ĐỨC PHANXICÔ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA TẠP CHÍ AMERICA  (phần 2)

Written by xbvn on Tháng Mười Một 30th, 2022. Posted in Học thuyết xã hội, Luân lý, Nhân bản, Thế Giới, Tý Linh

Trong cuộc phỏng vấn dành cho « America Magazine », Đức Phanxicô đã đề cập đến các chủ đề khác nhau : phá thai, lạm dụng tính dục, vai trò của nữ giới trong Giáo hội hay sự thỏa thuận giữa Tòa Thánh và Trung quốc. Gợi lên cuộc chiến tranh ở Ucraina, Đức Thánh Cha đảm bảo rằng « Tòa Thánh sẵn sàng làm trung gian cho hòa bình ».

Ngày 22/11 vừa qua, năm thành viên của tạp chí được dòng Tên ở Hoa Kỳ thành lập vào năm 1909, « Ameriaca Magazine », đã phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô tại nơi ở của ngài, nhà Thánh Mátta tại Vatican. Đó là các linh mục  Matt Malone, tổng biên tập sắp hết nhiệm kỳ, và Sam Sawyer, tổng biên tập sắp tới, Kerry Weber, Tổng biên tập điều hành, Gerard O’Connell, phóng viên, và bà Gloria Purvis, người dẫn chương trình « Gloria Purvis Podcast ». Họ đã thảo luận với Đức Phanxicô về nhiều chủ đề : đặc biệt về sự phân cực của Giáo hội Mỹ, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chiến tranh ở Ucraina, mối tương quan của Tòa Thánh với Trung quốc và vai trò của nữ giới trong Giáo hội. Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh Cha nói tiếng Tây Ban Nha với sự trợ giúp của Elisabetta Piqué để phiên dịch.

Về Ucraina, nhiều người Mỹ đã bối rối bởi sự miễn cưỡng rõ ràng của ngài trong việc phê phán trực tiếp Nga. Ngài sẽ giải thích quan điểm của mình về cuộc chiến này thế nào với người Ucraina, người Mỹ và những người khác ủng hộ Ucraina ?

Khi tôi nói về Ucraina, tôi nói về một dân tộc tuẫn đạo. Khi có một dân tộc tuẫn đạo, thì có ai đó đã khiến họ tuẫn đạo. Khi tôi nói về Ucraina, tôi nói về sự tàn ác, bởi vì tôi có nhiều thông tin về sự tàn ác của quân đội đến đó. Nói chung, những người tàn ác nhất có lẽ là những người đến từ Nga, nhưng không phải từ truyền thống Nga, chẳng hạn như người Chechnya, người Bouriates, v.v. Chắc chắn, chính Nhà nước Nga xâm lược. Điều đó là rất rõ ràng. Đôi khi tôi cố gắng không nêu rõ để không xúc phạm và tôi thà lên án cách chung, ngay cả khi tôi biết rất rõ tôi đang lên án ai. Nhưng không nhất thiết tôi phải chỉ ra họ và tên. Ngày thứ hai của cuộc chiến, tôi đã đến tòa đại sứ Nga gần Tòa Thánh, một cử chỉ khác thường vì Giáo hoàng không bao giờ đến một tòa đại sứ. Và ở đó, tôi đã bảo ông đại sứ nói với ông Vladimir Putin rằng tôi sẵn sàng thực hiện chuyến đi với điệu kiện ông ấy để cho tôi một cánh cửa nhỏ để đàm phán. [Sergei] Lavrov, Bộ trưởng ngoại giao, ở cấp cao, đã trả lời bằng một lá thư rất tử tế, mà tôi đã hiểu rằng sáng kiến của tôi là không cần thiết vào lúc này.

