nhưng nó có thể trở thành một cơ hội củng cố mối liên kết thuộc về nhau và ý thức về giá trị của mỗi nhân vị đối với toàn thể nhân loại.

52. Chắc chắn rằng phẩm giá của người bệnh trong tình trạng nguy kịch hoặc cuối đời đòi hỏi mỗi người phải thực hiện những nỗ lực thích hợp và cần thiết để giảm bớt nỗi đau khổ của họ thông qua việc chăm sóc giảm nhẹ thích hợp và tránh bất kỳ việc bám riết điều trị nào hoặc bất kỳ sự can thiệp không cân xứng nào. Sự chăm sóc này đáp ứng “bổn phận thường xuyên hiểu biết nhu cầu của bệnh nhân: nhu cầu hỗ trợ, giảm đau, nhu cầu về cảm xúc, tình cảm và tinh thần”.[94] Nhưng một nỗ lực như vậy hoàn toàn khác biệt, khác hẳn, và thậm chí trái ngược với quyết định kết liễu mạng sống của chính mình hoặc mạng sống của người khác dưới sức nặng của đau khổ. Sự sống con người, ngay cả trong tình trạng đau đớn, vẫn mang một phẩm giá phải luôn được tôn trọng, không thể bị mất đi và vẫn phải được tôn trọng một cách vô điều kiện. Thật vậy, không có điều kiện nào mà nếu không có nó thì cuộc sống con người không còn phẩm giá và do đó có thể bị đàn áp: “Sự sống có cùng một phẩm giá và cùng một giá trị đối với tất cả mọi người: việc tôn trọng sự sống của người khác cũng giống như sự tôn trọng mà chúng ta phải có đối với cuộc sống của chính mình”.[95] Vì vậy, việc giúp đỡ người tự sát chấm dứt cuộc sống của họ là một sự tấn công khách quan vào nhân phẩm của người yêu cầu, ngay cả khi việc đó là để thực hiện mong muốn của họ: “Chúng ta phải đồng hành cùng mọi người cho đến khi chết, nhưng không được kích động hay khuyến khích bất kỳ hình thức tự tử nào. Tôi nhắc lại rằng quyền được chăm sóc và điều trị cho tất cả mọi người phải luôn ưu tiên, để những người yếu đuối nhất, đặc biệt là người già và người bệnh, không bao giờ bị loại trừ. Thật vậy, sự sống là một quyền, chứ không phải cái chết, cái chết phải được đón nhận chứ không phải được ban cho. Và nguyên tắc luân lý này liên quan đến tất cả mọi người, chứ không chỉ các Kitô hữu hay các tín hữu.”[96] Như đã nói, phẩm giá của mỗi nhân vị, dù yếu đuối hay đau khổ, đều bao hàm phẩm giá của tất cả mọi người.

Gạt bỏ người khuyết tật

53. Dĩ nhiên, một trong những tiêu chuẩn để xác thực sự quan tâm thực sự đối với phẩm giá của mỗi cá nhân là sự quan tâm dành cho những người thiệt thòi nhất. Thật không may, thời đại của chúng ta không được biết đến với sự quan tâm như vậy: một nền văn hóa vứt bỏ đang chiếm ưu thế.[97] Để chống lại xu hướng này, tình trạng của những người đang ở trong hoàn cảnh khiếm khuyết về thể lý hoặc tâm lý đáng được chú ý và quan tâm đặc biệt. Tình trạng dễ bị tổn thương đặc biệt này, [98] có mặt nhiều trong các trình thuật Tin Mừng, đặt ra câu hỏi phổ quát về nhân vị có nghĩa là gì, đặc biệt từ một tình trạng khiếm khuyết hoặc khuyết tật. Vấn đề về khuyết tật của con người cũng có những hàm ý rõ ràng theo quan điểm văn hóa xã hội, trong chừng mực, trong một số nền văn hóa, người khuyết tật đôi khi bị gạt ra ngoài lề xã hội và thậm chí bị áp bức, bị đối xử như “đồ bỏ” thực sự. Trên thực tế, mỗi con người, bất kể thân phận dễ bị tổn thương của mình, đều nhận được phẩm giá của họ từ chính sự kiện họ được Thiên Chúa muốn và yêu thương. Vì những lý do này, việc hòa nhập và tham gia tích cực vào đời sống xã hội và Giáo hội của tất cả những người, bằng cách này hay cách khác, bị đánh dấu bởi sự mong manh hoặc khuyết tật, cần được khuyến khích càng nhiều càng tốt.[99]

