LINH MỤC SỐNG VÀ THỰC THI MỤC VỤ LÒNG THƯƠNG XÓT

Written by xbvn on Tháng Năm 23rd, 2016. Posted in Lm. Trần Minh Huy, Việt Nam, Xuân Lộc

Micae-Phaolô Trần Minh Huy, PSS

 LINH MỤC SỐNG VÀ THỰC THI  MỤC VỤ LÒNG THƯƠNG XÓT

Linh Mục Đoàn Xuân Lộc Thường Huấn

Ngày 17-18/5/2016

 

CHƯƠNG TRÌNH THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN XUÂN LỘC

CHỦ ĐỀ : LINH MỤC VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA

Thứ Ba – Thứ Tư, 17 – 18/05/2016

THỨ BA, 17.05.2016

08g00:    Tiếp đón – nhận phòng

08g15:   Có mặt tại hội trường – Khai mạc – Đức Cha Phó Giuse  gặp gỡ Quý Cha

08g30:      Tiết I: Linh mục trở nên giống Chúa Kitô, chính lòng thương xót nhập thể (Cha Micae Phaolô Trần Minh Huy, Hội Xuân Bích, Giáo sư ĐCV. Huế, Hà Nội, Bùi Chu và Thái Bình. Tel: 0905027101- email: mptmh0205@gmail.com)

09g15:      Giải lao

09g30:    Tiết II: Bí tích giải tội, phương thế tối ưu để sống năm thánh lòng thương xót (Cha Micae Phaolô Trần Minh Huy)

10g15:      Giải lao

10g30:      Tiết III: Linh mục sống và thực thi Năm thánh lòng thương xót trong môi trường được sai đến (Cha Micae Phaolô Trần Minh Huy)

11g15:      Kinh Trưa (Hội Trường)

11g30:      Cơm trưa – Nghỉ trưa

13g30:      Chuông báo thức

14g00:      Tiết IV: Chia sẻ theo nhóm nhỏ và nêu những thắc mắc

  1. Xin Cha chia sẻ những cảm nghiệm thiêng liêng của Cha trong việc đón nhận và trao ban Lòng Thương Xót trong môi trường Cha được sai đến.
  2. Cha có thao thức hay thắc mắc gì về chủ đề “Linh Mục và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”? Đặc biệt những vấn đề xoay quanh các đề tài trong tiết I, II và III sáng nay?

14g45:      Giải lao

15g00:      Tiết V: Trao đổi với Thuyết trình Viên – Cha Micae Phaolô Trần Minh Huy

16g30:      Tắm giặt

17g30:      Kinh chiều (Nhà Nguyện TGM)

18g00:      Cơm tối

              Thời gian tự do gặp gỡ, chia sẻ và sống tình huynh đệ linh mục.

21g15:      Kinh tối (đọc riêng) – Nghỉ đêm

THỨ TƯ, 18.05.2016 :

04g00:      Thức dậy

04g45:      Kinh Sáng – Nguyện ngắm

05g30:      Thánh lễ

06g45:      Ăn sáng

07g45:      Tiết I: Những tiến triển lịch sử của khoa Thần học và Mục vụ dẫn đến năm thánh Lòng Thương Xót (Thánh Nữ Maria Faustina à Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II à Đức Giáo hoàng Phanxicô) (Cha Giuse Nguyễn Văn Am, Dòng Don Bosco – Trưởng Khối Thần học Học Viện Công giáo Việt Nam – Giám Đốc Học viện, Phó Giám Tỉnh Dòng Don Bosco) (tel: 0908909152 – email: amsdb1955@gmail.com)

08g45:      Giải lao

09g00:      Tiết II: “Linh mục, thừa tác viên của lòng Chúa thương xót” (dựa theo tài liệu của Thánh Bộ Giáo Sỹ – Bản Anh ngữ: “The Priest, Minister of Divine Mercy” – Do Linh mục Phêrô Đặng Xuân Thành chuyển dịch.) – Cha Giuse Nguyễn Văn Am, Dòng Don Bosco.

10g00:      Giải lao

10g15:      Tiết III: Chia sẻ theo nhóm nhỏ

  1. Theo Cha đâu là những thách đố đối với các linh mục ngày nay khi thi hành chức vụ thừa tác viên của Lòng Thương Xót? Làm thế nào để giải quyết những thách đố này?

11g00:      Giải lao

11g15:      Kinh trưa – Viếng Thánh Thể

11g30:      Cơm trưa – Nghỉ trưa

13g00:      Chuông báo thức

13g45:      Tiết IV: Đúc kết chia sẻ nhóm (Ban Thư ký)

14g15:      Giải lao

14g30: Thánh lễ tạ ơn Chúa Tri ân Đức Cha Đaminh và Đức ông Vinh Sơn

16g00: Kết thúc  – Các Cha trở về nhiệm sở.

————-

Trọng kính hai Đức Cha,

Kính thưa Đức Ông Tổng Đại Diện, Cha Phó Giám Tỉnh Don Bosco, Quý Cha Quản Hạt, Quý Cha Cố và Quý Cha,

Trước hết, con xin hết lòng cám ơn Chúa, cám ơn hai Đức Cha, Đức Ông và Quý Cha đã cho con cơ hội đến với Xuân Lộc, giáo phận lớn nhất Việt Nam về nhiều mặt. Nghe biết về Xuân Lộc, con rất ngưỡng mộ, cảm phục và biết ơn vì được đến Xuân Lộc để học hỏi với hai Đức Cha, Đức Ông và Quý Cha, khi trình bày về đề tài Linh Mục Sống và Thực Thi Mục Vụ Lòng Thương Xót, theo chiều hướng ĐTC Phanxicô mong muốn là nhằm Biến Đổi Mục Vụ dựa trên lòng thương xót của Chúa.

Quả thế, Năm Thánh Lòng Thương Xót mời gọi mọi người mở lòng ra với lòng thương xót của Chúa, mở tâm hồn và bản thân ra để Chúa Giêsu đến với mình bằng cách đi xưng tội và có lòng thương xót với tha nhân[1], nhất là anh em linh mục chúng ta là những người phải được thực sự canh tân thiêng liêng trước đã rồi mới có thể trở thành tác nhân hòa giải và thương xót hiệu quả cho đoàn chiên mà Chúa và Giáo Hội ủy thác cho chúng ta chăn dắt, như người ta thường nói về linh mục: “một linh hồn tự mình vươn lên được sẽ nâng mọi người lên theo”, hoặc “linh mục không lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục một mình mà còn kéo theo nhiều người khác nữa, cách riêng những người được giao phó cho linh mục chăm sóc mục vụ”.

Đúng vậy, Năm Thánh Ngoại Thường Lòng Thương Xót này có làm cho giáo dân được biến đổi nên tốt hơn hay không đều tùy thuộc chủ yếu ở hàng linh mục chúng ta có biến đổi thánh thiện hơn hay không, như người ta thường nói “linh mục thế nào giáo dân thế ấy: linh mục thánh thiện làm nên giáo dân đạo đức, linh mục đạo đức làm nên giáo dân tầm thường, linh mục tầm thường làm giáo dân ra khô khan nguội lạnh, linh mục khô khan nguội lạnh làm giáo dân xa Chúa, linh mục tội lỗi làm giáo dân trở nên quỷ sứ”. Nói cách khác, nếu chúng ta không đem những phương thế của Năm Thánh ra thực hiện cùng với giáo dân và cho giáo dân trong thực tế cuộc sống thì mọi giáo huấn hay ho của Huấn Quyền sẽ vẫn chỉ là lý thuyết suông nằm trên giấy tờ và sách vở. Chính ĐTC Phanxicô nói “linh mục chắc chắn không trao sức mạnh cho Tin Mừng… nhưng linh mục có thể hỗ trợ hoặc cản trở cuộc gặp gỡ giữa Tin Mừng và dân chúng”.

Ngày hôm nay, con xin sẽ trình bày ba đề tài này:

  1. Linh mục trở nên giống Chúa Kitô – chính Lòng Thương Xót Nhập Thể.
  2. Bí tích Giải Tội, phương thế tối ưu để sống Năm Thánh Lòng Thương Xót.
  3. Linh mục sống và thực thi Năm Thánh Lòng Thương Xót trong môi trường được sai đến.


BÀI 1

LINH MỤC TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA KITÔ, CHÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT NHẬP THỂ

 Linh mục vừa là người của Chúa vừa là người cho mọi người, nhưng vẫn không thôi là con người với những giới hạn và yếu đuối của con người, nên linh mục cần phải cảnh giác uốn nắn điều chỉnh luôn theo gương mẫu của Chúa Kitô. ĐTC Phanxicô đã nói đến 15 thứ bệnh và cám dỗ có thể xảy ra cho mỗi người (bệnh tưởng mình là bất tử, không thể thiếu được; bệnh Marta, làm việc thái quá; bệnh “chai cứng” tâm trí và tinh thần; bệnh kế hoạch hóa thái quá và duy hiệu năng; bệnh phối hợp kém; bệnh “suy thoái não bộ tinh thần”; bệnh cạnh tranh và háo danh; bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống, sống hai mặt; bệnh ngồi lê đôi mách, lẫm bẩm và nói hành; bệnh thần thánh hóa giới lãnh đạo; bệnh dửng dưng đối với người khác; bệnh có bộ mặt đưa đám; bệnh tích trữ; bệnh nhóm khép kín; bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương), và Ngài đưa ra 24 đức tính mà người phục vụ Giáo Hội phải có như là những phương thuốc trị liệu, bao gồm tinh thần truyền giáo và mục vụ, khả năng thích hợp và tinh tế, thiêng liêng và nhân bản, gương mẫu và trung thành, hợp lý và dễ mến, thận trọng và cương quyết, bác ái và sự thật, lương thiện và trưởng thành, tôn trọng và khiêm tốn, quảng đại và quan tâm, can đảm và mau mắn, đáng tín nhiệm và điều độ[2].

 Mẫu người mục tử mà chúng ta phải noi theo chính là Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Tông Sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót vẽ ra chân dung vị mục tử mà chúng ta phải cố gắng trở thành. “Các hình ảnh của Đức Kitô mà chúng ta hướng nhìn như điểm qui chiếu cho sứ vụ của chúng ta trong tư cách linh mục là những hình ảnh rất rõ ràng: Đức Kitô là Thượng tế, vừa gần gũi Thiên Chúa vừa gần gũi con người; Đức Kitô là tôi tớ, người cúi xuống rửa chân và đặt mình gần gũi với những kẻ yếu hèn nhất; và Đức Kitô là mục tử nhân lành luôn luôn ân cần săn sóc đàn chiên… Ba hình ảnh tư tế, tôi tớ và mục tử ấy cho thấy rằng chúng ta không phải là những linh mục cho chính chúng ta, và sự thánh hóa của chúng ta được nối kết mật thiết với sự thánh hóa của dân chúng mà chúng ta chăm sóc… Và cách chăm sóc mục vụ ấy phải thấm đẫm lòng thương xót: “Ở đâu có lòng nhân từ, ở đó có tinh thần của Chúa; còn ở đâu có sự khắt khe, ở đó chỉ có các thừa tác viên của Chúa thôi. Thừa tác viên mà không có Chúa thì trở thành khắc nghiệt, và đây là một nguy hiểm cho dân Thiên Chúa. Chúng ta là những mục tử, không phải những công chức! (càng không phải là kẻ chăn thuê)… Lời trách móc nặng nề nhất có thể nêu lên chống lại chúng ta là chúng ta không thực hành điều mình công bố cho người khác”[3].

Thánh Gioan Maria Vianney khẳng định: “Một mục tử tốt theo con tim của Thiên Chúa là kho tàng lớn nhất mà Thiên Chúa nhân lành có thể ban cho một giáo xứ, và là một trong những hồng ân quý giá nhất của lòng thương xót của Thiên Chúa”[4]. Là linh mục tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi noi theo gương Chúa Giêsu mà trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài là vị Mục tử nhân lành đầy lòng thương xót, và cũng chính là Lòng Thương Xót Nhập Thể. “Tất cả mọi sự nơi Người đều tỏ bày cho thấy lòng thương xót; không có gì nơi Người lại thiếu vắng lòng thương xót”[5].

 1. Giống Chúa Kitô về Đời Sống Nội Tâm Cầu Nguyện

Các trình thuật Tin Mừng khắc họa Chúa Giêsu là con người của đám đông và cho đám đông, nhưng cũng là con người một mình ‘lên núi’ cầu nguyện nữa. Gắn bó với dân chúng, nhưng Ngài cũng dành thời gian một mình cầu nguyện lâu giờ kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Sự gắn bó của Ngài với dân chúng là một cái gì trào ra từ sự hiệp thông của Ngài với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện khi được dân chúng nồng nhiệt ngưỡng mộ như sau biến cố hóa bánh ra nhiều[6], khi vui mừng đón bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo trở về[7], Ngài cầu nguyện khi buồn sầu và cô đơn ở vườn Giếtsêmani[8], Ngài cầu nguyện trên Thập Giá tại đồi Canvê[9], cầu nguyện cả khi trút hơi thở cuối cùng, phó thác chính mình trong tay Cha[10].

Là người của Thiên Chúa, dù sống giữa thế gian nhưng không được thuộc về thế gian, chúng ta nỗ lực nên giống Chúa Giêsu là con người cầu nguyện và có đời sống nội tâm sâu xa, có khả năng chiêm niệm trong hành động: yêu mến cầu nguyện, dành ưu tiên cho giờ cầu nguyện hằng ngày, sắp xếp ngày sống làm sao để có thể dành cho Chúa một thời gian chất luợng. Chính đời sống cầu nguyện sẽ làm cho chúng ta luôn ở lại trong Chúa Giêsu như cành nho ở lại trong thân nho[11]. Sự ở lại này là bí quyết giúp chúng ta sống một đời sống tâm linh sinh động và phong phú. Chính nhờ đời sống cầu nguyện này mà chúng ta trở nên nhạy cảm hơn với Chúa Thánh Thần, trở nên ngoan ngoãn hơn trước những gợi ý và thúc đẩy của Ngài, đồng thời nhận ra và qui phục hoàn toàn cho Thánh Ý Thiên Chúa.

Nếu không quan tâm tài bồi cho đời sống nội tâm thiêng liêng sâu xa, chúng ta dễ bị hướng ngoại và đánh mất căn tính của mình. Thánh Grêgôriô Cả Giáo Hoàng than phiền: “Chúng tôi bị lôi cuốn vào những công việc bên ngoài. Chức vụ chúng tôi đã nhận thì khác, và công việc chúng tôi làm lại khác… Khi để tâm lo các việc đời, và càng hăng say làm những việc bên ngoài, thì thật sự chúng tôi càng dửng dưng với những việc bên trong, càng vướng mắc những việc bên ngoài càng sao lãng tác vụ phải hoàn tất[12].

Nhiều giáo dân ngày nay rất trông mong chúng ta cung cấp cho họ sự hướng dẫn thiêng liêng, dẫn dắt họ bước đi trên nẻo đường cầu nguyện. Đây cũng là một nhu cầu mục vụ thiết yếu của lòng thương xót, chúng ta phải đáp ứng cơn đói khát thiêng liêng này của giáo dân, nếu không muốn họ bị lôi kéo đến một chỗ khác để tìm kiếm. Bộ Giáo sĩ dạy: “Chỉ có người mục tử cầu nguyện mới có thể chỉ bảo cho người ta biết cách cầu nguyện, và mới có thể đem ơn Chúa xuống cho những người mà mình chịu trách nhiệm săn sóc mục vụ… Chỉ có linh mục biết sống hằng ngày kinh nghiệm hoán cải và biết kết hiệp thân mật với Chúa Kitô mới có thể thúc đẩy những bước tiến đáng kể trong công cuộc Phúc âm hóa đích thực và mới mẻ.”[13] Còn thánh Gioan Thánh Giá nói: “Linh mục không thể lãnh đạo và hướng dẫn người khác nếu chính bản thân linh mục lại xa lạ với những nẻo đường và những cách làm việc của Chúa Thánh Thần. Và nếu bản thân linh mục là người thiếu năng lực biện phân, thì ngài phá hỏng công cuộc của Chúa Thánh Thần nơi những tâm hồn mà linh mục dẫn dắt”[14].