Tôi đã nói chuyện điện thoại hai lần với tổng thống Zelensky. Và nói chung, tôi làm việc bằng cách nhận danh sách các tù nhân, cả tù nhân dân sự và tù nhân quân đội, và tôi cho gởi chúng đến chính phủ Nga ; và câu trả lời luôn là tích cực. Tôi cũng đã nghĩ đến một chuyến đi, nhưng tôi quyết định rằng nếu tôi đi, tôi sẽ đến cả Moscou và Kiev, cả hai, chứ không đến đến một trong hai. Tôi chưa bao giờ tạo ấn tượng che đậy cuộc xâm lược. Ở đây, trong phòng này, tôi đã ba hay bốn lần tiếp kiến một phái đoàn của chính phủ Ucraina. Và chúng tôi làm việc cùng nhau. Tại sao tôi không đề cập Putin ? Điều đó không cần thiết, bạn đã biết điều đó. Tuy nhiên, đôi khi người ta bám chặt vào một chi tiết. Một số Hồng y đã đến Ucraina : Đức Hồng y Czerny đã đến đó hai lần ; Đức Tổng Giám mục Gallagher, vị đặc trách về quan hệ với các Nhà nước, đã ở Ucraina bốn ngày và tôi đã nhận được một báo cáo về những gì ngài đã chứng kiến ; và Đức Hồng y Krajewski đã đến đó bốn lần. Ngài đã đi với chiếc xe tải chở đầy hàng viện trợ và trải qua Tuần Thánh ở Ucraina. Tôi muốn nói rằng sự hiện diện của Tòa Thánh nơi các Hồng y là rất mạnh mẽ, và họ liên lạc thường xuyên với những người đảm nhận các chức vị có trách nhiệm. Và tôi muốn đề cập rằng những ngày này là kỷ niệm nạn đói Holodomor, tội ác diệt chủng cho Stalin gây ra đối với người  Ucraina (vào năm 1932-1933). Tôi nghĩ rằng thật chính đáng khi nhớ lại một tiền lệ lịch sử của cuộc xung đột hiện tại. Lập trường của Tòa Thánh là tìm kiếm hòa bình và hòa hợp. Ngoại giao của Tòa Thánh đi theo hướng này và, dĩ nhiên, nó luôn sẵn sàng đóng vai trò trung gian.

Một cuộc khảo sát gần đây cho thấy rằng một số lượng lớn người Công giáo da đen đang rời bỏ Giáo hội. Giờ đây, ngài sẽ nói gì với người Công giáo da đen của Hoa Kỳ, vốn cảm nghiệm được sự phân biệt chủng tộc và đồng thời là sự câm điếc của Giáo hội đối với những lời kêu gọi công bằng chủng tộc ?

Tôi sẽ nói với họ rằng tôi gần gũi với nỗi đau khổ mà họ đang trải qua, vốn là một đau khổ về chủng tộc. Và trong hoàn cảnh này, chính các Giám mục địa phương phải đặc biệt gần gũi họ. Giáo hội có các Giám mục người Mỹ gốc châu Phi.

Làm thế nào chúng ta có thể khuyến khích người Công giáo da đen ở lại ?

Tôi nghĩ rằng điều quan trọng ở đây, đó là sự khai triển mục vụ, dù là bởi các Giám mục hay giáo dân, một sự khai triển mục vụ trưởng thành. Vâng, chúng ta thấy sự phân biệt kỳ thị và tôi hiểu rằng họ không muốn đến với Giáo hội. Điều tương tự đôi khi xảy ra ở các nước khác. Nhưng vấn đề này có một lịch sử rất lâu đời, lâu đời hơn nhiều so với lịch sử của bạn và nó vẫn chưa được giải quyết. Các Giám mục và các nhân viên mục vụ phải đóng góp vào việc giải quyết vấn đề này theo cách Tin Mừng. Tôi có thể nói với người Công giáo Mỹ gốc châu Phi rằng Giáo hoàng ý thức về những đau khổ của họ, ngài yêu thương họ nhiều, và họ phải kháng cự và không nên bỏ đi. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một tội không thể dung thứ đối với Thiên Chúa. Giáo hội, các mục tử và giáo dân phải tiếp tục đấu tranh để xóa bỏ nó và vì một thế giới công bằng hơn.

Tôi tận dụng cơ hội này để nói rằng tôi cũng yêu thương nhiều các dân tộc bản xứ của Hoa Kỳ. Và tôi không quên những người gốc Mỹ Latinh, hiện nay rất đông.

Nhiều phụ nữ đau khổ vì họ không thể được phong chức linh mục. Ngài nói gì với một phụ nữ đã phục vụ trong đời sống của Giáo hội, nhưng vẫn cảm thấy được mời gọi trở thành linh mục ?