54. Ở một viễn cảnh rộng lớn hơn, cần nhớ rằng “bác ái, vốn là trái tim tinh thần của chính trị, luôn là tình yêu ưu tiên dành cho những người hèn mọn nhất, âm thầm thúc đẩy mọi hành động vì lợi ích của họ. […] “Chăm sóc sự mong manh cần có sức mạnh và sự dịu dàng, đấu tranh và quảng đại, giữa một mô hình duy chức năng và tư nhân hóa vốn dẫn đến ‘nền văn hóa vứt bỏ’ một cách không thể tránh khỏi. [… Điều này] có nghĩa là lãnh trách nhiệm về người đang ở trong hoàn cảnh đau khổ và bên lề nhất của họ và có khả năng xức dầu cho họ bằng phẩm giá”. Như thế, chúng ta cũng tạo ra một hoạt động mãnh liệt, bởi vì “mọi thứ phải được thực hiện để bảo vệ địa vị và phẩm giá của nhân vị.” [100]

Lý thuyết về giống

55. Trước hết, Giáo hội mong muốn “tái khẳng định rằng mỗi người, bất kể khuynh hướng tính dục của họ, phải được tôn trọng trong phẩm giá của họ và được đón nhận với sự tôn trọng, với sự quan tâm để tránh “bất kỳ dấu hiệu phân biệt kỳ thị bất công nào” và đặc biệt là bất kỳ hình thức gây hấn và bạo lực nào”.[101] Đây là lý do tại sao cần phải tố cáo sự kiện đi ngược lại phẩm giá con người là, ở một số nơi, nhiều người bị cầm tù, tra tấn và thậm chí bị tước đoạt sự sống tốt lành chỉ vì xu hướng tính dục của họ.

56. Đồng thời, Giáo hội nhấn mạnh những điểm phê phán mạnh mẽ trong lý thuyết về giống (gender). Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại rằng “con đường dẫn đến hòa bình đòi hỏi phải tôn trọng nhân quyền, theo công thức, đơn giản nhưng rõ ràng, được chứa đựng trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, mà chúng ta vừa kỷ niệm 75 năm. Đây là những nguyên tắc rõ ràng về mặt lý trí và được chấp nhận rộng rãi. Thật không may, những mưu toan được thực hiện trong những thập niên gần đây nhằm đưa vào các quyền mới không hoàn toàn quan trọng so với những quyền được xác định ban đầu và không phải lúc nào cũng được chấp nhận, đã dẫn đến cuộc thực dân hóa ý thức hệ, trong đó lý thuyết về giống đóng vai trò trung tâm, vốn rất nguy hiểm vì nó xóa bỏ những khác biệt trong tham vọng làm cho mọi người bình đẳng.” [102]

57. Liên quan đến lý thuyết về giống, mà tính vững chắc về mặt khoa học của nó là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận trong cộng đồng các chuyên gia, Giáo hội nhắc nhở rằng sự sống con người, trong tất cả các thành phần của nó, thể chất và tinh thần, là một ân huệ của Thiên Chúa, phải được đón nhận với lòng biết ơn và nhằm phục vụ sự thiện. Muốn tự quyết, theo đòi hỏi của lý thuyết về giống, mà không lưu tâm đến chân lý cơ bản này của sự sống con người như một ân huệ, không có nghĩa gì khác hơn là nhượng bộ trước cơn cám dỗ lâu đời của con người tự coi mình là Thiên Chúa và cạnh tranh với vị Thiên Chúa tình yêu đích thực được Tin Mừng mạc khải cho chúng ta.