2. Giống Chúa Kitô về Lòng Nhân Ái 

Khi đọc và suy gẫm Tin Mừng, chúng ta dễ có ấn tượng sâu đậm về lòng nhân ái của Chúa Giêsu: Ngài ôm các em bé vào lòng, chúc lành cho chúng và khẳng định rằng Nuớc Thiên Chúa thuộc về những người giống như chúng.[15] Ngài có các bạn hữu ở Bêtania và tương giao thân tình nồng ấm với họ. Ngài đã cảm thương bạn hữu đến độ sa nước mắt như việc đã xảy ra bên mồ Ladarô.[16] Ngài cũng nếm cảm nỗi đói khát, cô đơn và buồn sầu đến có thể chết được. Là hiện thân của Chúa Kitô, chúng ta khao khát có lòng nhân ái như Ngài. Lòng nhân ái của Ngài được nhìn thấy rõ rệt nhất nơi tấm lòng trắc ẩn. ĐTC diễn tả đầy đủ tất cả những điều này trong số 8 của Tông Sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót.

Trắc ẩn không chỉ là thương hại người ta, mà đúng hơn là cảm nếm nỗi đau khổ nơi người ta, cùng chịu đau khổ với họ và tìm cách giúp họ: Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông đói mệt trong hoang địa[17]. Trái tim trắc ẩn của Ngài đã hoàn toàn đồng cảm với và mang lấy gánh buồn đau của người góa phụ khóc thương đứa con trai duy nhất chết[18]. Ngài cảm nhận được lòng thống hối của người đàn bà tội lỗi sa nước mắt rửa chân cho Ngài. Lòng trắc ẩn của Ngài đã thúc đẩy Ngài đi đến gặp gỡ, đụng chạm đến những người phung hủi mà xã hội loại trừ và liệt vào hạng ô uế phải xa tránh không được tiếp xúc[19].

Lòng nhân ái của Chúa Giêsu thúc đẩy Ngài đi vào mối liên hệ cá nhân với tất cả mọi người: những người đau ốm, những người khốn khổ, những người nghèo hèn, những người bị áp bức, những người bị loại ra bên lề, những người tội lỗi, không loại trừ ai. Ngài không bao giờ quên các cá nhân và nhu cầu của họ: Ngài dừng lại với anh ăn xin mù Bartimê;[20] bị đám đông chen lấn xô đẩy, Ngài vẫn cảm nhận được đức tin của người phụ nữ cố kín đáo chạm đến mép áo Ngài vì tin tưởng sẽ được chữa lành[21]. Ngài đã cảm kích lòng quảng đại của bà góa nghèo dâng cúng vào hòm tiền trọn số tiền bà đang có để sống[22].

Để nên giống Chúa Kitô, chúng ta phải biết cảm xúc với người ta, vì người ta và cho người ta, nhất là những người khốn khổ trong thân xác cũng như đau khổ trong tâm hồn, cảm nhận “những vui mừng và hy vọng, những ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là những người nghèo và những người đau khổ…”[23] Chúng ta không thể vô cảm, vô can, hay dửng dưng với bao nỗi đau buồn và nỗ lực chiến đấu của những người mà chúng ta có bổn phận phục vụ. Những nỗi đau đớn và sầu khổ của họ phải trở thành đối tượng lời cầu nguyện của chúng ta và dẫn dắt chúng ta hành động cụ thể để cứu giúp họ. Có những người đã từng trải qua những ngày tháng tăm tối và sống được đến ngày hôm nay là nhờ sự bao dung và đồng cảm từ các thừa tác viên của Giáo Hội… Lòng bao dung trắc ẩn giúp thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn và an toàn hơn.

ĐTC Phanxicô nêu gương thương yêu và đồng cảm với người nghèo khó, rủi ro tai nạn, tù tội,… ấn tượng nhất khi ngài ôm hôn người có khuôn mặt bị biến dạng vì bệnh tật. Ngài nhiều lần đích thân gọi điện thoại an ủi nâng đỡ nhiều người gặp những hoàn cảnh khó khăn. Ngài mừng sinh nhật lần thứ 77 với 4 người nghèo vô gia cư. Ngài quan tâm đặc biệt đến người di dân, tị nan và kêu gọi mọi người đón tiếp chăm sóc họ. Ngài kịch liệt chống lại thứ văn hóa dửng dưng, loại trừ và miệt mài cổ vũ nền văn hóa gặp gỡ. Ngài mời gọi chúng ta cải hoán tâm hồn, từ bỏ thái độ dửng dưng để mặc lấy lòng thương xót. Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng trước tiếng kêu khóc của con cái, dạy chúng ta phải có lòng thương xót. Lòng thương xót này là quả tim của Chúa, và cũng phải là quả tim của tất cả những ai nhận biết mình thuộc về gia đình con cái của Chúa[24].

Người ta không ngớt lời ca ngợi phong thái nhân từ của ĐTC Phanxicô đối với người khuyết tật và trẻ thơ, nhất là cách tiếp cận đầy lòng thương xót và bao gồm mọi người, sẵn sàng vươn tay ra với những người ở bên lề về vật chất cũng như bên lề hiện sinh để đem họ tới một tình trạng tốt đẹp hơn. Christine Legrand viết: “Khi còn ở Argentina, Ngài rất quan tâm đến thuộc cấp, ngài có một đường dây điện thoại trực tiếp, họ có thể gọi ngài bất cứ giờ nào. Các cuối tuần ngài bỏ thì giờ đi thăm các giáo xứ nghèo nhất, trao đổi với các linh mục ở khu phố ổ chuột và ở các nhà tù[25].

Nhờ cuộc sống độc thân, chúng ta hoàn toàn có tự do để yêu thương, quan tâm và chăm sóc mọi người, vì chúng ta là người của mọi người và mọi người có quyền đòi hỏi chúng ta không được thuộc về riêng ai cả. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói: “Linh mục được mời gọi bắt chước gương Chúa Kitô và mang trọn tấm lòng đồng cảm của Ngài đến cho những người ốm đau tật nguyền… Linh mục không giống được với Chúa Kitô ở chỗ linh mục không có quyền năng làm phép lạ chữa lành các anh chị em đau yếu, nhưng linh mục có thể đem lại cho họ sự an ủi về mặt luân lý và tâm linh, nâng đỡ họ trong cơn thử thách và ngay cả có thể giúp họ mau chóng bình phục hơn.”[26] Có thể chúng ta không xóa tan được nỗi thống khổ của tha nhân, nhưng chính sự hiện diện với lòng thương xót của chúng ta trong nỗi thống khổ của họ sẽ đem lại cho họ niềm hy vọng và sớm được chữa lành. Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, “mỗi người chúng ta cũng hãy nhìn lại sự dửng dưng đã có mặt trong chính đời sống của mình như thế nào[27] để sửa đổi.

Chúng ta không chỉ thực thi sứ vụ phục vụ những người bệnh tật và đau khổ, mà đồng thời chúng ta cũng nhận được sự nâng đỡ lớn lao từ nơi họ: Sự hy sinh và lòng kiên nhẫn chịu đựng của họ là một cảnh tỉnh và nguồn nghị lực nâng đỡ chúng ta, khích lệ tinh thần chúng ta và làm cho chúng ta giàu tính người hơn và trở nên giống Chúa Kitô hơn. ĐTC nhắn nhủ: “Linh mục phải là một người an bình, biết tỏa lan sự thanh thản ra chung quanh mình, cả trong những lúc vất vả, thông truyền vẻ đẹp của quan hệ với Chúa. Một điều không bình thường là một linh mục sầu muộn, khó tính, cáu kỉnh, hoặc có tính tình cứng cỏi; những thái độ như thế chẳng tốt cho linh mục cũng như cho dân chúng[28].

3. Giống Chúa Kitô về Nhạy Bén Mục Vụ

Để dẫn dắt đoàn chiên sống giữa một thế giới đang thay đổi và tiếp tục thay đổi đến chóng mặt này, chúng ta cố gắng bắt nhịp hài hòa với tình hình hiện nay của thế giới và đất nước, luôn sẵn sàng bén nhạy đọc được các thời triệu, chấp nhận các mới mẻ của những đổi thay, can đảm thích nghi chính mình cách khôn ngoan sáng suốt với những bước chân của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng làm cho mọi sự nên mới.[29]

Nhãn quan Phúc Âm hóa và quy chiếu về lòng thương xót thúc đẩy chúng ta có một nhận thức hiện thực về các tình hình và vấn đề trên thế giới. Sự nhạy cảm của lòng thương xót giúp chúng ta hiểu rõ hơn các nhu cầu của giáo dân và dân chúng, nhận thức được những vấn nạn không lời của họ, đáp ứng các thỉnh nguyện, chia sẻ những hy vọng, những trông đợi, những niềm vui và những gánh nặng của họ.[30] Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên bố rằng: “Có lẽ chưa bao giờ như tại Công đồng Vaticanô II này, Giáo Hội cảm thấy nhu cầu phải hiểu biết, đến gần, thông cảm, thấm nhập, phục vụ và Phúc Âm hóa xã hội bao quanh mình. Giáo Hội đã không chỉ lo lắng suy nghĩ về chính mình, nhưng Giáo Hội cũng quan tâm nhiều tới con người… Các giá trị của nó không những được nhìn nhận mà còn được quý mến, các nỗ lực của nó được thanh lọc và được chúc lành”[31].

 Đây cũng là lời cổ vũ mạnh mẽ cho Giáo Hội Công giáo Việt Nam chúng ta trong Năm Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Xã Hội 2016 và Năm Thánh Lòng Thương Xót này. ĐTC Phanxicô tố cáo sự dửng dưng đối với Chúa và đối với con người, sự dửng dưng đe dọa sự ổn định của hành tinh chúng ta đang sống. Ngài mời gọi chúng ta giữ hy vọng để phát triển tình tương trợ và lòng thương xót như một chương trình sống: Tình tương trợ là một thái độ đạo đức, một thay đổi mang tính xã hội, nhằm đáp ứng tốt nhất để chúng ta nhận thức được các vết thương của thời buổi này[32].

Tông huấn Lời Chúa[33] nhắc nhở rằng việc mục vụ của Giáo Hội phải cho thấy rõ Thiên Chúa lắng nghe những nhu cầu và tiếng kêu của con người hầu mang lại cho con người hạnh phúc vĩnh cửu[34]. ĐTC Biển Đức XVI kêu gọi tình liên đới của mọi người trước những thiên tai xảy ra dồn dập trên thế giới: “Tâm trí Cha đặc biệt hướng về những dân tộc lúc nầy đang chịu những thảm họa thiên nhiên nghiêm trọng, gây ra những thương vong về người và thiệt hại về tài sản, khiến nhiều người trở thành vô gia cư. Cha cầu xin Chúa cho các nạn nhân và Cha bày tỏ sự gần gũi tinh thần với tất cả những ai đang chịu những tình huống khốn khó nầy. Cha cầu xin Thiên Chúa an ủi họ trong những đau khổ và nâng đỡ họ trong những cơn khốn khó.[35]

ĐTC Phanxicô còn đi xa hơn nữa là đích thân đi tới với các nạn nhân chết chìm trên biển cả hay chết khát trong sa mạc vì mong đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngài dạy rằng Giáo Hội phải như một bệnh viện dã chiến mau mắn chạy tới nơi nào có thương tích để chữa lành: “Bệnh viện dã chiến là hình ảnh mà cha thường giới thiệu về một “Giáo hội đi ra”,… uyển chuyển, cứu cấp, can thiệp nhanh chóng để cho chiến sĩ khỏi bị chết[36].

Tông sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót nói rõ: “Lòng thương xót là luật cơ bản ngự trị trong trái tim của mỗi con người đang nhìn chân thành vào đôi mắt của anh chị em mình trên đường đời”[37]. Lòng thương xót là chủ đề lặp đi lặp lại của ĐTC Phanxicô và ngài xác quyết rằng Thiên Chúa không bao giờ mỏi mệt để ban ơn tha thứ và chờ đón sự trở về của con người, nên Giáo hội cũng luôn đón đợi con người với cánh tay mở rộng. Ngài muốn nói điều này với tất cả mọi người, những người ở bên trong cũng như bên ngoài Giáo hội, những người đi tìm một ý nghĩa cho cuộc sống của mình, đi tìm một con đường bình an và hòa giải, một con đường để chữa lành các tổn thương thiêng liêng cũng như thể lý[38]. ĐHY Luis Antonio Tagle của Philippines kêu gọi Giáo Hội nói ít hơn và lắng nghe người dân nhiều hơn: “Tôi nhận thấy đau khổ của người dân và những câu hỏi khó do họ nêu lên là lời mời gọi chúng ta trước hết phải liên đới với họ, chứ đừng giả vờ rằng chúng ta có sẵn hết các giải pháp[39].

Nhân cuộc khủng bố ngày 13/11/2015 tại Paris, ĐTC chia sẻ: “Tôi muốn bầy tỏ nỗi đớn đau sâu thẳm của tôi nhân các vụ tấn công khủng bố… Tôi đặc biệt gần gũi gia đình những người đã mất mạng sống và những người bị thương. Biết bao nhiêu dã man khiến cho chúng ta kinh hoàng và tự hỏi làm sao trái tim con người lại có thể nghĩ ra và thực hiện các biến cố kinh khủng như thế… Không thể không lên án việc xúc phạm tới phẩm giá con người một cách xấu hổ như thế. Tôi mạnh mẽ tái khẳng định rằng con đường bạo lực và thù hận không giải quyết được các vấn đề của nhân loại”[40].

ĐTC Phanxicô cổ vũ mọi người đón nhận nền “văn hóa gặp gỡ” để gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ mọi người, kể cả những người không có đức tin. Hơn ai hết, chúng ta vun đắp cho mình có lòng thương xót và nhạy cảm để suy nghĩ với đầu óc của Chúa Giêsu, nhìn sự việc với con mắt của Chúa Giêsu, hành động với sức mạnh của Chúa Giêsu, phán đoán với sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, sử dụng biện pháp với lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, yêu thương với con tim của Chúa Giêsu, đào tạo với sư phạm của Chúa Giêsu, nhẫn nại với sự nhẫn nại của Chúa Giêsu, tha thứ với lòng thương xót của Chúa Giêsu. Tắt một lời là làm sao để giáo dân luôn nhận ra được nơi chúng ta “tiếng nói của Chúa Chiên Nhân Lành[41]. Có thế thì chúng ta mới sống trọn vẹn và thành công trong đời sống và sứ vụ linh mục của mình, như lòng Chúa và Giáo Hội mong muốn: “Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó”[42].

 Công Đồng Vaticanô II thúc bách các môn đệ Chúa Kitô không ngừng hoàn thiện các hiểu biết về những sự của Thiên Chúa và những sự của con người, ngõ hầu đi vào đối thoại cách thích đáng với những người đương thời. ĐTC nhấn mạnh: “Công đồng Vatican II mở con đường đi gặp tất cả mọi người, nơi họ sống, trong thành phố của họ, nơi nhà ở của họ, nơi họ làm việc… ở bất cứ đâu có giáo hữu là Giáo hội được gọi để mang niềm vui Tin Mừng đến… Năm Thánh cho chúng ta tinh thần cởi mở và buộc chúng ta không được xem thường tinh thần Công đồng Vatican II[43].

Chúng ta cảm động nghe lời vị đại diện thổ dân Da Đỏ cám ơn ĐTC trong cuộc viếng thăm mục vụ Mehicô ngày 15/2/2016: “Cảm ơn cha đã viếng thăm chúng con, dù cho nhiều người khinh thị chúng con. Cha đến đây và cha nhìn nhận chúng con, như Đức Mẹ Guadalupe đã làm với thánh Juan Dieguito thuở xưa. Cha mang lấy chúng con và văn hóa chúng con trong lòng, với những niềm vui nỗi buồn, với những bất công mà chúng con đã chịu … Dù cha sống rất xa, ở Roma, nhưng chúng con thấy cha rất gần. Xin cha tiếp tục truyền niềm vui Tin Mừng cho chúng con[44].

Sự nhạy bén này sẽ gợi ý và hướng dẫn những đổi thay trí não và con tim chúng ta hướng tới cuộc trở lại liên lỉ với Chúa và với tha nhân. Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định, từ lúc được sinh ra cho đến lúc chết đi, trải qua tích cực cũng như tiêu cực. Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài, xuyên qua Phúc Âm, các dấu chỉ thời đại, các biến cố thăng trầm của cuộc sống mỗi ngày, thì chúng ta cũng phải đổi mới sự đáp trả của mình sao cho tương xứng. Mọi việc Chúa Kitô làm đều mang dấu ấn của thay đổi, thay đổi từ cũ sang mới, từ điều được trông đợi đến điều bất ngờ: Ngài ngồi ăn với người tội lỗi, nói chuyện với người đàn bà Samaria, vượt quá luật ngày Sabát, yêu thương kẻ thù, và hy sinh mạng sống vì người khác. Mọi hành động ấy đều là những thay đổi. Qua những thay đổi ấy, Hội Thánh được sinh ra, và hôm nay cũng qua những thay đổi như thế mà Hội Thánh tồn tại, tiếp tục sống và hoạt động cho phần rỗi nhân loại.