Đây là một vấn đề thần học. Tôi tin rằng chúng ta cắt xén bản chất của Giáo hội nếu chúng ta chỉ xem xét con đường chiều kích thừa tác vụ trong đời sống của Giáo hội. Con đường không chỉ là con đường của thừa tác vụ chức thánh. Giáo hội là một người nữ, Giáo hội là một hiền thê. Chúng ta đã không phát triển một nền thần học về nữ giới phản ảnh điều đó. Có thể nói, chiều kích thừa tác vụ là chiều kích của Giáo hội Phêrô. Bây giờ tôi đang đề cập đến một phạm trù nào đó của các thần học gia. Nguyên tắc Phêrô là nguyên tắc về thừa tác vụ. Nhưng còn một nguyên tắc khác còn quan trọng hơn, và chúng ta không nói đến, đó là nguyên tắc Maria, vốn là nguyên tắc về nữ tính trong Giáo hội, về nữ giới trong Giáo hội, trong đó Giáo hội được phản ảnh bởi vì Giáo hội là người nữ và là hiền thê. Một Giáo hội chỉ biết đến nguyên tắc Phêrô sẽ là một Giáo hội mà người ta có thể nghĩ là bị giảm thiểu thành chiều kích thừa tác của mình, không hơn không kém. Trái lại, Giáo hội còn hơn cả một thừa tác vụ. Đó là toàn thể dân Thiên Chúa. Giáo hội là người nữ, Giáo hội là hiền thê. Như thế, phẩm giá của người nữ được phản ảnh theo cách này. Và rồi có một con đường thứ ba : con đường hành chánh. Con đường thừa tác vụ, con đường Giáo hội – chúng ta gọi là Maria – và con đường hành chánh, vốn không thuộc lãnh vực  thần học, nhưng là hành chánh bình thường. Và trong lãnh vực này, tôi tin rằng chúng ta phải dành nhiều chỗ hơn cho phụ nữ. Ở đây tại Vatican, tất cả các vị trí mà chúng ta đã đặt các phụ nữ, đều vận hành tốt hơn. Chẳng hạn, trong Hội đồng kinh tế, có sáu Hồng y và sáu giáo dân. Hai năm trước, trong số sáu giáo dân này, tôi đã bổ nhiệm năm phụ nữ, và đó là một cuộc cách mạng. Phó thống đốc Vatican là một phụ nữ. Khi một phụ nữ tham gia chính trị hay điều hành mọi việc, thì họ thường làm tốt hơn. Nhiều nhà kinh tế đều là phụ nữ, và những phụ nữ này đang đổi mới nền kinh tế theo cách thức có tính xây dựng. Vì thế, có ba nguyên tắc, hai thuộc bản chất thần học và một thuộc bản chất hành chánh. Nguyên tắc Phêrô thuộc chiều kích thừa tác vụ, nhưng Giáo hội không thể vận hành chỉ trên cơ sở này mà thôi. Nguyên tắc Maria là nguyên tắc của Giáo hội phối ngẫu, Giáo hội – hiền thê, Giáo hội – người nữ. Và rồi có nguyên tắc hành chánh, vốn không phải là thần học, nhưng là hành chánh, về những gì chúng ta làm. Và tại sao một phụ nữ không thể tham gia thừa tác vụ chức thánh ? Bởi vì nguyên tắc Phêrô không dự kiến không gian cho điều đó.

