HỘI THỪA SAI HẢI NGOẠI PARIS LÀ AI ?
Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (MEP) là một Hội truyền giáo được thành lập cách đây hơn 350 năm bởi hai Giám mục người Pháp. Đến châu Á và Ấn Độ Dương, trong suốt lịch sử của mình, Hội đã gởi các linh mục đến để thành lập các Giáo hội và đào tạo hàng giáo sĩ bản địa. Ngày nay, Hội hỗ trợ các Giáo hội địa phương.
MEP được thành lập khi nào ?
MEP là một Hội truyền giáo được thành lập vào năm 1658 bởi Đức cha François Pallu, Đại diện Tông Tòa ở Đàng Ngoài, và Đức cha Pierre Lambert de La Motte, Đại diện Tông Tòa ở Đàng Trong. Các Đại diện Tông Tòa là những vị đại diện của Tòa Thánh, với quyền hạn của một Giám mục, không có tước vị vì lãnh thổ họ quản lý chưa được thiết lập như một giáo phận. Do đó, từ ban đầu MEP phụ thuộc vào Bộ Loan báo Tin Mừng cho các dân tộc được thành lập dưới danh xưng « Thánh Bộ Truyền bá Đức tin » vào năm 1622.
Các linh mục của MEP có quy chế nào ?
Họ là những linh mục của giáo phận được sai đi truyền giáo, nhưng vẫn tiếp tục được nhập tịch trong giáo phận gốc của họ (*). Mỗi linh mục tương lai đều nhận được « điểm đến » của mình, ở châu Á và Ấn Độ Dương. « Điểm đến » là đất nước, văn hóa, ngôn ngữ và con người mà các nhà truyền giáo nhận được từ bề trên tổng quyền của mình.
Mỗi nhà truyền giáo ra đi ad extra, ad vitam và ad gentes (ở nước ngoài, bên ngoài nền văn hóa gốc của mình, trọn đời và bên cạnh những người không phải là Kitô hữu) theo «Monita ad Missionarios » (« Huấn thị cho các Thừa sai ») được viết vào năm 1664 bởi các vị sáng lập là Đức cha François Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte.
Họ được đưa vào ở đâu ?
Ban đầu, mục tiêu của các đấng sáng lập là loan báo Tin Mừng cho các dân tộc ở châu Á, thành lập các Giáo hội và đào tạo hàng giáo sĩ địa phương. Sau Xiêm, Đàng Ngoài, Đàng Trong, Campuchia và một số tỉnh của Trung Quốc, Tòa Thánh đã yêu cầu MEP thay thế Dòng Tên ở miền Nam Ấn Độ vào năm 1776. Vào năm 1831, Tòa Thánh giao phó cho MEP Triều Tiên và Nhật Bản, vào năm 1838, Mãn Châu , vào năm 1841, Malaysia, vào năm 1846, Tây Tạng và Assam, vào năm 1855 Miến Điện, vào năm 1952 giáo phận mới Hoa Liên ở Đài Loan.
Vào thế kỷ XX, các nhà truyền giáo đã bị trục xuất khỏi nhiều nước, lần lượt là Trung Quốc, Miến Điện, Việt Nam, Campuchia, Lào. Sau đó, các nhà truyền giáo được gởi đến các vùng đất mới, đặc biệt là Madagascar, Đảo Maurice, Indonesia. Ngày nay, các nhà truyền giáo tiếp tục hỗ trợ các Giáo hội địa phương mà họ đã giúp thành lập.
10 mốc thời gian chính
1658 : gởi các Đức cha Pallu, Lambert de La Motte và Cotolendi, những Đại diện Tông Tòa đầu tiên tại châu Á.
1664 : Cha Louis Chevreuil là nhà truyền giáo đầu tiên của MEP đến định cư ở Đàng Trong.
1665 : thành lập Chủng viện ở Ayutthaya (ngày nay là Thái Lan), chủng viện đào tạo các linh mục bản địa.
1760 : 100 năm sau khi thành lập MEP, 92 linh mục đã được sai đi truyền giáo.
1921 : đại hội đồng đầu tiên ở Hồng Kông, quyết định bầu một Bề trên tổng quyền chung ở chủng viện Paris và toàn thể MEP, tổ chức các đại hội đồng định kỳ, và xuất bản một nguyệt san. Bầu Bề trên tổng quyền đầu tiên, Đức cha Jean Budes de Guébriant.
1925 : Đức Piô XI phong chân phước cho 79 vị tử vì đạo Triều Tiên, trong đó có ba nhà truyền giáo đầu tiên được gởi đến Triều Tiên : Đức cha Laurent Imbert và các cha Pierre Maubant và Jacques Chastan.
1960 : Từ năm 1860, MEP đã gởi 3259 nhà truyền giáo.
1966 : Đức Phaolô VI phong chân phước cho 24 vị tử vì đạo Triều Tiên.
1980 : tập hợp Madagascar, Đảo Maurice và Réunion thành một xứ truyền giáo duy nhất, đó là Ấn Độ Dương.