Trong chiều hướng hòa mình thích nghi với những đổi thay này, chúng ta được mời gọi trở thành những con người quảng đại phục vụ trong bất cứ cái gì, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, và bất cứ thế nào mà dân chúng cần đến và Giáo Hội sai chúng ta đi: “Ai đã tận hiến cuộc đời mình cho Chúa thì luôn sẵn sàng để phục vụ Giáo Hội ở bất cứ nơi đâu Giáo Hội cần[45]. Trong cuốn sách “Tên của Chúa là Lòng Thương Xót” do ký giả Andrea Tornielli nói về lòng thương xót của Chúa, ĐTC Phanxicô nhấn mạnh: “Cha hy vọng năm toàn xá sẽ ngày càng khơi lên hình ảnh của một Giáo hội là dạ cưu mang lòng thương xót và Giáo hội sẽ đến gặp rất nhiều người bị thương, những người cần được lắng nghe, được thông cảm, được tha thứ và được có tình yêu[46].

4. Giống Chúa Kitô về Tinh Thần Phục Vụ

Hẳn chúng ta đều khao khát nên giống Thầy Chí Thánh Giêsu, Đấng “đã đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”[47]. Ở Việt Nam chúng ta, linh mục vẫn còn được dân chúng khá trọng vọng, Xã hội cũng thường dành cho linh mục một sự nể nang, và giáo dân nói chung thường cung phụng linh mục. Chúng ta cần điều chỉnh và sửa đổi nhãn quan của mình trong khía cạnh này, vì con đường theo Chúa Giêsu là luôn đi theo con đường phục vụ và hạ mình, nhưng điều này mang đến bình an và hạnh phúc cho chúng ta. Bộ Giáo Sĩ nhắc nhở: “Linh mục có một uy thế giữa các tín hữu, và tại vài nơi linh mục còn có những thẩm quyền dân sự nữa. Tuy nhiên, linh mục cần ý thức rằng uy thế đó phải gắn liền với lòng khiêm nhường và phải được sử dụng đúng đắn để thúc đẩy công cuộc cứu rỗi các linh hồn, trong khi không ngừng xác tín rằng chính Chúa Kitô mới là thủ lĩnh đích thực của dân Thiên Chúa”[48].

 ĐTC Phanxicô đã làm gương về tinh thần phục vụ khi tự đi lấy hành lý và thanh toán tiền phòng, tự xách cặp của mình cả trong các cuộc tông du. Để nên giống Chúa Giêsu, chúng ta cố gắng làm người chăn chiên tốt lành sẵn sàng hy sinh vì đàn chiên[49]. Chúng ta được trao tác vụ không phải cho bản thân, nhưng cho cộng đoàn tín hữu; không phải để làm ông chủ sai khiến cộng đoàn, nhưng là để cống hiến cho cộng đoàn sự phục vụ vô vị lợi: “Tìm gặp Chúa Kitô nơi người khác, trong tình yêu ưu tiên đối với người nghèo, nơi họ, con mắt đức tin của chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu và khám phá ra một tình yêu bao dung đối với tội nhân”[50].

Tinh thần phục vụ của người tôi tớ sẽ làm cho chúng ta biết vui tươi chấp nhận và dốc sức chu toàn những công việc bổn phận được giao phó cho mình, dù đó là những công việc vinh dự hay thấp hèn đến đâu đi nữa, dù đó là những công việc gắn liền với tên tuổi hay chỉ âm thầm trong bóng tối và không được ai biết đến. Tinh thần phục vụ của người tôi tớ sẽ cắt xén khỏi chúng ta những dấu vết bội phản thuộc căn chứng sùng bái sự nghiệp phổ biến trong giới giáo sĩ trẻ ngày nay, một căn chứng có thể làm lệch lạc và thậm chí phá hỏng sứ vụ của mình: nhiều công trình giá trị của tiền nhân bị phá bỏ để xây dựng cái mới, có khi kém hơn, cả về chất lượng lẫn giá trị văn hóa và mỹ thuật, chỉ vì muốn để lại dấu tích sự nghiệp của mình!

Tại một trong những học viện dành cho các sinh viên linh mục ở Rôma, chân dung của các cựu sinh viên đã trở thành Giám mục và Hồng y được treo nhan nhãn dọc các hành lang và cầu thang của tòa nhà. Gần đây, các vị hữu trách thức thời đã quyết định tháo gỡ các khung ảnh ấy, bởi vì theo báo cáo cho biết, nhiều linh mục sinh viên mới vào trường đã có cảm nghĩ mãnh liệt rằng mình cũng phải phấn đấu để đạt đến những “tầm cao ấy”! Các đấng phát biểu: “Các sinh viên phải hiểu rõ rằng tiêu điểm phấn đấu cho cuộc sống không phải là để đạt quyền cao chức trọng và thu vén danh dự, nhưng là tận hiến chính mình cho Thiên Chúa và cho sứ vụ mục vụ. Các sinh viên phải được đào tạo cách riêng về tinh thần vâng phục của linh mục, về tinh thần khó nghèo và từ bỏ, để họ có thể đảm nhận một cuộc sống theo khuôn mẫu của Chúa Kitô Khổ Nạn, để họ có thể sẵn sàng từ bỏ cả những gì mình đáng được hưởng nhưng tự xét thấy là không phù hợp”.

Thật vậy, trong tâm tư của nhiều ứng viên linh mục và gia đình, nhất là tại các nước kém và đang phát triển như Phi châu và Việt Nam, chức linh mục được đánh giá như một thăng tiến xã hội và một nấc thang để bước lên, trong khi đúng hơn phải quan niệm chức linh mục là một nấc thang để bước xuống, noi gương Thầy Chí Thánh Giêsu, từ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa bước xuống làm người, và còn tự hạ làm tôi tớ phục vụ mọi người để mang ơn cứu độ cho mọi người.

5. Giống Chúa Kitô về Việc Sống Quyền Bính và Vâng Lời Đích Thực

Ngày xưa quyền bính của Chúa Giêsu đã bị đặt thành vấn đề: “Do quyền bính nào mà ông làm những việc ấy? Ai cho ông quyền đó?”[51], thì ngày nay quyền bính của các Tông đồ và những người kế vị vẫn tiếp tục bị thách đố. Do đó, Giáo Hội nhìn nhận nhu cầu phải kiểm điểm và canh tân chính mình, như những nỗ lực mà ĐTC Phanxicô đang tiến hành. Nhưng việc kiểm điểm đó sẽ không thành công, nếu chỉ đựa vào các chuẩn mực loài người. Mọi quyền bính trong Giáo Hội đều bắt nguồn từ Chúa Giêsu, nên phải quay trở lại với Chúa Giêsu, Đấng cai trị từ Thập giá. Ánh sáng của thập giá Chúa Kitô phải soi sáng mầu nhiệm quyền bính của Giáo Hội. ĐTC Phanxicô đã minh định điều đó vào đầu sứ vụ Giáo Hoàng của ngài: “Cuộc sống chúng ta là bước đi, nếu chúng ta ngừng đi thì có cái gì đó sai rồi, nên phải luôn bước đi với Chúa và dưới ánh sáng của Chúa. Tiếp đến là xây dựng Giáo hội với những viên đá sống động được Chúa Thánh Thần xức dầu. Không phải xây trên nền tảng bất kỳ nào, nhưng trên viên đá gốc là chính Chúa Kitô. Chúng ta có thể bước đi và xây dựng nhiều công trình tùy ý chúng ta, nhưng nếu chúng ta không tuyên xưng Đức Giêsu Kitô thì có điều gì đó không phải rồi… Tôi mong ước chúng ta tất cả có được can đảm bước đi cùng Chúa Kitô với thập giá, xây dựng Giáo hội trên máu Chúa Kitô đổ ra trên Thánh Giá, và tuyên xưng một vinh quang duy nhất là Đức Kitô bị đóng đinh trên Thánh Giá[52].

Quyền bính được trao ban cho Giáo Hội là để rao giảng, thanh tẩy, tha tội và qui tụ những ai được tái sinh bởi nước và Thánh Thần quanh bàn tiệc Hy Tế của Chúa[53]. Quyền bính của Giáo Hội phải lớn lên, mạnh mẽ và hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô mà chính Chúa Kitô bảo đảm sự bền vững. Tại Giáo hội địa phương, tất cả quyền bính đều qui về Giám Mục và phát ra từ Giám Mục, đến đỗi “linh mục không thể làm gì mà không có Giám Mục” cũng như “Giám mục không làm gì ngoài Ý Thiên Chúa”[54].

ĐTC Phanxicô nói: “Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ, và để thi hành quyền bính này, cả Giáo Hoàng cũng ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá[55]. Lời hứa vâng lời khi chịu chức là sự cam kết công khai long trọng kéo dài suốt đời với Chúa và với Hội Thánh. Đó là tiếng “Xin Vâng” trong mọi sự với Chúa và Giáo Hội, mà chúng ta chẳng biết trước được cái gì sẽ được yêu cầu. Chúng ta không tự quyết định lấy sứ vụ của mình, song chúng ta được sai đi: có khi kinh ngạc, có khi hân hoan, có khi lo buồn…, nhưng với tinh thần đức tin siêu nhiên, chúng ta vâng lời, dù có thể được sai tới nơi mình không muốn, ở với người mình không ưa, và làm việc mình không thích. Vì thế Bộ Giáo Sĩ dạy: “Chính đức ái mục tử thúc đẩy các linh mục biết hy sinh ý riêng để vâng lời phục vụ Chúa và anh em, lấy tinh thần đức tin mà đón nhận và thi hành các mệnh lệnh cũng như lời khuyên dạy của ĐGH và ĐGM của mình, cùng các đấng Bề trên khác, hoàn toàn sẵn lòng tự hiến hết mức trong mọi chức vụ được giao phó, dù là chức vụ hết sức thấp kém nghèo hèn[56].

Sự vâng lời không thể tránh khỏi thập giá: chết cho ý riêng không dễ lắm đâu, vì không phải chỉ trong chốc lát, song trong từng phút giây của cuộc sống mỗi ngày suốt đời. Chính Chúa Kitô cũng phải trải qua bao đau khổ mới học được thế nào là vâng lời[57]. Chúng ta dõi bước theo con đường Chúa Kitô đã đi qua, gắn bó thảo hiếu và vâng giữ kỷ luật Giáo Hội, thích nghi với những yêu sách của từng hoàn cảnh cụ thể. ĐTC Biển Đức XVI dạy: “Không ai có khả năng chăn dắt đoàn chiên của Chúa, nếu không sống sâu xa và đích thực sự vâng lời Chúa Kitô và Giáo Hội: Sự ngoan ngoãn của Dân Chúa đối với linh mục tùy thuộc sự ngoan ngoãn của linh mục đối với Chúa Kitô và Giáo Hội. Do đó, phải luôn có sự gặp gỡ cá nhân và liên lỉ với Chúa, hiểu biết Chúa sâu đậm và nên một với ý muốn của Chúa”. Chúa Giêsu coi việc thi hành ý muốn của Chúa Cha là lương thực của đời sống Ngài, và luôn quy phục ý muốn của Ngài cho ý muốn của Chúa Cha.

Sự vâng lời còn đi xa hơn và ở tại sentire cum Ecclesia. Cảm thông với Giáo Hội là có mối thiện cảm sâu xa và trung thành với giáo huấn, phượng tự và sứ vụ của Giáo Hội, là để truyền thống và quan niệm hiện hành của Giáo Hội thấm sâu và chi phối cuộc sống của chúng ta. Vâng lời đòi hỏi sự sẵn lòng để ra một bên mọi sự vì tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội. Càng yêu mến thì sự vâng lời càng trở nên dễ dàng và tích cực. Quả thế, trong sự cảm thông với Giáo Hội đó, chúng ta được mời gọi nói lên sự thật như chúng ta nhận thấy, những ý kiến và thỉnh nguyện tốt nhất đã được cầu nguyện, suy nghĩ chín chắn và luôn sẵn sàng vâng lời, dù có trái ý chúng ta, biết rằng Bề Trên có ơn đoàn sủng, ơn phân định đặc biệt của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không có.

Đi cho tới cùng, vâng lời đòi hỏi chúng ta nhượng bộ mọi sự cho Chúa, coi vâng lời như diễn tả trọn vẹn sự lệ thuộc vào Chúa và vào Giáo Hội: trí khôn, con tim, ý muốn, và cả đời sống, như lời cầu nguyện của thánh Inhaxiô: “Lạy Chúa, con xin dâng tư tưởng của con cho Chúa, để chúng luôn hướng về Chúa; để lời nói của con có Chúa làm đề tài; để việc làm của con phản ánh tình yêu của con cho Chúa; để đau khổ của con được chịu đựng cho vinh danh Chúa hơn. Xin Chúa soi sáng trí khôn con, đốt nóng ý chí con, thanh tẩy trái tim con và thánh hóa linh hồn con. Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do của con, ký ức của con, trí hiểu của con, trọn vẹn ý muốn của con, tất cả những gì con có và sở hữu. Chúa đã ban cho con mọi sự và mọi sự đều là của Chúa, xin hãy sử dụng như ý Chúa muốn. Xin ban cho con tình yêu và ân sủng của Chúa, và như thế đã đủ cho con”.

6. Giống Chúa Kitô về Sứ mệnh làm Thầy Dạy

Là thầy dạy Lời Chúa nhân danh Chúa Kitô và Giáo Hội, chúng ta sẽ không dạy những cao trào hay lý thuyết tạm bợ và chóng qua nào đó. Sứ mạng và sứ điệp là của Chúa Kitô, chúng ta chỉ là sứ giả của Ngài. Giáo Hội đặt Lời cứu độ trên môi miệng chúng ta để rao giảng Tin Mừng, giải thích cho dân sứ điệp mà chính Giáo Hội là cơ quan gìn giữ. Giáo Hội trao cho chúng ta bài sai mà chính Giáo Hội đã nhận lãnh từ Chúa Kitô. Chúng ta sẽ không rao giảng về chính mình hay về những ý tưởng riêng của mình[58], nhưng là rao giảng một Tin Mừng mà cả chúng ta lẫn Giáo Hội đều không phải là chủ nhân tuyệt đối, và do đó không thể uốn ép Tin Mừng ấy tùy theo ý muốn của mình, mà phải chuyển giao Tin Mừng ấy một cách tuyệt đối trung thành[59] trong sự tuân phục Giáo Hội, như một linh mục kia tuyên bố: “Tôi thi hành chức thánh và sứ mệnh của Giáo hội, tôi theo Giáo hội, tôi không theo tôi. Chính Giáo hội nhận định và nói tôi phải phục vụ như thế nào”[60]. Thật vậy, việc rao giảng Lời Chúa là bổn phận trọng yếu của linh mục như Sắc lệnh đào tạo linh mục dạy: “Trong tư cách là những cộng tác viên của Giám mục, bổn phận đầu tiên của linh mục là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho mọi người để xây dựng và phát triển Dân Thiên Chúa”[61].

Nhưng muốn cho việc rao giảng này có tác dụng, thì nó phải được đặt điểm tựa trên đời sống cầu nguyện, và linh mục tiên vàn phải là con người cầu nguyện trước khi là con người rao giảng: Phải nói với Chúa và có Chúa đã, rồi mới có thể nói về Chúa và trao Chúa cho người khác được, vì không ai có thể cho cái mình không có. Không mang Chúa Giêsu, chúng ta chỉ là con lừa không hơn không kém: người ta cúi đầu kính cẩn trước pho tượng con lừa chỡ, chứ không phải trước con lừa. Linh mục không phải là chủ nhân, nhưng là tôi tớ của Lời, không đọc Lời cách máy móc nhưng là lắng nghe Lời. Thật vậy, “suy niệm, lắng nghe và đáp trả là hình thức cao nhất của cuộc tương phùng giữa Lời Chúa và cuộc sống mỗi người”. Vì thế, ĐTC Phanxicô nói trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng rằng: “Bất cứ ai muốn giảng, trước hết phải sẵn sàng để được đánh động bởi Lời Chúa và làm cho Lời ấy nhập thể trong cuộc sống cụ thể của mình[62]. Không thể phủ nhận sự kiện rằng “có một mối tương quan thiết yếu giữa đời sống cầu nguyện cá nhân và việc rao giảng… Việc rao giảng hữu hiệu là một hoa trái khác của việc cầu nguyện cá nhân”[63].

Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI đã diễn tả một cách sắc bén trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng như sau: “Con người thời nay thích lắng nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ lắng nghe những thầy dạy thì bởi vì những thầy dạy ấy là các chứng nhân”[64]. Bộ Giáo dục Công giáo cũng khẳng định: “Nhà giáo dục sống đời sống đức tin sống động sẽ dạy bằng chính con người mình nhiều hơn là bằng những gì mình nói”. Quả đúng như Ca dao Việt Nam chúng ta dạy: “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”.