Vâng, thực sự là thế, chúng ta phải ở trong nguyên tắc Maria, điều này thì quan trọng hơn. Người nữ thì hơn nhiều, họ giống như Giáo hội là hiền thê và mẹ. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã quá thường xuyên thất bại trong bài giáo lý của mình khi giải thích các khía cạnh này. Chúng ta đã quá dựa vào nguyên tắc hành chánh để giải thích điều đó, điều này về lâu dài không hiệu quả. Đó là một lời giải thích rất súc tích, nhưng điều quan trọng, đó là nhấn mạnh hai nguyên tắc thần học : nguyên tắc Phêrô và nguyên tắc Maria, vốn làm nên Giáo hội. Theo nghĩa này, việc phụ nữ không tham gia đời sống thừa tác vụ không phải là một sự tước đoạt, không. Vị trí của người nữ thì quan trọng hơn nhiều, và đó là một xem xét mà chúng ta còn phải khai triển trong một bài giáo lý về người nữ bằng cách xem xét nguyên tắc Maria. Và khi nói về điều đó, về đặc sủng của phụ nữ, cho phép tôi chia sẻ một kinh nghiệm cá nhân. Khi bạn sắp phong chức cho một linh mục, bạn yêu cầu thông tin từ những người biết ứng viên. Những thông tin tốt nhất mà tôi đã nhận được, những thông tin chính xác nhất, mà tôi nhận được từ người anh em Giám mục phó của tôi, từ các anh em giáo dân không phải là linh mục của tôi, hay từ phụ nữ. Những người nữ này cảm nhận mọi sự theo cách của Giáo hội để biết liệu người này có phù hợp với chức linh mục hay không. Một giai thoại khác : một ngày nọ, tôi đã yêu cầu thông tin về một ứng viên linh mục, một người thực sự xuất sắc. Tôi đã hỏi các giáo sư của anh ta, các bạn học của anh ta và cả những người trong giáo xứ mà anh ta hay lui tới. Và tôi đã nhận được một báo cáo tiêu cực, được viết bởi một phụ nữ, nói rằng : « Anh ta là một mối nguy hiểm, chàng thanh niên này sẽ không làm việc được ! ». Lúc đó, tôi đã gọi cô ấy và hỏi cô : « Tại sao chị nói điều đó ? » Cô ấy đáp : « Con không biết tại sao, nhưng nếu đó là con trai của con, thì con sẽ không để cho người ta truyền chức cho nó : nó thiếu một thứ ». Tôi cân nhắc về lời gợi ý của cô ấy và tôi đã nói với ứng viên : « Con sẽ không được phong chức năm nay : chúng ta hãy đợi thêm một thời gian nữa ». Ba tháng sau, chàng trai trẻ này gặp khủng hoảng và bỏ đi. Người phụ nữ này là một người mẹ đã thấy mầu nhiệm của Giáo hội cách rõ ràng hơn đàn ông chúng ta nhiều. Do đó, ý kiến của một phụ nữ là rất quan trọng, và quyết định của một phụ nữ là tốt nhất.

Ở Hoa Kỳ, một số người giải thích sự chỉ trích của ngài đối với chủ nghĩa tư bản thị trường như là sự chỉ trích đối với Hoa Kỳ. Một số người gọi ngài là người theo chủ nghĩa xã hội, người theo chủ nghĩa cộng sản, người theo chủ nghĩa Mác. Ngài đã nói nhiều lần rằng ngài theo Tin Mừng. Nhưng làm thế nào ngài trả lời cho những người nói rằng những gì ngài nói về kinh tế là không quan trọng ?

Tôi luôn tự hỏi những nhãn hiệu này đến từ đâu. Chẳng hạn, khi chúng tôi trở về từ Ailen, trên máy bay, một lá thư của một vị giám chức người Mỹ đã được công khai, nói mọi thứ và bất cứ điều gì về tôi. Tôi cố gắng tuân theo Tin Mừng. Tôi rất được soi sáng bởi các Mối Phúc, nhưng nhất là bởi nghi thức là chúng ta sẽ được phán xét. Matthêu chương 25 : « Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã đón tiếp, Ta ở tù, các ngươi đã đến với Ta ! » Như thế, phải chăng điều đó có nghĩa rằng Chúa Giêsu là người cộng sản ? Vấn đề đằng sau đó, và bạn đã xác định cách đúng đắn, đó là việc giảm thiểu sứ điệp Tin Mừng thành một sự kiện chính trị xã hội. Nếu tôi xem Tin Mừng duy nhất từ quan điểm xã hội học, thì lúc đó vâng, điều đó là đúng, tôi là cộng sản và Chúa Giêsu cũng thế. Nhưng đằng sau các Mối Phúc và Matthêu 25, có một sứ điệp vốn là sứ điệp của Chúa Kitô. Và Kitô hữu là như thế. Người cộng sản đã đánh cắp một số giá trị của Kitô giáo. Những người khác đã biến nó thành một thảm họa.

Ngài đã bị phê phán vì đã ký kết một thỏa thuận với Trung quốc về việc bổ nhiệm các Giám mục. Một số người trong Giáo hội và trong chính trị nói rằng ngài trả giá đắt để giữ thinh lặng về nhân quyền ở Trung quốc.