58. Khía cạnh thứ hai của lý thuyết về giống là nó tìm cách phủ nhận sự khác biệt lớn nhất có thể có giữa các sinh vật: sự khác biệt giới tính. Sự khác biệt nền tảng này không chỉ là sự khác biệt lớn nhất mà người ta có thể tưởng tượng, mà còn là sự khác biệt đẹp nhất và mạnh mẽ nhất: nó thể hiện, trong cặp nam nữ, sự tương hỗ đáng ngưỡng mộ nhất và do đó là nguồn gốc của kỳ công không bao giờ ngừng làm chúng ta ngạc nhiên này, tức là sự xuất hiện của những con người mới trên thế giới.

59. Theo nghĩa này, việc tôn trọng thân xác của chính mình và thân xác của người khác là điều thiết yếu trước sự gia tăng và đòi hỏi về các quyền mới do lý thuyết về giống đưa ra. Ý thức hệ này “cho phép hình dung một xã hội không có sự khác biệt giới tính và làm suy yếu nền tảng nhân học của gia đình”.[103] Do đó, không thể chấp nhận được rằng “một số ý thức hệ thuộc loại này, vốn có tham vọng đáp ứng những khát vọng đôi khi có thể hiểu được, lại muốn áp đặt như một tư tưởng duy nhất, thậm chí quyết định việc giáo dục trẻ em. Cần nhấn mạnh rằng “giới tính sinh học (sex) và vai trò văn hóa xã hội của giới tính (gender) có thể được phân biệt, nhưng không thể tách rời” [104] Vì vậy, mọi mưu toan nhằm che giấu việc quy chiếu đến sự khác biệt giới tính bất khả loại bỏ giữa nam và nữ phải bị bác bỏ: “Chúng ta không thể tách biệt nam giới khỏi nữ giới trong công trình do Thiên Chúa tạo dựng, vốn đi trước mọi quyết định và kinh nghiệm của chúng ta, và là nơi có các yếu tố sinh học rõ ràng”.[105] Chỉ khi mỗi nhân vị có thể nhận ra và chấp nhận sự khác biệt này trong tính hỗ tương thì họ mới có khả năng khám phá ra chính mình một cách trọn vẹn, với phẩm giá và căn tính riêng của mình.

Chuyển đổi giới tính

60. Phẩm giá của thân xác không thể bị coi là thấp kém hơn phẩm giá của nhân vị. Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo rõ ràng mời gọi chúng ta nhìn nhận rằng “thân xác con người tham dự vào phẩm giá của “hình ảnh Thiên Chúa”.”[106] Một chân lý như vậy đáng được ghi nhớ, đặc biệt khi nó liên quan đến vấn đề chuyển đổi giới tính. Quả thật, con người bao gồm cả thân xác và linh hồn không thể tách rời, và thân xác là nơi sống động, nơi mà tính nội tâm của linh hồn được bộc lộ và biểu lộ, kể cả qua mạng lưới các mối quan hệ của con người. Cấu thành hữu thể con người, linh hồn và thân xác như thế tham dự vào phẩm giá đặc trưng của mỗi con người này.[107] Về vấn đề này, cần phải nhớ rằng thân xác con người tham dự vào phẩm giá của nhân vị, trong chừng mực nó được ban cho những ý nghĩa nhân vị, đặc biệt trong điều kiện giới tính của nó.[108] Thật vậy, chính nơi thân xác mà mỗi người nhận ra mình được sinh ra bởi những người khác, và chính qua thân xác của mình mà người nam và người nữ có thể thiết lập một mối quan hệ yêu thương có khả năng sinh ra những người khác. Về sự cần thiết phải tôn trọng trật tự tự nhiên của nhân vị, Đức Thánh Cha Phanxicô dạy rằng “công trình tạo dựng đi trước chúng ta và phải được đón nhận như một quà tặng. Đồng thời, chúng ta được mời gọi bảo vệ nhân loại của mình, và điều này trước hết có nghĩa là chấp nhận và tôn trọng nó như nó đã được tạo ra.”[109] Kết quả là, bất kỳ sự can thiệp chuyển đổi giới tính nào, theo nguyên tắc chung, đều có nguy cơ đe dọa phẩm giá độc nhất mà một người đã nhận được từ thời điểm thụ thai. Điều này không loại trừ khả năng một người có những dị thường về bộ phận sinh dục vốn đã bộc lộ rõ ​​ràng khi sinh ra hoặc phát triển sau này, có thể chọn nhận hỗ trợ y tế để giải quyết những dị thường này. Trong trường hợp này, việc phẫu thuật sẽ không cấu thành sự chuyển đổi giới tính theo nghĩa được hiểu ở đây.