Trong cuộc gặp gỡ các chủng sinh và tập sinh, khi nói về tính chân thật, ĐTC Phanxicô nhìn các nhà đào tạo và nói: “Trước tiên đây là một trách nhiệm của người lớn, của các nhà đào tạo. Chính những nhà đào tạo đang hiện diện nơi đây phải nêu gương về sự chân thực cho người trẻ. Chúng ta muốn những người trẻ chân thực thì chúng ta hãy trở nên chân thực! Bằng không, Chúa sẽ nói với chúng ta điều Người đã nói cho Dân Chúa về những người Pharisiêu: “Những gì họ nói anh em hãy làm hãy giữ, còn những việc họ làm thì đừng làm theo vì họ nói mà không làm[65]. Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng thêm: “Ngay cả trong thời đại này, người ta thích nghe các nhân chứng: họ “khao khát sự xác thực … và đòi phải nói về một Thiên Chúa mà chính mình biết và quen thuộc với, như thể thấy Đấng vô hình[66].

Chúa Giêsu truyền dạy các tông đồ và chúng ta ra đi rao giảng và làm cho người ta trở thành môn đệ của Chúa. Làm môn đệ là đi theo Thầy Chí Thánh Giêsu và học cách sống theo sự khôn ngoan của Lời Ngài. Khi gọi các môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu đòi hỏi họ phải dành nhiều thời gian ở cùng Ngài[67] và học nơi Ngài. Và vào cuối sứ vụ trần thế của Ngài, khi gặp lại các môn đệ ấy, Chúa Giêsu bảo họ dành thời gian còn lại để đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng và làm cho có những người trở nên môn đệ của Ngài trong suốt cuộc đời của họ[68].

Nhưng công việc dạy sống Lời Chúa này là công việc của muôn đời và của muôn người, một mình chúng ta sẽ không tài nào làm hết được, nên chúng ta phải huy động toàn bộ các thành phần Dân Chúa mà chúng ta có trách nhiệm chăn dắt nhập cuộc tham gia, nhất là các tu sĩ, chủng sinh và các cán bộ tông đồ giáo dân nòng cốt trong giáo xứ như Ban hành giáo, giáo lý viên, gia trưởng, hiền mẫu, gia đình trẻ, Legio, Cursillo, Hướng Đạo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hùng Tâm Dũng Chí… Cần phải đoàn ngũ hóa giáo dân, chớ để ai không tham gia một hội đoàn nào, rồi thông qua các hội đoàn ấy mà dạy giáo lý, học hỏi chia sẻ Lời Chúa, phân chia các công tác mục vụ, phụng vụ, bác ái từ thiện, thăm viếng người già cả neo đơn, người bệnh tật, tai nạn rủi ro, tang chế. Đặc biệt chúng ta sẽ chăm lo đào tạo các huynh trưởng, trang bị cho họ kiến thức và kỹ năng giáo lý, cũng như chuyên môn của từng hội đoàn để họ làm việc hiệu quả. Áp dụng nguyên lý bổ trợ để tạo uy tín cho những người đứng đầu để họ làm việc.

Để công cuộc này luôn được tiếp nối hữu hiệu, chúng ta cần theo tiến trình đào tạo và chuẩn bị nhân sự tiếp nối mình qua bốn bước này:

– Dạy cho người ta biết làm;

– Khi người ta biết làm rồi thì giúp họ làm;

– Khi người ta làm được rồi thì hãy để cho họ làm;

– Và khi người ta đã tự mình làm tốt được rồi thì mình rút lui đàng sau, chỉ giữ vai trò cố vấn khích lệ, đôn đốc, vì đã hoàn thành việc chuẩn bị người thay thế. Mối quan hệ thăm viếng, bàn hỏi của ĐTC Phanxicô với ĐGH Danh Dự Biển Đức XVI là một gương sáng cho mối tương quan giữa người tiền nhiệm và người kế nhiệm, giữa người cũ và người mới là điều luôn luôn tiếp diễn trong Giáo Hội[69].

 Con xin mượn lời của ĐTC Phanxicô để kết thúc bài suy niệm này: “Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta chia sẻ sự sống của Ngài, sự sống thần thiêng, và khốn thay nếu chúng ta không chia sẻ sự sống này, không làm chứng những gì chúng ta đã thấy và đã nghe… chúng ta được mời gọi chia sẻ sự sống với Ngài, đi vào trái tim Ngài, một tâm hồn cầu nguyện sống động… Chúng ta cầu nguyện với Cha của mình, cầu nguyện liên lỉ: ‘Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ… Ma quỷ có thể thắng chúng ta với vũ khí yêu thích của nó là sự chúng ta cam chịu. Một sự cam chịu làm tê liệt chúng ta, ngăn cản chúng ta bước đi, ngăn cản chúng ta hành trình, một sự cam chịu không chỉ khiến chúng ta kinh khiếp mà còn đẩy chúng ta vào trong ‘phòng thánh’ của mình, vào trong những an toàn sai lầm, một sự cam chịu không chỉ ngăn cản chúng ta tuyên xưng, mà còn ngăn cấm chúng ta tôn vinh Chúa. Một sự cam chịu không chỉ bịt mắt chúng ta nhìn về tương lai, nhưng còn ngăn cản khao khát của chúng ta muốn mạo hiểm và thay đổi… Mọi sự không bắt đầu nơi chúng ta, cũng không kết thúc nơi chúng ta, và do đó thật tốt đẹp khi nhìn lại những cảm nghiệm đã qua, những gì đã đưa chúng ta đến ngày nay[70]. Amen.

BÀI 2

BÍ TÍCH GIẢI TỘI, PHƯƠNG THẾ TỐI ƯU ĐỂ SỐNG NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

Năm Thánh Lòng Thương Xót là một chương trình sống rất đòi hỏi, nhưng đầy hoan lạc và an bình: Mọi người phải có khả năng lắng nghe Lời Chúa để có thể chiêm ngắm, đón nhận lòng thương xót của Chúa, biến lòng thương xót của Chúa thành lối sống của mình[71] và thực thi lòng thương xót cho người khác. Cửa Lòng Thương Xót của Chúa được rộng mở cách quảng đại, nhưng chúng ta phải có can đảm để bước qua. Mỗi người chúng ta đều mang trong lòng những trĩu nặng vì tội lỗi! Hãy lợi dụng thời điểm này để bước qua ngưỡng cửa lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng không bao giờ mệt mỏi tha thứ, không bao giờ mệt mỏi chờ đợi chúng ta. Chúng ta hãy can đảm tiến lên[72], vì Chúa luôn mở rộng Cánh Cửa Trái Tim của Ngài đón nhận lòng sám hối của chúng ta và ban cho chúng ta ơn tha thứ. Điều này giải thích vai trò hoạt động trung tâm của Bí tích Giải Tội, bí tích của lòng thương xót, và sự đóng góp tích cực của các linh mục trong suốt Năm Thánh Lòng Thương Xót, với tòa giải tội là một cột trụ của Ơn Toàn Xá nhằm giải gỡ tội nhân vừa lãnh ơn giao hòa khỏi tất cả những hậu quả của tội lỗi, hầu có thể hành động với đức ái và lớn lên trong tình yêu hơn là lại rơi vào tội lỗi[73].

  1. Linh Mục Tỉnh Thức Về Sứ Vụ Của Mình

Lúc khai mạc Công Đồng Vatican II, thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói rằng Giáo Hội trước hết phải dùng tới phương thuốc lòng thương xót: công bố lòng thương xót của Thiên Chúa, cung cấp cho mọi người lòng thương xót của Thiên Chúa cách cụ thể qua bí tích giải tội, và để lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện cách rõ rệt trong toàn bộ đời sống, các cơ cấu và cả trong luật lệ của mình nữa[74]. ĐTC Phanxicô mong đợi Năm Thánh Lòng Thương Xót “là thời gian thuận lợi để thay đổi đời sống, để tâm hồn mình được chạm đến” nhờ tiếp cận rộng rãi tòa giải tội[75]. Bí tích Giải Tội phải là hoạt động trung tâm của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Nó giúp chúng ta cảm nghiệm sức mạnh của lòng thương xót của Thiên Chúa là người Cha đích thực, Đấng yêu thương mỗi một con cái của Ngài, nhất là anh em linh mục chúng ta, để chính chúng ta trở thành dấu chỉ hữu hiệu cho hành động thương xót của Chúa Cha. ĐTC Phanxicô khẳng định: “Tôi không ngừng nhấn mạnh rằng các vị giải tội là dấu chỉ đích thực cho lòng thương xót của Chúa Cha... Điều đó sẽ xảy ra khi chúng ta để cho chính mình trở thành những hối nhân đang nài xin ơn tha thứ”[76], vì Thiên Chúa luôn mở rộng vòng tay yêu thương có sức mạnh làm câm lặng mọi tội lỗi của chúng ta, cho dù tội có nhiều đến thế nào đi nữa.

Chúng ta đừng bao giờ mỏi mệt trong việc cảm thấy cần ơn tha thứ của Chúa, vì khi chúng ta yếu đuối, sự gần gũi với Chúa làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn, và giúp chúng ta sống đức tin của chúng ta với niềm vui lớn lao hơn!Quả thế, “Bí tích Giải Tội là phương cách thực tế và cụ thể nhất để canh tân cuộc gặp gỡ cá vị của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô. Việc cử hành bí tích này thường diễn ra sau một hành trình nội tâm lâu dài đầy cố gắng qua trung gian Giáo Hội, nhưng có những cuộc hoán cải sâu xa diễn ra ngay trong khi cử hành bí tích này. Lúc ấy, một ân sủng siêu nhiên hoạt động qua vị giải tội tác động trên lương tâm của hối nhân để có thể đạt đến đỉnh cao siêu nhiên khó có thể hình dung được trong những giây phút ngắn ngủi[77].

Chúng ta hãy nhìn sâu hơn vào chính tâm hồn mình, xem xét đời sống đức tin cá nhân, giáo huấn và sứ vụ của chúng ta. Mỗi ngày chúng ta tự hỏi xem Chúa Kitô chết và sống lại có là trọng tâm của tất cả những gì chúng ta nói và những gì chúng ta làm không? Lắm khi vô tình, chúng ta có thể che khuất phần nào Chúa Kitô và việc cứu độ đầy lòng thương xót của Ngài. Chẳng hạn các bài giảng của chúng ta, mà ĐTC Phanxicô hằng khuyên nên giảng ngắn hơn và thực tế hơn[78], có thể hùng hồn, đầy những tư tưởng đẹp đẽ và những khuyên răn phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội, nhưng lại thiếu chứng tá của con tim được biến đổi mỗi ngày của chúng ta nhờ giao tiếp với Chúa Kitô. Có thể chúng ta đã giảng hết bài này đến bài khác, nhưng chẳng bao giờ thúc đẩy được lương tâm giáo dân hoán cải, vì chưa có cái chết thực sự cho tội nơi chúng ta. Khi bỏ lơ trong thinh lặng các đòi hỏi luân lý là chúng ta đồng lõa với nền văn hóa sự chết của thế gian. Lời trách móc nặng nề nhất có thể nêu lên chống lại chúng ta là chúng ta không thực hành điều mình công bố cho người khác.

Hoán cải đời sống là một phần căn bản của việc nhận biết Chúa Kitô. Là linh mục, chúng ta cần hoán cải trước ai hết, để nhờ sự biến đổi đời sống, Lời Chúa có thể thấm nhập trí óc và con tim chúng ta. Dấu hiệu và kết quả của sự hoán cải này là cách sống của chúng ta đã thực sự chịu những đòi hỏi của Tin Mừng chi phối và chúng ta trở nên những người viết tiếp Tin Mừng của lòng thương xót, như ĐTC Phanxicô nói: “Thiên Chúa muốn chữa lành cho nhân loại, nhưng chính chúng ta phải viết nên Tin mừng của lòng thương xót… Tin Mừng của lòng thương xót phải được công bố và được viết ra trong cuộc sống thường nhật của chúng ta… Tin mừng lòng thương xót là một quyển sách mở, được viết tiếp bằng những dấu chỉ của các môn đệ Chúa Kitô[79].

Nhiều khi chúng ta ngần ngại chỉnh sửa và khiển trách giáo dân, vì chúng ta ý thức về tội lỗi của chính mình, như Ca Dao nhắc “Nói người hãy nghĩ đến ta, thử sờ lên gáy xem xa hay gần”. Chúng ta chưa phục vụ các tội nhân đúng mức khi chúng ta thất bại trong việc khuyên ngăn họ đừng phạm tội vì những yếu đuối và nhát đảm của mình. Nỗ lực nhằm hoán cải người có tội chỉ thực sự sinh hoa kết quả khi chúng ta cải thiện đời sống của chính mình, nhất là đối với những con chiên lạc do trách nhiệm và tội lỗi hay gương xấu của chúng ta mà họ lìa xa Giáo Hội, có khi bỏ cả Chúa. Chúng ta phải đền tội và ra sức đi tìm kiếm những con chiên lạc này về lại cho Chúa và Giáo Hội.

Muốn hoán cải người khác mà chính mình không hoán cải, không phải là con người cầu nguyện, không thấm nhuần các mầu nhiệm của Chúa, thì nhất thiết chúng ta sẽ bị thất bại, và chỉ là “thanh la inh ỏi, não bạt rền vang mà thôi[80]. Nếu không có tâm hồn cầu nguyện, chúng ta chẳng bao giờ hy vọng thuyết phục được người nghe. Phải trải nghiệm được tình yêu của Chúa thì chúng ta mới giúp được người khác trải nghiệm tình yêu sâu xa của Ngài. Thánh Grêgôriô Cả Giáo Hoàng trăn trở: “Bao giờ chúng tôi mới sửa đuợc lỗi của người ta, nếu chúng tôi sao lãng đời sống của mình?[81]Quỳ gối xuống một cách khiêm tốn chuẩn bị cho chúng ta lãnh nhận và chia sẻ lòng thương xót. Nó nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta đã ngã qụy, và trong việc quỵ ngã được tha thứ cho chúng ta ấy, chúng ta phải cho nhau thấy lòng thương xót[82]. Chúng ta cũng cần biết đặt mình vào địa vị của người khác mà xét mình như ĐTC Phanxicô nói: “Mỗi khi tôi đến ngưỡng cửa nhà tù để dâng thánh lễ hay để thăm viếng, tôi luôn tự hỏi vì sao là họ mà không phải là tôi? Tôi phải ở đây, tôi đáng bị ở đây. Sự sa ngã của họ có thể là của tôi, tôi không nghĩ tôi tốt hơn những người đang đứng trước mặt tôi[83].

2. Tầm quan trọng và cấp bách của Bí tích Giải Tội

Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu không ngừng tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất, đến độ Ngài tự nguyện đến dùng bữa tại nhà Lêvi và Zakêu, dù bị tiếng là giao du với những người tội lỗi và thu thuế.[84] Ngay cả trong cơn đau quằn quại trên Thập Giá, Ngài cũng đã giao hòa người trộm lành và bảo đảm thiên đàng cho anh ta[85]: “trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đã giao hòa thế gian với chính Ngài…[86] Chúa Giêsu đã chịu chết để thu họp tất cả các con cái tản mác của Thiên Chúa[87]. Ngài đến hàn gắn tất cả những gì đổ vỡ, hiệp nhất những gì phân rẽ. Ngài là nhịp cầu nối kết không chỉ những ai đang chia rẽ nhau, mà nhất là hiệp nhất lại những gì đã phân rẽ bên trong mỗi con người.