1984 : trong chuyến thăm Nam Triều Tiên, Đức Gioan-Phaolô II đã phong thánh cho 103 vị tử vì đạo.
Tý Linh
(theo Geneviève Pasquier, nhật báo La Croix)
——————————————
(*) Được hình thành vào cùng thời điểm với nhau, nên quy chế của Hội Thừa Sai Paris, cũng như Hội Linh Mục Xuân Bích do cha Olier sáng lập, Hội Giảng Thuyết do Đức Hồng y Bérulle sáng lập, và một số Hội khác vào thời này… đều giống nhau ở điểm này: các Giám mục giáo phận nhượng quyền sử dụng một linh mục trong giáo phận của mình cho Hội, để từ nay linh mục này thuộc quyền trực tiếp của Bề trên của Hội, nhưng vẫn nhập tịch trong giáo phận gốc của mình. Vì thế, nếu một linh mục trong Hội này rời khỏi Hội, thì linh mục đó tự động trở về với giáo phận nhập tịch của mình. Do đó, việc coi linh mục này không còn thuộc giáo phận của mình nữa là không đúng với giáo luật của Giáo hội (ctcnd).
Trackback from your site.
Bài viết cùng chủ đề
- NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÃNH NHẬN ƠN TOÀN XÁ TRONG NĂM THÁNH
- CÁC ĐAN SĨ ĐƯỢC MỜI GỌI KHÔNG CHIỀU THEO TINH THẦN THẾ GIAN
- ĐỨC PHANXICÔ NÓI VỚI NGƯỜI CÔNG GIÁO SYRO-MALABAR: “Ở ĐÂU CÓ BẤT TUÂN, Ở ĐÓ CÓ LY GIÁO”
- KINH NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG LỄ CHÚA LÊN TRỜI: CHÚA LÊN TRỜI, BÁO TRƯỚC ĐÍCH ĐẾN CỦA CHÚNG TA
- NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU NASA: “TỪ KHÔNG GIAN, TẤT CẢ CHÚNG TA ĐỀU LÀ CÔNG DÂN CỦA TRÁI ĐẤT”
- VỀ ĐAN VIỆN ĐỨC BÀ AN NAM
- ĐỨC PHANXICÔ GIẢI THÍCH THÀNH NGỮ « XIN CẦU NGUYỆN CHO TÔI, CHỨ ĐỪNG CHỐNG LẠI TÔI »
- BÀI GIÁO LÝ VỀ CẦU NGUYỆN – BÀI 14. CẦU NGUYỆN KIÊN TRÌ
- TẦM QUAN TRỌNG CỦA THẦN HỌC TRONG MỘT THẾ GIỚI ĐANG THAY ĐỔI, THEO ĐỨC PHANXICÔ
- NĂM THÁNH 2025: LÀM CHỨNG CHO NIỀM HY VỌNG LÀ ĐIỀU CẦN THIẾT
- SPES NON CONFUNDIT: SẮC CHỈ HIỆU TRIỆU NĂM THÁNH MỜI GỌI HƯỚNG ĐẾN NIỀM HY VỌNG
- ỦY NHIỆM CỦA ĐỨC PHANXICÔ CHO CÁC CHA SỞ: “HÃY TRỞ THÀNH NHỮNG NHÀ THỪA SAI CỦA TÍNH HIỆP HÀNH”
- BÀI GIÁO LÝ VỀ CẦU NGUYỆN – BÀI 15. ĐỨC TRINH NỮ MARIA, NGƯỜI NỮ CẦU NGUYỆN
- LOGO CÁC CHUYẾN TÔNG DU CỦA ĐỨC PHANXICO ĐẾN CHÂU Á VÀ CHÂU ĐẠI DƯƠNG ĐƯỢC CÔNG BỐ
- BÀI GIÁO LÝ VỀ TẬT XẤU VÀ NHÂN ĐỨC – BÀI 18. ĐỨC CẬY
- KITÔ HỮU VÀ PHẬT TỬ CÙNG NHAU TIẾN BƯỚC VÌ HÒA BÌNH
- “MỘT BÀI TẬP VỀ TÍNH HIỆP HÀNH TRONG THỂ THAO”, HỘI THẢO VỀ GIÁO HỘI VÀ THỂ THAO
- KINH NỮ VƯƠNG THIÊN ĐÀNG CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH NĂM B: CHÚA GIÊSU MUỐN CHÚNG TA TRỞ THÀNH BẠN HỮU CỦA NGƯỜI
- CÁC GIÁM MỤC GIÁO TỈNH REIMS ĐI BỘ CẦU NGUYỆN CHO CÁC ƠN GỌI
- ĐỐI VỚI ĐỨC THÁNH CHA, VIỆC ĐỀN TẠ KITÔ GIÁO PHẢI CHẠM ĐẾN TRÁI TIM CỦA NGƯỜI BỊ XÚC PHẠM