Bạo lực kỹ thuật số

61. Sự tiến bộ của công nghệ kỹ thuật số, mặc dù mang lại nhiều khả năng thăng tiến phẩm giá con người, lại ngày càng có xu hướng tạo ra một thế giới trong đó sự khai thác, loại trừ và bạo lực được phát triển, có thể đi xa đến mức làm tổn hại đến phẩm giá nhân vị. Hãy nghĩ xem, thông qua những phương tiện này, người ta có thể dễ dàng gây tổn hại đến danh thơm tiếng tốt của ai đó thông qua tin tức giả mạo và những lời vu khống. Về điểm này, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng “việc nhầm lẫn giữa giao tiếp với tiếp xúc thuần túy qua mạng là không lành mạnh. Trên thực tế, “thế giới kỹ thuật số cũng là không gian của sự cô độc, thao túng, khai thác và bạo lực, cho đến trường hợp cực đoan là web đen. Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể khiến con người có nguy cơ lệ thuộc, cô lập và dần dần mất tiếp xúc với thực tại cụ thể, do đó cản trở sự phát triển các mối quan hệ liên vị đích thực. Các hình thức bạo lực mới đang lan rộng qua mạng xã hội, chẳng hạn như hành vi bắt nạt trên mạng; trang web cũng là một kênh phổ biến nội dung khiêu dâm và khai thác con người vì mục đích tình dục hoặc thông qua cờ bạc.”[110] Bằng cách này, ở đâu các khả năng kết nối được nhân lên, thì điều nghịch lý là mọi người ngày càng thấy mình bị cô lập và thiếu các mối quan hệ liên vị: “Trong truyền thông kỹ thuật số, người ta muốn phơi bày mọi thứ và mỗi người trở thành đối tượng của những cái nhìn lùng sục, vạch trần và tiết lộ, thường là ẩn danh. Sự tôn trọng dành cho người khác đã bị tan vỡ, và vì thế, cùng lúc với việc tôi gạt bỏ, phớt lờ và giữ khoảng cách với người khác, tôi có thể không chút xấu hổ xâm chiếm cuộc sống của họ từ đầu đến cuối”. [111] Những xu hướng như vậy biểu lộ mặt tối của tiến bộ kỹ thuật số.

62. Trong viễn cảnh này, nếu công nghệ phải phục vụ phẩm giá con người chứ không làm tổn hại nó và nếu nó phải thúc đẩy hòa bình thay vì bạo lực, thì cộng đồng nhân loại phải chủ động đề cập những xu hướng này trong sự tôn trọng phẩm giá con người và thúc đẩy sự thiện : “Trong thế giới toàn cầu hóa này, “các phương tiện truyền thông có thể góp phần giúp chúng ta cảm thấy gần gũi nhau hơn; giúp chúng ta nhận thức được một ý thức mới mẻ về sự hiệp nhất của gia đình nhân loại, thúc đẩy tình liên đới và sự dấn thân nghiêm túc cho một cuộc sống có phẩm giá hơn [cho tất cả mọi người…] Các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta trong lĩnh vực này, đặc biệt là ngày nay, khi các mạng lưới truyền thông của con người đã đạt đến một sự tiến triển phi thường. Đặc biệt, internet có thể mang lại nhiều cơ hội gặp gỡ và liên đới hơn giữa tất cả mọi người, và đó là một điều tốt, đó là một món quà từ Thiên Chúa. Nhưng cần phải liên lỉ đảm bảo rằng các hình thức truyền thông hiện tại hướng chúng ta một cách hiệu quả đến một cuộc gặp gỡ quảng đại, đến việc chân thành tìm kiếm chân lý toàn diện, phục vụ người nghèo, gần gũi với họ, đến nhiệm vụ xây dựng công ích”. [112]

 

————————————–

Tý Linh chuyển ngữ

(nguồn: vatican.va)

Tags: , ,

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Tư 2024
H B T N S B C
« Th3    
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30