Cái gì gây phân rẽ giữa người với người? Và phân rẽ ngay bên trong mỗi con người? Chính là tội lỗi và sự dữ. Tội lỗi chia cắt và làm con người phân rẽ. Tội lỗi không chỉ làm cho người ta đoạn tuyệt mình khỏi Thiên Chúa, mà còn đoạn tuyệt mình khỏi người khác và tha hóa chính mình nữa. Sự xung đột giữa người với người chỉ chấm dứt khi sự xung đột bên trong bản thân mỗi người chấm dứt. Kinh nghiệm bản thân cho chúng ta biết cõi lòng mình là một bãi chiến trường của những xung đột này: chúng ta muốn tránh sự dữ, nhưng lại sa vào làm mồi cho sự dữ; chúng ta muốn làm điều tốt, nhưng lại bị kéo lôi bởi điều xấu, và chúng ta có thể thốt lên như Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi! Ai sẽ kéo tôi ra khỏi tấm thân hay chết này?[88]

Là linh mục, chúng ta vẫn thường nói về những cơ chế của tội lỗi, những cơ chế của bất công, của kỳ thị và phân biệt đối xử trên thế giới. Nhưng những cơ chế ấy phát xuất từ đâu? Chúng ta dễ quên những cơ sở hạ tầng của tội lỗi bên trong chính mình. Thánh Gioan nhắc: “Nếu ai nói rằng mình không có tội, thì người đó tự lừa dối mình”[89]. Những cơ chế bên ngoài của tội lỗi sẽ chỉ biến mất nếu những cơ chế tội lỗi đồn trú bên trong bản thân mỗi người bị giải thể. Có lẽ tội lớn nhất của thời đại chúng ta chính là việc con người đánh mất cảm thức về tội lỗi. Đây là căn bệnh cần được giúp đỡ chữa trị khẩn cấp. Chúa Giêsu cung ứng cho chúng ta sự chữa trị đó khi Ngài thiết lập Bí tích Giải Tội để giải hòa chúng ta với chính mình, với nhau, và với Thiên Chúa. Là thừa tác viên và là sứ giả của sự hòa giải này để nối lại các nhịp cầu và kiến tạo bình an, chúng ta cũng cần biết nhìn nhận rằng trong sâu thẳm con người mình vẫn mang những mầm mống của tội lỗi và ích kỷ, cũng cần được hòa giải, ngay cả khi chúng ta đem lại sự hòa giải cho người khác[90].

Mẹ Giáo Hội cung cấp cho chúng ta phương thế để đón nhận lòng thương xót, sự hòa giải và niềm bình an ấy. Chúng ta phải nhìn nhận tội lỗi và sự dữ ở bên trong bản thân và đặt mình qui phục lòng thương xót và sự thiện hảo của Thiên Chúa. Không gì sai lầm cho bằng công bố lòng thương xót mà đồng thời không công bố lòng thống hối tội lỗi. Chỉ khi nào biết nhìn nhận tội lỗi của mình thì những lời nài nỉ “xin Chúa thương xót” mới chân thực và có ý nghĩa. Chính lòng thống hối đã mở cửa dẫn vào lòng thương xót, tha thứ và khoan nhân. Đó là lý do tại sao Giáo Hội hết sức nhấn mạnh tầm quan trọng của Bí Tích Giải Tội, nhất là trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, với Ơn Toàn Xá xóa bỏ những hình phạt mà chúng ta còn phải chịu sau khi tội đã được tha tội. Ơn Toàn Xá này còn bao hàm cả sự đòi hỏi phải thay đổi đời sống thực sự để tiến bước theo hướng đúng trong tương lai. Nhờ bí tích Giải Tội, chúng ta nhận lãnh không chỉ sự thứ tha tội lỗi, mà còn nhận lãnh sức mạnh của ơn Chúa để có thể phá tan những cơ chế tội lỗi bên trong bản thân mình và nơi tha nhân. Muốn được thế, chúng ta phải để ơn thánh Chúa tương tác với tự do của chúng ta hầu thực hiện sự thay đổi, sự quyết tâm đổi mới lối suy nghĩ, lối hành động, và đặt mình vào mối liên hệ cứu rỗi với Chúa Giêsu.

Năm Thánh Lòng Thương Xót giúp chúng ta tiến xa hơn trên con đường cứu rỗi này. Thánh Phaolô viết: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”[91]. Thánh Syrilô dạy: “Nếu có ai là nô lệ cho tội lỗi, thì nhờ đức tin, người ấy hãy chuẩn bị để được ơn tái sinh làm người tự do và làm nghĩa tử… Qua việc thú tội, anh em hãy cởi bỏ con người cũ đã ra hư hỏng vì những ước muốn lầm lạc, để mặc lấy con người mới đã được canh tân theo hình ảnh của Đấng đã dựng nên nó… Hãy có tâm hồn chân thành và không gian dối, vì Thiên Chúa thấu suốt lòng dạ con người. Thời bây giờ là thời xưng thú tội lỗi. Hãy xưng thú các tội mình đã phạm, trong lời nói hay việc làm, ban đêm hay ban ngày. Hãy xưng thú tội lỗi vào thời thuận tiện và hãy đón nhận kho báu trên trời trong ngày cứu độ. Hãy rửa sạch chiếc bình là lòng bạn để nó chứa được ân sủng dồi dào hơn… Nếu bạn có bất bình với ai, hãy tha thứ đi. Bạn đến để đón nhận ơn tha tội thì bạn cần phải tha thứ cho kẻ xúc phạm đến bạn[92].

Sáng kiến “24 Giờ Cho Chúamời gọi chúng ta suy tư về chính mình, tìm lại sự thật về đời sống chúng ta, và không tìm lý lẽ biện minh cho những gì không tốt xảy ra, trái lại chân thành đặt mình trước Thiên Chúa, và sống kinh nghiệm được tha thứ, được yêu mến, mặc dù chúng ta là người tội lỗi”[93]. ĐTC Phanxicô đã chủ sự Nghi thức Thống hối ấy, rồi quì gối xưng tội với một linh mục trước khi giải tội cho một số hối nhân. Ngài nói: “Một giám mục hay một linh mục không thường xuyên xưng tội sẽ trở nên tầm thường và chẳng giúp ích gì cho Giáo hội[94]. “Đúng là khi đi xưng tội, mình cảm thấy xấu hổ một chút. Nhưng ở đó mình không bị phê phán nghiêm khắc và Chúa Cha giàu lòng thương xót, đừng quên rằng không có một tội nào mà Chúa không tha!”[95]. Ngài giải thích: “xấu hổ khi có ý thức về tội là một ơn, vì nó cho mình gặp được lòng thương xót của Chúa Giêsu và làm cho mình khiêm tốn[96]. Ngài nói: “Tôi là một người tội lỗi… Tôi chắc chắn như thế. Tôi là một người tội lỗi được Chúa thương xót đoái nhìn…  Tôi vẫn còn mắc lầm lỗi và phạm tội, và tôi xưng tội mỗi 15 hay 20 ngày. Và sở dĩ tôi xưng tội là vì tôi cần cảm nhận được rằng lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn còn ở trên tôi”. Ngài cảm nhận được cảm giác này một cách đặc biệt vào ngày 21/9/1953, khi ngài thấy cần phải bước vào một nhà thờ và xưng tội với một vị linh mục, và từ đó cuộc đời ngài đã thay đổi[97].

3. Thừa tác viên và việc cử hành Bí tích Giải Tội

ĐTC Phanxicô dạy: “Giải tội là Bí tích giúp chúng ta cảm nghiệm sức mạnh lòng thương xót của Thiên Chúa, vốn giải thoát con người khỏi tội lỗi và ban cho con người thưởng nếm vẻ đẹp của việc trở về với Thiên Chúa là người cha đích thực yêu thương mỗi một con cái Ngài. Vì thế, thừa tác viên phải xác tín cách cá nhân rằng chỉ khi cư xử như con cái của Thiên Chúa, không nản lòng vì những sa ngã và tội lỗi của mình, chỉ khi cảm thấy mình được Ngài yêu thương thì cuộc sống của mình mới sẽ được đổi mới, được khích lệ bởi sự thanh thản và niềm vui”[98]. Là linh mục, chúng ta vừa phải thực thi vai trò thừa tác viên vừa phải là người ân cần và đều đặn lãnh nhận bí tích Giải tội, để chính mình trở nên chứng nhân của lòng thương xót Thiên Chúa dành cho tội nhân, thành thật nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và mở lòng ra đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng luôn sẵn sàng tha thứ và cứu độ.

Linh mục phải là một hối nhân mẫu mực thì mới có thể làm một cha giải tội mẫu mực được. ĐTC Phanxicô nói: Các linh mục cũng là con người như chúng ta, các ngài cũng cần sự thương xót… Các linh mục cũng phải xưng tội, các giám mục cũng vậy: Tất cả chúng ta là tội nhân. Đức Thánh Cha cũng xưng tội, bởi vì Đức Thánh Cha cũng là một tội nhân![99]

Là thừa tác viên, chúng ta phải có cùng những tâm tình như Đấng đã yêu thương các tội nhân cho đến chết trên thập giá và trở nên bàn tay dịu dàng của người Samaritanô Nhân Hậu đổ dầu xoa dịu trên những vết thương, không chỉ của thể xác mà còn của tâm hồn (x. Lc 10, 34). “Linh mục chính là khí cụ để tha thứ tội lỗi. Sự tha thứ của Thiên Chúa được trao ban cho chúng ta nơi Giáo Hội, và được thông chuyển cho chúng ta thông qua thừa tác vụ của một người anh em chúng ta”[100]. Thư Giacôbê thúc giục: “Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực… Nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình[101].

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết cách sắc bén: “Đời sống tu đức và mục vụ của linh mục muốn thực sự có chất lượng và sinh động, cần phải là một đời sống lãnh nhận Bí tích Giải Tội thường xuyên và đầy ý thức. Việc cử hành Bí tích Thánh Thể của linh mục, vai trò của ngài trong các bí tích khác, sự nhiệt tâm mục vụ, mối quan hệ đối với các tín hữu, mối hiệp thông đối với các anh em linh mục khác, sự cộng tác với Giám mục, đời sống cầu nguyện và tất cả cuộc sống linh mục của ngài sẽ lụn bại thảm khốc, nếu do cẩu thả hay do một lý do nào khác mà ngài không lãnh nhận Bí tích Giải Tội một cách đều đặn với lòng tin và lòng sốt mến chân thành. Nếu một linh mục không còn bước đến tòa giải tội nữa hay không còn xưng thú tội lỗi của mình một cách nghiêm túc nữa, thì con người linh mục và sứ vụ linh mục của ngài chẳng mấy chốc sẽ gánh lấy hậu quả thê thảm, và hậu quả này sẽ tác động rõ ràng trên chính cộng đoàn mà ngài phụ trách”[102].

ĐTC Phanxicô chất vấn: “Có ai ở đây trong căn phòng này không phải là một tội nhân? Ai không có tội? Từ chỗ này đến tận đằng cuối kia… Hãy luôn thẳng thắn với cha giải tội. Hãy nói với ngài mọi sự, đừng sợ hãi… Hãy nói sự thật, đừng che giấu lấp lửng gì cả, bởi các con đang nói với chính Đức Giêsu trong con người cha giải tội. Đức Giêsu biết sự thật, nhưng Ngài muốn các con nói với Ngài điều Ngài đã biết. Hãy minh bạch!… Chính Đức Giêsu đang lắng nghe các con. Hãy luôn luôn có sự minh bạch này trước mặt Đức Giêsu nơi cha Giải tội! Chúa ôm hôn và nói với các con: Hãy đi và đừng phạm tội nữa![103]

Chính Ngài nói: “Điều tóm tắt hay hơn cả, điều phát xuất từ bên trong hơn cả, và là điều tôi cảm thấy đúng hơn cả là: tôi là kẻ tội lỗi mà Chúa đã đoái nhìn”… “Tôi luôn cảm nhận khẩu hiệu của tôi Miserando atque Eligendo [được xót thương và tuyển chọn] thật chân thực đối với tôi[104]. ĐGH. Phanxicô còn như thế, huống gì chúng ta. Bản chất của con người là lầm lỗi, bản chất của Thiên Chúa là tha thứ, không có tội gì quá nặng đến đỗi Thiên Chúa không thể tha thứ được, nếu ta thực sự ăn năn trở về đón nhận ơn tha thứ của Chúa: tội thì tha lỗi thì sửa, mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai, lỗi một thời không ai lỗi suốt đời… Tông Sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót nói: “Lòng thương xót luôn lớn hơn tội lỗi và không ai có thể đặt giới hạn cho tình yêu tha thứ của Thiên Chúa”[105]. Và Tông Huấn Niềm Vui của Tình Yêu khẳng định: “không một ai có thể bị lên án mãi mãi, bởi vì nó không nằm trong tính hợp lý của Phúc âm”. Hãy tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, nhờ ơn Chúa, với cố gắng bản thân và sự giúp đỡ của kẻ khác[106], nhất là khích lệ mở ra với ơn Chúa, vì Chúa Giêsu không bao giờ nhìn đàng sau, Ngài luôn nhìn đàng trước: “Tội của con đã được tha, con đứng dậy và đi”.

ĐTC Phanxicô mô tả thánh Phêrô là một tội nhân, có nhiều khuyết điểm, nhưng tự hạ mình để được Chúa Kitô dẫn dắt tiến lên phía trước[107]. Ngài mời gọi chúng ta noi gương Thánh Phêrô, bằng cách nhận ra lỗi lầm và mở lòng ra cho Chúa, để Chúa dẫn dắt theo con đường ngay chính: “Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mẫu gương của Thánh Phêrô có thể giúp chúng ta hướng về phía trước. Xin cho điều đó làm cho chúng ta tìm kiếm Chúa và tìm gặp được Chúa, để Chúa tìm thấy chính chúng ta. Chúa luôn luôn ở đó, gần gũi chúng ta, tìm kiếm chúng ta. Nhưng đôi khi chúng ta nhìn theo hướng khác vì chúng ta không muốn nói chuyện với Chúa hoặc không muốn để cho Chúa tìm thấy chúng ta[108].

Việc cử hành Bí tích Giải Tội luôn là một cử hành phụng vụ, ngay cả với hình thức riêng tư của nó. Thực hành bí tích Giải Tội là một yếu tố quan trọng trong đời sống cầu nguyện của cả hai người, người xưng thú lẫn người nghe xưng thú. Là thừa tác viên thường xuyên của Bí tích Giải Tội, chúng ta không chỉ đều đặn thực hành bí tích này, mà còn cố gắng hiểu biết tốt hơn và cử hành nghiêm túc, vì bí tích này cũng là một tập luyện tuyệt vời về nhân đức, đền tội…, là trường tu đức không thể thay thế, là một sự trợ giúp thực sự trên con đường đổi mới và nên thánh.

Bí tích Giải Tội quả là phương thế hiệu quả của lòng thương xót để tái định hướng, thánh hoá và tăng trưởng đời sống thiêng liêng, đặc biệt khi trao đổi với một cha giải tội có kinh nghiệm linh hướng, nhờ đó mà đạt được sự chữa lành mọi uẩn khúc ngóc ngách của tâm hồn và được vui sống bằng an. ĐTC Biển Đức nói: “Bao nhiêu cuộc hoán cải và đời sống thánh thiện thực sự đã bắt đầu trong một tòa giải tội! Linh mục có thể chứng kiến những phép lạ đích thực về sự hoán cải, cảm nhận và chiêm ngắm lòng từ bi của Thiên Chúa. Sự kiện được lắng nghe và đón nhận là một dấu chỉ lòng từ nhân của Thiên Chúa đối với con cái của Ngài”.

4. Là một cha giải tội tốt theo ĐTC Phanxicô

Bí tích Giải Tội là một trong những quà tặng đặc biệt anh em linh mục chúng ta trao cho kẻ khác, nhưng đồng thời nó cũng là khí cụ cho chúng ta tăng trưởng đời sống thiêng liêng và bác ái mục tử. Theo ĐTC Phanxicô, lòng tín thác vào Chúa Thánh Thần, lòng quảng đại và lòng thương xót là ba trục nền tảng dẫn dắt linh mục trở nên cha giải tội tốt cho giáo dân.

Trước hết, vì sự tha thứ mà Bí Tích Giải Tội mang lại là sự sống mới được Chúa Phục Sinh thông ban qua Chúa Thánh Thần, nên linh mục phải trở thành ‘người của Chúa Thánh Thần’, chào đón hối nhân “không phải với thái độ của một quan tòa, cũng chẳng phải là thái độ của một người bạn, nhưng là với tình yêu của Thiên Chúa. Trái tim cha giải tội là trái tim có khả năng được đánh động, mủi lòng… Nếu truyền thống cho rằng cha giải tội có vai trò kép là thầy thuốc và là quan tòa, thì không bao giờ được quên rằng thầy thuốc thì chữa lành còn quan tòa thì giải án”. Thế mà nhiều linh mục giải tội thường quá cứng ngắc hoặc quá khoan hòa. Không có thái độ nào trong hai thái độ này mang tính chất của lòng thương xót, vì cả hai không thật sự phù hợp với hoàn cảnh thực tế của người xưng tội. “Giáo hội không ở đó để lên án nhưng để có cuộc gặp gỡ với lòng thương xót của Chúa, một tình yêu vô cùng sâu thẳm. Để thực hiện được điều này, cha luôn lặp lại là mình cần phải đi ra. Đi ra khỏi nhà thờ, đi ra khỏi giáo xứ, đi ra để đến với giáo dân nơi họ sống, nơi họ đau khổ, nơi họ hy vọng[109].