Vấn đề không phải là nói hay im lặng. Đây không phải là thực tế. Thực tế là đối thoại hay không đối thoại. Và cuộc đối thoại được thực hiện đến mức có thể thực hiện được. Đối với tôi, Đức Hồng y Casaroli là mẫu gương tốt đẹp nhất của giai đoạn hiện đại của Giáo hội. Có một cuốn sách với tựa đề « Sự tuẫn đạo bằng lòng kiên nhẫn » («The Martyrdom of Patience»), bàn về công việc của ngài ở Đông Âu. Các Giáo hoàng – tôi muốn nói Đức Phaolô VI và Gioan XXIII – chủ yếu cử ngài đến các nước Trung Âu để cố gắng tái lập quan hệ trong thời kỳ cộng sản. Và con người này đã đối thoại với các chính phủ, một cách chậm rãi, bằng cách làm những gì ngài có thể, và dần dần thành công trong việc tái lập hàng giáo phẩm Công giáo nơi các nước này. Chẳng hạn – tôi nghĩ đến trường hợp này – không phải lúc nào cũng có thể bổ nhiệm người giỏi nhất làm Tổng Giám mục của thủ đô, nhưng đúng hơn người có thể được bổ nhiệm theo thỏa thuận với chính phủ. Đối thoại là con đường ngoại giao tốt nhất. Với Trung quốc, tôi đã chọn con đường đối thoại. Nó chậm, có những thất bại, cũng có những thành công, nhưng tôi không thể tìm thấy một con đường khác. Và tôi muốn nhấn mạnh điều này : dân tộc Trung quốc là một dân tộc rất khôn ngoan và họ xứng đáng được sự tôn trọng và ngưỡng mộ của tôi. Trước mặt họ, tôi ngả mũ ! Đó là lý do tại sao tôi cố gắng đối thoại, bởi vì chúng ta sẽ không chinh phục một dân tộc, không ! Có các Kitô hữu ở đó. Họ cần sự quan tâm của chúng ta để họ có thể trở thành những người Trung quốc tốt và những Kitô hữu tốt. Có một cầu chuyện hay khác về cách thức Giáo hội thực thi sứ mạng tông đồ của mình, và nó đề cập đến cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Đức Hồng y Casaroli và Đức Gioan XXIII. Ngài đã ra đi để báo cáo về sự tiến triển của các cuộc đàm phán ở các nước này. Vào cuối tuần, Casaroli đến thăm các cậu bé bị nhốt trong nhà tù dành cho trẻ vị thành niên ở Casal del Marmo. Trong cuộc gặp gỡ với Đức Gioan XXIII, họ đã nói về những vấn đề của nước này hay nước kia. Đã có những quyết định quan trọng phải đưa ra, chẳng hạn làm thế nào để đưa Đức Hồng y József Mindszenty đến Rôma. Vào thời đó, ngài đang sống tại tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Budapest. Đó là một vấn đề rất lớn, một quyết định quan trọng, nhưng Casaroli đã chuẩn bị việc thuyên chuyển. Và khi ngài chuẩn bị ra về, Đức Gioan XXIII đã hỏi ngài : « Thưa Đức Hồng y, một điều nhỏ : ngài có tiếp tục đến nhà tù dành cho trẻ vị thành niên này vào những ngày cuối tuần không ? » Casaroli trả lời : « Có ». « Chào thăm họ hộ tôi và đừng bỏ rơi họ ! » Trong tâm hồn của hai vĩ nhân này, việc đi thăm các bạn trẻ trong các nhà tù cũng quan trọng như việc thiết lập quan hệ với Praha, Budapest hay Vienna. Đó là những người vĩ đại nhất. Chính những yếu tố này mang lại một hình ảnh đầy đủ về con người.

Ngài trở thành Giáo hoàng từ 10 năm qua, nếu nhìn lại, có ba điều mà ngài sẽ làm khác đi hay ngài sẽ hối tiếc không ?

Tất cả ! Tất cả ! Tôi sẽ làm mọi thứ khác đi. Nhưng tôi đã làm những gì Chúa Thánh Thần bảo tôi làm. Và khi tôi không làm như thế, thì tôi đã sai lầm.

———————————-

Tý Linh chuyển ngữ

(nguồn : Vatican News)

————————————

Xem phần 1 ở đây.

Tags: , , , ,

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Mười Hai 2024
H B T N S B C
« Th11    
  1
2 3 4 5 6 7 8
9 10 11 12 13 14 15
16 17 18 19 20 21 22
23 24 25 26 27 28 29
30 31