Thứ hai là “nếu Bí tích Giải Tội thông ban sự sống mới của Chúa Phục Sinh và đổi mới ơn rửa tội thì nhiệm vụ của cha giải tội là quảng đại trao ban điều này cho anh chị em mình. Linh mục nào không lưu tâm tới khía cạnh này thì cũng giống như người chăn chiên không lưu tâm tới con chiên lạc của mình… Thiên Chúa luôn yêu thương người tội lỗi, lôi kéo họ tới với Người và mời gọi họ trở lại. Cha giải tội không được quên rằng người tín hữu thường khó khăn lắm mới lãnh nhận được Bí Tích này, cả vì các lý do thực tiễn lẫn nỗi khó khăn tự nhiên là phải xưng thú tội lỗi mình cho một con người khác. Do đó, điều cần là cha giải tội phải cố gắng nhiều về phía nhân tính của mình, để đừng bao giờ là trở ngại, song làm dễ dàng phương thức xót thương và tha thứ. Tòa giải tội không phải là nơi kết án, mà đúng hơn là nơi trải nghiệm yêu thương và nhân từ!

Điều Giáo hội cần trước nhất bây giờ là săn sóc các vết thương và sưởi ấm tâm hồn tín hữu, gần gũi họ… Giáo hội phải là căn nhà của người cha, nơi có chỗ cho mỗi người với hoàn cảnh khó khăn của họ: tình trạng của họ càng nghiêm trọng, thì lòng thương xót của Chúa càng phải được tỏ hiện cách mạnh mẽ hơn. Một cha già nói lên nỗi hối tiếc của mình rằng “Nếu tôi được bắt đầu lại đời linh mục của mình, tôi sẽ nhẹ nhàng hơn với giáo dân. Tôi sẽ không hà tiện lòng thương xót của Thiên Chúa qua các bí tích, nhất là phép tha tội. Tôi sợ là tôi đã quá cứng rắn với đoàn chiên. Họ đã có quá đủ đau khổ rồi, không nên đặt thêm gánh nặng trên vai họ nữa. Đáng ra tôi nên liều lĩnh hơn nữa với lòng thương xót của Chúa!” George Eliot cũng từng viết: “Khi thần chết đến, điều chúng ta hối hận không bao giờ là những gì chúng ta đã dịu dàng ân cần, mà là những gì chúng ta đã gay gắt khắc nghiệt[110].

Cuối cùng là cha giải tội phải có lòng thương xót tạo mọi điều kiện dễ dàng cho hối nhân: “Có nhiều lý do, vừa có tính lịch sử vừa có tính linh đạo, nhưng phải biết rằng Chúa muốn hiến cho Giáo Hội ơn phúc mênh mông này là đem đến cho người đã chịu phép rửa niềm xác tín chắc chắn được ơn tha thứ của Chúa, nên điều rất quan trọng là phải hết sức lưu tâm tới việc cử hành Bí Tích tha thứ và cứu rỗi này tại mọi cộng đồng giáo phận và giáo xứ, làm sao cho tín hữu biết khi nào họ có thể tìm được các linh mục sẵn sàng, vì khi nào có tin tưởng, hoa trái sẽ tỏ tường[111]. ĐTC Phanxicô chia sẻ: “Tôi luôn cố gắng bỏ thì giờ để giải tội dù khi đã làm giám mục hay hồng y. Bây giờ tôi ít giải tội nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn còn giải tội. Đôi khi tôi muốn vào nhà thờ và ngồi ở tòa giải tội. Còn về phần tôi, khi tôi xưng tội, tôi luôn nghĩ về các tội của mình, về nhu cầu cần lòng thương xót, và vì thế tôi cần được tha thứ nhiều”[112]. Ngài cảnh giác các cha giải tội đừng vặn hỏi các hối nhân, nhưng hãy luôn tha thứ, đừng trách mắng họ. Người đến xưng tội là người tìm kiếm sự an ủi, ơn tha thứ và an bình cho tâm hồn họ: Ước gì họ tìm được một linh mục nồng nhiệt tiếp đón họ và nói: “Thiên Chúa rất thương con!” Theo ĐTC, vị giải tội nhiệt thành chính vì họ cảm thấy mình là người tội lỗi. Họ biết mình là người nhiều tội và trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ liên tục cầu nguyện “Lạy Chúa, xin lắng nghe và tha thứ” (x. 1 V 8,38)[113].

Trong cuộc thăm viếng mục vụ Mehicô ngày 13/2/2016, ĐTC nói với 130 Giám Mục: “Sức mạnh duy nhất có thể chinh phục quả tim con người là tình âu yếm dịu dàng của Chúa. Điều phấn khởi và lôi cuốn, điều làm dịu dàng và khắc phục, điều làm mở ra và nới lòng, không phải sức mạnh của khí cụ hay luật lệ nghiêm khắc, nhưng là sự yếu đuối trong quyền năng tình yêu Thiên Chúa, sức mạnh không cưỡng lại được của sự dịu dàng và lời hứa bất di bất dịch của lòng thương xót[114].

5. Tính đột phá của Bí tích Giải Tội trong Năm Thánh Lòng Thương Xót

  1. a) Linh mục được phép giải tội phá thai

Vì hoàn cảnh xã hội bắt buộc và suy đồi đạo đức, bao nhiêu con cái của Giáo Hội phải đau khổ vì tội phá thai. Tội này vốn do các Giám Mục có quyền xá giải, nhưng do đức ái mục tử trước những khó khăn của đoàn chiên, một số Giám mục ban năng quyền xá giải cho các linh mục dưới quyền. Trong Năm Thánh Ngoại Thường Lòng Thương Xót này, ĐTC ban phép cho tất cả các linh mục được quyền tha tội phá thai[115]: “Tôi quyết định ban phép cho tất cả các linh mục trong Năm Thánh được giải tội phá thai cho những người đã gây ra và nếu họ thành tâm thống hối xin tha thứ. Các linh mục hãy chuẩn bị thi hành công tác quan trọng này, hãy biết liên kết những lời đón tiếp chân thành với một suy tư giúp hiểu tội đã phạm và chỉ dẫn con đường hoán cải đích thực để đón nhận sự tha thứ chân thực và quảng đại của Chúa Cha, Đấng đổi mới mọi sự bằng sự hiện diện của Ngài.

Chớ gì trong những trường hợp không thể ban ơn xá giải, chúng ta thực hành như ĐTC Phanxicô dạy: “Linh mục luôn tìm các cách thế để ban sự xá giải. Nhưng đôi khi không thể xá giải, có những linh mục nói: ‘Không, thưa ông/bà, trường hợp này tôi không thể xá giải, ông/bà về đi.’ Đó không phải là cách. Nếu cha không thể xá giải cho người ta, hãy giải thích và nói: ‘Thiên Chúa yêu thương ông/bà nhiều lắm. Thiên Chúa muốn ông/bà được mọi điều tốt lành. Chúng ta có nhiều nẻo đường để đến với Chúa. Tôi không thể ban sự xá giải cho ông/bà, nhưng tôi chúc lành cho ông/bà. Ông/bà nhớ trở lại nhé, hãy luôn luôn trở lại đây, vì bất cứ khi nào ông/bà trở lại đây, tôi sẽ chúc lành cho ông/bà như dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương ông/bà.’ Như vậy, con người ấy sẽ bước ra về với đầy niềm vui, vì người ấy đã gặp thấy một hình ảnh của Chúa Cha, Đấng không bao giờ xua đuổi. Cách này hay cách khác, họ được Thiên Chúa ôm vào lòng[116]. Ngài nhấn mạnh: “Với các cha giải tội, tôi chỉ muốn nói: hãy kiên nhẫn lắng nghe, hãy nói với những người đến gặp mình rằng Chúa thương yêu họ”[117].

Ở một nhà thờ cỗ kia có tượng chuộc tội mà cánh tay phải của Chúa Giêsu bị rơi thỏng xuống, người ta viết câu chuyện rằng một ông nọ năng xưng tội, cha xứ luôn nhắc nhở phải dóc lòng chừa tội, nhưng lần nào ông ấy cũng xưng đi xưng lại cùng một tội ấy, khiến cha xứ mất kiên nhẫn bước ra khỏi tòa, không giải tội. Hối nhân vẫn quỳ chờ đợi nơi tòa giải tội lòng ăn năn đau đớn. Trong sự thinh lặng nặng nề ấy bỗng nghe tiếng lắc rắc, Chúa Giêsu trên thánh giá tự gỡ đinh ra giơ cao tay ban phép giải tội và nói với hối nhân “Ta tha tội cho con, chính Ta chết cho con chứ không phải là nó”, rồi quay sang nói với linh mục đang bực mình ngồi bên kia rằng “Chính Cha đã chết cho nó chứ không phải con”. Chúng ta thường mất kiên nhẫn và khắt khe hơn Chúa.

Trong cuộc tiếp kiến ngày 30/4/2016, ĐTC nhấn mạnh: “Không một ai phải bị xa cách Thiên Chúa vì những chướng ngại do con người. Xin các cha giải tội đừng đặt chướng ngại trên con đường của những người muốn trở lại với Chúa. Cha giải tội phải là người cha, người đại diện cho Chúa là Cha. Cha giải tội phải chào đón mọi người đến với mình để hòa giải với Thiên Chúa và giúp họ đi theo con đường hòa giải này. Đây là việc mục vụ thật đẹp, tòa giải tội không phải phòng tra tấn hay phòng thẩm vấn, không, mà là chính Chúa Cha chào đón, đón nhận và tha thứ cho con người này[118].

  1. b) Các Thừa Sai của Lòng Thương Xót: Có những thứ tội kèm theo vạ tiền kết dành riêng cho Tòa Thánh. Chính vì thế, vào đầu Mùa Chay Năm Thánh này, ĐTC đã gửi các Thừa Sai của Lòng Thương Xót, tức là những linh mục được ban quyền tha cả những tội dành quyền giải cho Tòa Thánh. Các thừa sai ấy là dấu chỉ sự quan tâm từ mẫu của Giáo Hội đối với dân Chúa. Chỉ ĐTC mới có quyền bổ nhiệm các thừa sai của Lòng Thương Xót và đích thân ban năng quyền tha thứ các tội dành riêng[119]. Các linh mục thừa sai này do các Giám Mục bản quyền ở khắp nơi trên thế giới đề nghị. Giám Mục có thể mời dựa theo danh sách đã được gửi đến các Giám Mục[120]. Cha Giêrônimô Nguyễn Đình Công Giáo phận Xuân lộc chúng ta là một trong các thừa sai Lòng Thương Xót đó. Cảm tạ Chúa và xin chúc mừng

    Tuy nhiên, các Thừa sai Lòng Thương Xót sẽ không thể can thiệp cho các giám mục bị vạ tuyệt thông bởi việc tấn phong (hoặc nhận tấn phong) mà không có sự ủy nhiệm của Đức Giáo Hoàng. Quả vậy, trong lá thư cá nhân TGM Rino Fisichella[121] gửi đến từng vị thừa sai đề ngày 10/2/2016 có đoạn viết: “ĐTC Phanxicô đã ban cho quý cha năng quyền để ân tha những tội thuộc thẩm quyền Tòa Thánh trong suốt thời gian Năm Thánh này. Nhưng theo ý chỉ của ĐTC, năng quyền trên phải được hiểu là có giới hạn và chỉ dành cho các tội sau đây: – xúc phạm đến Thánh Thể bằng cách đem đi hoặc cất giữ nhằm mục đích phạm thánh; – sử dụng bạo lực tấn công ĐGH; – giải tội cho người đồng phạm điều răn thứ sáu; – trực tiếp vi phạm ấn tòa giải tội. Tôi đoan chắc rằng các cha sẽ là những người hân hoan công bố về Lòng Thương Xót và hoán cải các tín hữu, thông qua việc cử hành Bí tích Hòa giải”[122].

 Chúng ta cũng nên nhớ có ba tội liên quan đến anh em linh mục chúng ta là lỗi ấn tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm giới răn thứ sáu. Ai có nhỡ mà sa ngã thì đừng có giải tội cho người ấy, để khỏi nguy cơ tội chồng chất thêm tội phạm thánh, sống bất an suốt đời, và khi chết biết đi về đâu?! Chính ĐTC Phanxicô nói: “Nếu linh mục không ở trong tình trạng tâm hồn bình an, thì tốt hơn là ngài đừng ban Bí Tích này cho đến khi sửa đổi[123].

  1. c) Cả những tín hữu xưng tội với các linh mục thuộc Huynh đoàn thánh Piô X trong Năm Thánh Lòng Thương Xót cũng lãnh nhận ơn xá giải các tội lỗi của họ một cách thành sự và hợp pháp để lãnh nhận ơn Toàn Xá, vì Năm Thánh Lòng Thương Xót này không loại trừ ai. Giám mục Fellay đã bày tỏ “lòng biết ơn đối với Đức Thánh Cha về cử chỉ hiền phụ này”, vì theo giáo luật, ngay cả khi vạ tuyệt thông dành cho Huynh đoàn thánh Piô X đã được ĐGH Bênêđictô XVI tha vào năm 2009 “mọi tác vụ do các linh mục của Huynh đoàn thánh Piô X thi hành trong Giáo hội đều không hợp pháp”[124]. ĐGM Fellay cho biết một bước tiến mới là trong cuộc gặp ngày 1/4/2016, ĐTC nói rằng ngài dự định ban năng quyền giải tội cho các linh mục thuộc Huynh Đoàn Thánh Piô X khi kết thúc Năm Thánh. Ngài mong muốn bình thường hóa tình trạng của Huynh Đoàn và coi Huynh đoàn như là “một phần của Giáo Hội”[125].

6. Niềm vui và bình an cho cha Giải tội

Những lời “Cha tha tội cho con” vượt xa hơn một công thức pháp lý để khai mở quyền năng của Chúa trên tội lỗi và cái chết. Khi được trao phó quyền năng này, chúng ta phải nói hết sự thật về thực tại tội lỗi cùng hối nhân nhưng với lòng thương xót: “Giáo hội lên án tội vì Giáo hội phải nói lên sự thật về tội. Nhưng cùng một lúc, Giáo hội ôm người có tội vào lòng dù họ như thế nào đi nữa, Giáo hội gần với họ, Giáo hội nói với họ về lòng thương xót vô biên của Chúa”.

Đi sâu vào như thế trong đời sống của kẻ khác là một đặc ân đáng sợ. Nhưng khi được ban cho ơn giúp hối nhân tìm biết và làm theo ý Chúa, giúp họ khám phá những phong phú của lòng nhân hậu Chúa trong cái chết và sống lại của Chúa Kitô, vai trò làm cha giải tội là một niềm vui bất tận của linh mục. Một linh mục đã kể lại kinh nghiệm niềm vui này, mà nhiều người trong chúng ta đã trải nghiệm, nhất là các anh em phải coi sóc rất đông giáo dân. Ngài kể câu chuyện thật của ngài: “Vào các dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh, số người xưng tội tăng rất đông. Lần này, tôi đã lên lịch giải tội, có dành ra ít giờ rãnh để chuẩn bị lễ. Thấy hết người, tôi dừng lại để đi ăn cơm và dự định không trở lại nhà thờ nữa cho đến khi dâng lễ đêm. Nhưng rồi có người lại đến và muốn xưng tội. Tôi buộc lòng phải ra lại nhà thờ, tỏ vẻ bực mình cách nào đó, vì dân chúng coi nhẹ điều tôi cho là nhu cầu nghỉ ngơi chính đáng. Tôi hy vọng ngày ấy các hối nhân không để ý đến sự khó chịu của tôi. Và giữa lúc tôi cảm thấy bực mình khó chịu ấy, một hối nhân không quen tiến vào tòa giải tội, tiếng nói như một ông già. Ông đã bỏ các bí tích rất nhiều năm. Tội của ông rất nhiều và nghiêm trọng. Rất thành thật và khiêm nhường sâu xa, ông đã nói với nước mắt về tình trạng tội lỗi của ông. Ông quên cả kinh Ăn năn tội và đã thay thế vào ‘Xin cha tha tội cho con, con là một tội nhân chết bầm chết diệt’. Đó là sự trở lại của đứa con hoang đàng, một con cá bự.

Hai ý tưởng đối nghịch nhau tấn công tôi chiều hôm ấy. Một là niềm vui được làm linh mục: nhân danh Chúa Giêsu, tôi có thể nói ‘Cha tha tội cho con’, để ban ơn tha thứ và bình an cho người trở về. Hai là cảm nhận lo sợ suýt nữa vì sự nghỉ ngơi của tôi mà một linh hồn có thể bị hư mất! Tôi dốc lòng sẽ không bao giờ viện bất cứ lý do gì để từ chối giải tội khi có người xin xưng tội hay mời đi kẻ liệt:Đêm đông hay giữa trưa hè, kêu đâu chạy đó chở che cho người, biết đâu lần đó cuối đời, để người chết hụt, ta thời ăn năn”[126]*. 

Vai trò giải tội quan trọng biết bao cho linh mục chúng ta, dù có khi rất vất vả nếu chúng ta không trải dài ra mà chỉ tập trung giải tội trong các dịp lễ lớn thôi. Khi chúng ta không còn tìm thấy niềm vui trong việc hòa giải người khác với Chúa thì niềm vui của chức linh mục sẽ biến tan. Một linh mục như thế sẽ bị tha hóa khỏi lý do hiện hữu của mình. Nhưng vị linh mục làm cho mình luôn quảng đại sẵn sàng ban bí tích hòa giải cho kẻ khác sẽ được tiến tới sâu xa hơn trong ý nghĩa và niềm vui của chức linh mục, đồng thời cảm nhận sâu xa lòng nhân hậu của Chúa trong cuộc đời mình.

7. Giá trị của việc xưng tội cá nhân

Nhắc tới thánh Gioan Maria Vianney, người đã thực thi sứ vụ hòa giải một cách anh hùng và hiệu quả phong phú cho bất cứ ai tìm đến, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh rằng các linh mục có thể học “không chỉ một niềm tín thác vô tận nơi bí tích sám hối, mà còn một phương pháp đối thoại cứu độ phải được thực hiện trong khi ngồi tòa[127]. Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành bí tích đáp ứng sít sao hơn với mọi tình huống cụ thể của hối nhân, như: Nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa nhờ nhận lại được những ơn đã mất do tội; nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng; đôi khi cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi; và trong nhiều trường hợp, không những cần mà còn khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đức tin.

Nhờ những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử hành này liên kết với việc linh hướng. Nhưng trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân. Phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi để làm sáng tỏ hầu có giải pháp và lời khuyên thích ứng giúp hối nhân thay đổi trở nên tốt hơn. ĐTC Phanxicô nhắc nhở: “Nhưng trong đối thoại với cha giải tội, giáo dân cần được lắng nghe, chứ không muốn bị tra hỏi. Điều tôi muốn nói, là đừng bao giờ để tòa giải tội thành phòng tra tấn; đừng tò mò quá, nhất là về vấn đề tình dục, hoặc bắt phải giải thích những chi tiết không cần thiết”[128].Việc hòa giải không được chấm dứt qua cuộc đối thoại với linh mục, mà kết thúc khi Chúa Kitô đem người tín hữu trả lại cho Mẹ Giáo Hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Kitô ban ân sủng luôn luôn tin tưởng vào người mẹ này, vì bà bảo vệ, dậy dỗ, và giúp cho chúng ta trưởng thành[129].

8. Không được xưng tội và giải tội qua điện thoại

Người ta giới thiệu một ứng dụng mới của IPhone, IPad và IPod Touch dành cho việc Giải tội, một ứng dụng của Giáo Hội Công giáo Rôma. Chương trình này được Đức cha Kevin Carl Rhoades ký imprimatur xác nhận tính hợp pháp về giáo luật, cho phép ấn hành “dành cho những ai năng chịu các phép Bí tích và muốn ăn năn trở lại.” Trong đời sống mục vụ, chúng ta có thể gặp một số người gọi điện thoại trình bày việc lương tâm rồi hỏi “con có thể xưng tội luôn được không?” Chắc chắn linh mục đã làm đúng khi trả lời dứt khoát là “không”. Quả vậy, Cha Federico Lombardi, phát ngôn viên Tòa Thánh nói rõ: “Bí tích Giải Tội đòi phải có cuộc đối thoại cá nhân giữa hối nhân và cha giải tội, đồng thời việc tha tội phải được thực hiện bởi cha giải tội đang hiện diện và nghe lời xưng tội... Không một ứng dụng công nghệ thông tin nào thay thế được việc xưng tội và giải tội như đã nêu.” ĐTC Phanxicô cũng bảo phải “mặt đối mặt với một người hành động thay mặt Chúa Kitô để chào đón và tha thứ cho bạn[130].

Tuy nhiên không loại trừ những tiện ích của công nghệ thông tin giúp cho đời sống thiêng liêng, ngài nói: “Trong một thế giới đang có nhiều người nhờ đến sự giúp đỡ của công nghệ thông tin trong việc đọc và suy nghĩ, giúp chuẩn bị xưng tội, như ngày xưa đã nhờ các bản xét mình, các câu hỏi viết trên giấy để xét mình trước khi xưng tội, dựa theo danh sách các thứ tội,” nhưng chỉ được “coi nó như một cẩm nang mục vụ được thực hiện bằng kỹ thuật số, nhằm đem lại một số lợi ích, mà không thay thế được việc cử hành Bí tích.” Như vậy, mọi đồn thổi về việc Tòa Thánh chấp thuận cho cử hành Bí tích Giải Tội qua các phương tiện thông tin hiện đại đã hoàn toàn bị bác bỏ[131].

9. Giá trị sư phạm của Bí tích Giải Tội

ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh giá trị sư phạm của Bí tích Giải Tội đối với cha giải tội cũng như đối với hối nhân, mà mỗi người chúng ta đều khi thì ở vai này lúc lại ở vai kia:

  1. a) Đối với Cha Giải Tội: “Các linh mục đừng lơ là trong việc dành thời giờ cho việc ban bí tích giải tội. Chúng ta đừng quên rằng bao nhiêu cuộc hoán cải và bao nhiêu cuộc sống thánh thiện thực sự đã bắt đầu trong một tòa giải tội! Chúng ta có thể chứng kiến những phép lạ đích thực về sự hoán cải, cảm nhận và chiêm ngắm lòng từ bi của Thiên Chúa. Việc nhận biết chiều sâu của tâm hồn, kể cả những khía cạnh đen tối, có thể là một thử thách đức tin cho chúng ta, nhưng cũng có thể nuôi dưỡng nơi chúng ta xác tín rằng lời nói cuối cùng trên sự ác của con người và của lịch sử chính là của Thiên Chúa, và lòng từ bi của Ngài có thể đổi mới mọi sự. Cha giải tội có thể học được nơi các hối nhân gương mẫu về đời sống thiêng liêng của họ: sự xét mình nghiêm túc, sự minh bạch trong việc nhận lỗi và ngoan ngoãn đối với giáo huấn của Giáo Hội, cũng như những chỉ dẫn của cha giải tội. Qua việc giải tội, chúng ta có thể nhận được những bài học sâu xa về lòng khiêm nhường và đức tin, là lời nhắc nhở mạnh mẽ cho chúng ta ý thức căn tính của mình.
  1. b) Đối với hối nhân: “Việc xét mình giúp hối nhân chân thành cứu xét cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý Phúc Âm và đánh giá nó không chỉ theo các tiêu chuẩn con người, mà nhất là theo các tiêu chuẩn của Mạc Khải. Sự đối chiếu cuộc sống với các giới răn, các mối phúc thật và nhất là với giới luật yêu thương chính là một trường học lớn của bí tích giải tội. Trong thời đại ồn ào ngày nay, với sự chia trí và cô đơn, cuộc nói chuyện của hối nhân với cha giải tội cũng có thể là một trong những cơ hội, nếu không muốn nói là cơ hội duy nhất, để được thực sự lắng nghe trong chiều sâu. Sự kiện được lắng nghe và đón nhận là một dấu chỉ về sự đón nhận và lòng từ nhân của Thiên Chúa đối với con cái của Ngài. Sự xưng thú trọn vẹn các tội lỗi cũng dạy hối nhân về sự khiêm tốn, nhìn nhận sự mong manh yếu đuối của mình, và đồng thời ý thức về sự cần ơn tha thứ của Thiên Chúa, xác tín rằng ơn thánh của Chúa có thể biến cải cuộc sống. Việc lắng nghe những lời nhắn nhủ và khuyên bảo của cha giải tội là điều quan trọng giúp hối nhân phán đoán về hành vi của mình để tiến bước trên đường thiêng liêng và được chữa lành trong nội tâm[132].

10. Tân Phúc âm hóa bắt đầu nơi tòa giải tội

ĐTC Biển Đức XVI cũng đã nói rằng “bí tích Giải Tội rất cần thiết cho đời sống đức tin và liên kết chặt chẽ với việc loan báo Tin Mừng. Thực vậy, các bí tích và việc loan báo Lời Chúa không bao giờ được tách rời nhau. Linh mục thay mặt Chúa Kitô để tiếp tục sứ mệnh của Người qua lời và bí tích nên bí tích Giải tội là một khía cạnh quan trọng của Tân phúc âm hóa. Chính việc Tân phúc âm hóa có được sức sống từ sự thánh thiện của các con cái Giáo Hội, từ sự hoán cải mỗi ngày của cá nhân cũng như cộng đoàn để ngày càng nên giống Chúa Kitô hơn”.

“Tân Phúc âm hóa bắt đầu nơi tòa giải tội, trong cuộc gặp gỡ huyền nhiệm giữa lời khẩn cầu khôn nguôi của con người và lòng thương xót của Thiên Chúa, chỉ nơi đây mới đáp ứng nhu cầu của nhân loại về vô biên. Nếu các tín hữu thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót của Chúa Kitô trong bí tích này, họ sẽ trở thành chứng nhân đáng tin cậy về sự thánh thiện, vốn là mục tiêu của Tân Phúc âm hóa”. Vấn đề này lại càng quan trọng hơn khi muốn cộng tác trong công cuộc Tân Phúc âm hóa, linh mục phải là người đầu tiên đổi mới nhận thức về chính mình là những tội nhân cần được tha thứ nhờ bí tích Giải Tội để đổi mới cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Như thế, mỗi lần đi xưng tội, mà nhờ đó mỗi Kitô hữu được đổi mới, là một bước tiến trong công cuộc Tân Phúc âm hóa”[133].

11. Mẫu gương cha giải tội tuyệt vời

Cha thánh Gioan Maria Vianney là một cha giải tội tuyệt vời. Những người dân ở Ars là bằng chứng sống động về điều đó. Có thể họ nghĩ ngài là một người hay làm phép lạ, nhưng trên hết họ thấy ngài là cha giải tội, người hướng dẫn lương tâm, vị linh hướng và người an ủi. Cha Vianney chỉ có thể rời tòa giải tội vài giờ trong một ngày. Nơi ấy đã trở thành ơn gọi của ngài trong phần đời còn lại: nhốt mình trong một hộp gỗ chật hẹp, cứ ngồi giờ này qua giờ khác trên chiếc ghế gỗ xù xì để lắng nghe những lời xưng thú mọi tội lỗi, tìm kiếm ơn thứ tha và hoà giải, vì nhiệm vụ của linh mục là ở bên cạnh hối nhân, cũng như nhiệm vụ bác sĩ là ở bên cạnh bệnh nhân. Quả vậy, “Giáo hội đã khôn ngoan dạy chúng ta rằng các linh mục phải ngồi lại chờ hối nhân nơi tòa giải tội vào lúc thuận tiện cho hối nhân, kiên nhẫn chờ đợi như thiên Chúa đã kiên nhẫn”[134].

Nhờ bí tích Giải Tội, cha thánh Gioan Maria Vianney đã dành lại khỏi tay ma quỉ biết bao linh hồn cho Chúa, nên nó giận dữ điên cuồng tấn công ngài cách tàn bạo và trút lên ngài những đòn ác liệt: nó đánh đập ngài, xô đẩy ngài va vào tường rướm máu, đốt cháy cả giường ngài nằm… nhưng nó vẫn thua, đành thú nhận và thách thức ngài: “Nếu chúng tao tìm được ba thằng như mày thì chúng tao mới chịu thua.” Tiếc là mới chỉ mới có một Gioan Maria Vianney nên chúng ta còn phải chịu ma quỷ tấn công nhiều lắm. Xin Mẹ Maria giúp chúng con lãnh nhận và trao ban Bí tích Giải Tội cho nên.

Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, ĐTC Phanxicô muốn di hài của thánh Leopold Mandic và Pio Năm Dấu được đặt ở Đền thờ Thánh Phêrô và ngày 5/2/2016 ngài đã đến kính viếng. ĐTC Phanxicô nói: “Cha muốn nhắc về hai cha giải tội đã biểu lộ được tình yêu thương và lòng thương xót của Chúa qua sự nhiệt thành trong tòa giải tội: Đó là thánh Leopold Mandic và Pio Năm Dấu. Thánh Leopold thường bảo những ai đang đau khổ rằng ‘Trên thiên đàng, chúng ta có Mẹ. Đức Mẹ là Mẹ chúng ta đã ở dưới chân thập giá, trải qua mọi đau khổ của một con người, Mẹ hiểu được những khó khăn của chúng ta và Mẹ an ủi chúng ta. Nguyện xin Đức Mẹ, nơi nương náu của những kẻ có tội, Mẹ của Lòng thương xót, luôn luôn hướng dẫn và nâng đỡ mục vụ hệ trọng của Bí tích Hòa giải”[135].  Thánh Piô Năm Dấu cũng đích thực là một vị “tông đồ của tòa giải tội”. Con số giáo dân muốn xưng tội với ngài nhiều đến mức phải mở một văn phòng để phát vé. Một số người phải chờ từ hai đến ba tuần để đến lượt mình[136].

Chúng ta có thể kết thúc bài suy niệm này với lời của ĐTC Phanxicô: “Tất cả chúng ta có thể nghĩ đến câu chuyện của chúng ta, hành trình của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có câu chuyện riêng của mình; mỗi người chúng ta cũng có những sai lầm, tội lỗi, những lúc hạnh phúc và những khi đen tối. Ngày hôm nay là dịp tốt để mỗi người nghĩ đến câu chuyện riêng của mình, và nhìn Chúa Giêsu rồi chân thành lặp đi lặp lại trong thinh lặng: ‘Lạy Chúa, xin nhớ đến con, vì con muốn sống tốt, muốn nên thánh thiện, nhưng con yếu đuối, con không thể: con là người tội lỗi’. Lời hứa của Chúa Giêsu với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao. Lời ấy nói với chúng ta rằng ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Chúa rất quảng đại, Người luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin. Chúa Giêsu chính là trung tâm những nỗi khát mong niềm vui và ơn cứu độ của chúng ta. Nào chúng ta hãy cùng nhau lên đường[137]. Amen.

Bài 3

LINH MỤC SỐNG VÀ THỰC THI NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG MÔI TRƯỜNG ĐƯỢC SAI ĐẾN

  1. Sự Trưởng thành nhân bản giúp linh mục thực thi sứ vụ lòng thương xót tốt hơn

Để phục vụ tốt sứ vụ mục vụ, thực thi lòng thương xót cho đoàn chiên được giao phó, anh em linh mục chúng ta phải thực sự trưởng thành nhân bản, nhất là trưởng thành nhân bản kitô giáo. Vậy mà nhiều người trách linh mục trẻ sau 1975 thiếu trưởng thành nhân bản, nhất là do cách cư xử trịch thượng, nói năng cửa quyền “ta đây”, cách giao tế giống như người đời, giải quyết công việc cách độc tài độc đoán, tự lấy mình làm đủ không cần bàn hỏi ý kiến của ai, kể cả Bề trên và anh em linh mục đàn anh, coi thường và làm khổ giáo dân, không thông cảm và không thương giáo dân là đa số những người không có được trình độ học vấn và đào tạo như mình, nhờ công ơn của Giáo Hội…

Lắm khi cũng có thật như thế, nhưng cần được hiểu và thông cảm vì cái gì cũng có lý do của nó: một phần vì trong một thời gian dài chúng ta không có Tiểu Chủng Viện, thiếu mất sự giáo dục toàn vẹn của Giáo Hội, lại bị thấm nhiễm tinh thần thế tục của một nền đào tạo vắng bóng Thiên Chúa, và phần khác do não trạng quyền bính và giáo sĩ trị nơi giáo dân Việt Nam dẫn đến hậu quả không đáng mong muốn đó. ĐTC Biển Đức XVI bảo có tình trạng thiếu nhân bản này là do thủ tục chọn lựa ứng sinh không thích đáng, việc đào tạo chủng viện không đầy đủ trong nhiều lãnh vực…

Nhiều trường hợp ngay từ những ngày đầu của sứ vụ, linh mục trẻ có thể gặp căng thẳng với môi trường mục vụ và xã hội mới, không biết chấp nhận và thích nghi cách siêu nhiên cái bất định của đời sống và sứ vụ: được sai đến nơi mình không muốn, ở với người mình không ưa và làm việc mình không thích. Cộng thêm những yếu đuối, giới hạn và vấn đề không được giải quyết thỏa đáng ở trong chủng viện, cả toà trong lẫn tòa ngoài, do thiếu sự chân thật về phía ứng sinh và thiếu sự sâu sát chuyên nghiệp về phía các nhà đào tạo, nên nay xuất hiện mạnh hơn trước kia.

Những biểu hiện thường gặp như nhu cầu khẳng định mình thái quá; nhìn đời và nhìn người cách tiêu cực; chỉ trích phê bình, bàn tán đủ thứ chuyện về Giám Mục và Bề Trên mà không dám nói trực tiếp; ít giao tiếp với anh em linh mục khác; không chịu học hỏi kinh nghiệm của người đi trước; thiếu khả năng sống trầm tĩnh, cô tịch, thinh lặng cầu nguyện; ham mê giải trí thái quá: suốt ngày với điện thoại thông minh lướt mạng internet, xem phim, chơi games[138] hay đầu tư quá nhiều thời giờ và tiền bạc vào đẳng cấp chim, cá, cây kiểng, xe cộ…; thiếu tự chủ và làm chủ bản thân, có những vấn đề về giới tính…; quá hướng ngoại, bỏ quên đời sống nội tâm và thiêng liêng; hay ngược lại quá thụ động, an nhàn, lười biếng việc mục vụ (ở nhưng là cội rễ mọi sự dữ[139]), mà không biết cách sử dụng hợp lý thời dụng biểu của mình: Một linh mục biết tìm việc mà làm thì làm không hết việc; trái lại một linh mục không biết tìm việc mà làm thì xem ra chẳng có việc chi để làm cả.

Một số linh mục trẻ khởi sự tác vụ với tràn trề nhiệt huyết và lý tưởng, nhưng rồi gặp phải khó khăn, thất bại mà rơi vào hụt hẫng, chán nản, buông xuôi… Nhưng không riêng gì linh mục trẻ, linh mục đứng tuổi cũng có thể gặp khó khăn trong vấn đề nhân bản khi bị thất bại, bị hiểu lầm, bị chống đối, cùng với những rối loạn của chu kỳ 7 năm một lần thay đổi để phát triển về thể lý, tâm lý và sinh lý của tuổi đời mà người ta bảo là tuổi hồi xuân ‘49 chưa qua 53 đã tới’. Nhiều trường hợp do sức khoẻ, tuổi tác và khả năng đáp ứng sứ vụ, mà có những cuộc đi xứ và chuyển xứ bất như ý gây nên tâm trạng hụt hẫng, suy nghĩ tiêu cực, khủng hoảng, bất mãn…

Chúng ta cũng cần bình tĩnh xem xét một cách công bằng, vì trưởng thành nhân bản là làm chủ được bản thân, làm chủ được các cảm xúc và làm chủ được cuộc sống của mình. Bộ Giáo Sĩ khẳng định “sự trưởng thành nhân bản trước tiên hàm nghĩa sự quân bình và hài hòa trong toàn thể các xu hướng và giá trị, sự ổn định tâm lý và tình cảm, sự cẩn trọng khách quan trong phán đoán, sức mạnh trong việc làm chủ cá tính của mình, khả năng giao tế, v.v…[140]. Nếu hiểu như thế thì trưởng thành nhân bản rất hàm nghĩa, và không phải chỉ linh mục trẻ thiếu trưởng thành nhân bản mà còn nhiều người khác, có khi đầy tuổi tác và chức quyền cũng mắc phải, vì một khi không làm chủ được cảm xúc nóng giận, hoặc việc trái ý để rồi dùng biện pháp trả đũa, lớn tiếng la mắng chưỡi bới giáo dân, cả trên tòa giảng là nơi chỉ để nói Lời Chúa, thậm chí đánh đập giáo dân.

Các hiện tượng này được gia trọng bởi sự thiếu tình huynh đệ, thiếu sự nâng đỡ của Giám mục và anh em linh mục khác, sống cô lập, lơ là trong đời sống hãm mình khổ chế, bỏ bê đời sống thiêng liêng hay ngay cả thiếu đức tin[141], trong khi chính đức tin đem lại sức mạnh và niềm hy vọng nơi Chúa, đặc biệt khi phải đối mặt với những thách đố và những lúc đen tối, khó khăn, thử thách.

Các xung đột nội tâm và khủng hoảng này chỉ có thể được giải quyết khi đặt Chúa Giêsu làm trung tâm cuộc sống, tình cảm và mọi hoạt động. Cần có thời gian và một nơi chốn có thể ở một mình, suy tư và cầu nguyện để trở nên ý thức rõ ràng hơn về các vấn đề thực sự là vấn đề. Các cuộc tĩnh tâm, hồi tâm là các cơ hội quý báu đó. Dành thời giờ sống mật thiết với Chúa Giêsu là phương dược chữa lành vạn năng, vì việc kết hợp với Chúa Giêsu giúp chúng ta thống nhất đời sống của mình[142]. Đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu là cách thế duy nhất để vượt lên khủng hoảng, tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục. Thái độ chúng ta phải có là “nhận biết và chấp nhận vị thế trung tâm của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống, trong suy nghĩ, trong lời nói và trong các việc làm của chúng ta. Khi vị thế trung tâm này không còn nữa, khi nó được thay thế bằng ai khác hay cái gì khác, thì khi đó tác hại sẽ xảy đến cho tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta và cho chính chúng ta[143]. Chúng ta cần nhận biết và can đảm thay đổi trước khi bị bó buộc phải thay đổi, kẻo có khi muộn mất. Nhưng đó không chỉ là việc của con tim và khối óc, song còn cần phải có ơn Chúa mà chúng ta khiêm tốn cầu xin mỗi ngày.

Công Đồng Vaticanô II mời gọi giáo dân nhận biết bổn phận đối với linh mục của mình, và bằng chia sẻ ân cần, tinh thần lẫn vật chất, kính trọng và dè dặt giữ gìn, bảo vệ, giúp đỡ, cầu nguyện, thương yêu và tận tâm cộng tác, ngõ hầu ngài vượt qua được những khó khăn, giới hạn và yếu đuối nhân loại của mình mà chu toàn sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và điều khiển Dân Chúa cách hiệu quả. ĐTC Phanxicô cũng khuyên giáo dân: “Anh chị em tín hữu hãy ở gần bên các linh mục của mình với lòng trìu mến và kinh nguyện, để các ngài luôn luôn là những Mục tử như lòng Chúa ước mong[144].

Công Đồng cũng nhắc nhớ chúng ta trong Sắc lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục rằng chúng ta phải nhìn nhận và thăng tiến phẩm giá cùng sứ vụ của giáo dân, sẵn sàng lắng nghe giáo dân, coi trọng những ước vọng của giáo dân, nhìn nhận kinh nghiệm và chuyên môn của giáo dân trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nhân loại, tin tưởng vào phận vụ của giáo dân trong việc phục vụ Giáo Hội và Xã Hội, để giáo dân có đủ tự do và lãnh vực hoạt động, cũng như cơ hội thích hợp gánh vác công việc theo sáng kiến của mình. Linh mục luôn cố gắng dẫn dắt giáo dân đi đến hiệp nhất, sự thật và công ích, hòa giải những khác biệt về tâm thức và trình độ, để không ai cảm thấy mình xa lạ ở trong cộng đồng Giáo Hội. Sống tốt những mối tương quan như thế, chúng ta sẽ thành công trong việc thực thi lòng thương xót của Chúa và công cuộc dưỡng giáo – truyền giáo sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp.

Trong Tông Huấn Niềm Vui Tình Yêu, ĐTC Phanxicô khuyên giáo dân lẫn mục tử như sau: “Tôi mời gọi các tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh phức tạp hãy tín thác đến nói chuyện với các vị mục tử của mình hoặc với những giáo dân đang sống tận tụy với Chúa. Họ sẽ không luôn luôn tìm thấy nơi những vị ấy một sự khẳng định cách lý tưởng và những ước muốn của mình, nhưng chắc chắn họ sẽ nhận được một ánh sáng giúp họ hiểu rõ hơn điều đang xảy ra và họ có thể khám phá một hành trình trưởng thành bản thân. Và tôi mời các vị mục tử hãy thân ái lắng nghe trong sự thanh thản, với ước muốn chân thành đi vào thảm kịch của con người và hiểu quan điểm của họ, để giúp họ sống tốt đẹp hơn và nhìn nhận chỗ đứng của họ trong Giáo Hội” (Amoris Laetitia số 312).

  1. Linh mục thực thi lòng thương xót

Mỗi người đều vừa là đối tượng vừa là tác nhân của Lòng Thương Xót của Chúa cho người khác. Căn bản ơn gọi chúng ta là làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Thánh Irênê nối kết hai điều đó lại trong khẳng định “con người được cứu độ là Thiên Chúa được vinh quang.” Cha thánh Gioan Bosco tuyên bố: “Xin cho tôi các linh hồn, còn mọi sự khác cứ lấy đi.” GLGHCG số 1475 dạy: “Trong mầu nhiệm các thánh thông công, các tín hữu đã về quê trời, những người còn đền tội nơi luyện ngục và những người đang lữ hành trên trần gian này- tất cả liên kết với nhau trong tình yêu bền vững và chia sẻ với nhau những điều thiện hảo[145]. Trong mối hiệp thông kỳ diệu này, sự thánh thiện của người này ảnh hưởng trên người khác vượt xa thiệt hại do tội lỗi của một người có thể gây ra. Vừa là đối tượng vừa là tác nhân của Lòng Thương Xót, anh em linh mục chúng ta nhận lãnh Lòng Chúa Thương Xót để rồi thực thi lòng thương xót bằng cách trao ban Lòng Thương Xót của Chúa cho kẻ khác qua các hoạt động mục vụ, nhất là mục vụ các bí tích.

2.1. Đối với người còn sống, chúng ta phải chăm lo cho họ:

  • Lúc họ mới mở mắt chào đời, chúng ta dùng bí tích Thánh Tẩy cho họ gia nhập Giáo Hội và trở nên con cái Thiên Chúa.
  • Khi họ vừa có đủ trí khôn, chúng ta chuẩn bị tâm hồn họ Rước Lễ Lần Đầu, được Mình Máu Thánh Chúa Giêsu làm lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng linh hồn.
  • Khi họ yếu đuối sa ngã phạm tội, chúng ta dùng Bí tích Giải Tội tha các tội trọng, trả lại ơn thánh hóa và sự sống Chúa Ba Ngôi cho họ, cũng như tha các tội nhẹ giúp họ được thêm nhiều ơn trợ giúp để sống đẹp lòng Chúa.
  • Khi họ lớn khôn hơn, chúng ta lo liệu cho họ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức để trở nên chiến sĩ Chúa Kitô ra đi rao giảng và làm chứng tá cho Tin Mừng.
  • Khi họ chuẩn bị bước vào đời, chúng ta trang bị cho họ vốn giáo lý đức tin vững chắc hơn qua lớp Bao đồng Rước Lễ Trọng Thể.
  • Khi họ đủ lớn đứng trước ngã ba đường đời, chúng ta ân cần hướng dẫn họ hoặc chọn lựa đời sống hôn nhân, hoặc chọn lựa đời sống thánh hiến. Nếu họ chọn ơn gọi hôn nhân, chúng ta dùng Bí tích Hôn Phối kết hợp đôi nam nữ nên vợ chồng cộng tác với Thiên Chúa tiếp tục phát triển thêm những công dân mới của Nước Trời và của quê hương trần thế; còn nếu họ chọn sống đời thánh hiến, chúng ta dẫn dắt họ những bước đầu tiên và tận tình cộng tác với Chủng viện và Nhà Dòng để đào tạo họ nên linh mục hay tu sĩ qua Bí tích Truyền Chức ThánhNghi Lễ Khấn Dòng hầu họ tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô ở giữa trần gian. “Việc chăm sóc mục vụ ơn gọi là một phần cơ bản của sứ vụ linh mục. Hãy đồng hành với những ai đang biện phân về ơn gọi của họ, cũng như những ai đã tận hiến cuộc đời của mình để phục vụ Thiên Chúa và cộng đoàn”[146].
  • Khi họ gặp những nghi nan, hoang mang lo lắng và tăm tối đức tin, hoặc những vấn đề thử thách nan giải trong cuộc sống tình cảm, tình yêu, gia đình, cũng như những lầm lạc yếu đuối và các vấn đề rối rắm phức tạp trong cuộc sống, chúng ta ân cần tiếp đón, đồng hành, lắng nghe, tư vấn, soi sáng, hướng dẫn, an ủi, nâng đỡ, tiếp thêm sức mạnh niềm tin, hy vọng và tình yêu mến cho họ vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
  • Khi họ già cả yếu đau bệnh tật hay gặp rủ ro tai nạn, chúng ta vội chạy đến ban Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân và trao Mình Thánh Chúa như Của Ăn Đàng tăng thêm sức mạnh thiêng liêng cho họ đủ khả năng chiến đấu với ma quỉ, vượt lên mọi khó khăn nguy hiểm hầu luôn trung thành với Chúa. Sự hiện diện của chúng ta bên cạnh người hấp hối quan trọng và an ủi biết bao cho họ, cũng như cho gia đình họ.
  • Và khi đến giờ Chúa gọi họ ra khỏi đời này về với Chúa, chúng ta hiện diện chúc lành cho họ trong giờ hấp hối, dâng thánh lễ An táng cầu nguyện và đưa tiễn họ đến mộ phần an nghỉ trong lòng đất mẹ, chờ ngày được phục sinh với Chúa.
  • Rồi khi mọi người hầu như quên họ trong cõi chết, kể cả những người thân yêu của họ nữa, chúng ta hằng nhớ cầu nguyện cho họ trong thánh lễ cầu hồn, cũng như trong các thánh lễ mỗi ngày.

Trong số những người đang còn sống, chúng ta cần tỏ lòng thương xót đặc biệt đối với những đối tượng này:

  1. a) Các Gia đình: Chúng ta đang ở thời điểm hậu THĐGMTG về Gia Đình với Tông Huấn Niềm Vui của Tình Yêu (Amoris Laetitia), ký ngày 19/3/2016 và công bố ngày 8/4/2016, gồm 9 chương với 325 đoạn[147], nêu bật tính cách mục vụ, vì liên quan nhiều đến các mục tử, các người lo mục vụ hôn nhân nhiều hơn. Gia đình là tế bào nền tảng của Giáo Hội và Xã Hội, là cái nôi của sự sống và đức tin, là Giáo hội cơ bản và là vườn ươm ơn gọi. Tông huấn Amoris Laetitia đem lại viễn tượng về một Giáo Hội mục vụ và thương xót, tạo điều kiện cho mọi người cảm nhận được Niềm Vui của Tình Yêu. Gia đình là một phần tuyệt đối cần thiết của Giáo hội, bởi Giáo hội là ‘gia đình của các gia đình’ (x. Amoris Laetitia số 80). Gia đình là Giáo hội tại gia, nơi con cái gặp gỡ tình yêu thương và đức tin.

Do đó, chúng ta phải ưu tiên cho mục vụ gia đình với các phương pháp mục vụ mới ĐTC đề nghị trong chương VI (số 199 – 258), vì “gia đình đang cần được chăm sóc đặc biệt. Mục vụ gia đình bao gồm và liên quan tới toàn thể việc mục vụ. Sự kiến tạo nền móng cho con người nảy sinh từ gia đình. Nếu những người kiến thiết không được huấn luyện thì làm sao họ có thể chu toàn sứ mệnh của mình? Đó là công việc rất quan trọng mà Giáo Hội phải làm”[148].

 ĐTC Phanxicô mở ra một hướng đi rất linh hoạt và quan trọng dành cho trách nhiệm nhận định mục vụ của tâm hồn mục tử lấy ngọn đèn lòng thương xót để chiếu sáng con đường: “Không phải tất cả những tranh luận đạo lý, luân lý hoặc mục vụ đều phải được giải quyết với sự can thiệp của huấn quyền…; mỗi nước hoặc miền có thể tìm kiếm những giải pháp hợp với văn hóa hơn, chú ý đến những truyền thống và thách đố địa phương…; vì văn hóa thì rất khác biệt nhau và mỗi nguyên tắc chung cần được hội nhập vào văn hóa địa phương, nếu muốn được tuân giữ và áp dụng” (x. Amoris Laetitia số 3). Nghĩa là không thay đổi giáo lý nhưng thay đổi phương pháp mục vụ.

Việc mục vụ gia đình trong Ngàn Năm thứ ba này đang phải chịu những cuộc tấn công của một số tổ chức chính quyền và dân sự chống lại hôn nhân gia đình và sự sống. Cần có những vị mục tử yêu mến chương trình của Thiên Chúa để thực hiện một nền mục vụ gia đình hầu các gia đình được hướng dẫn, tháp tùng và huấn luyện theo kế hoạch của Thiên Chúa, mà sống căn tính và sứ mạng của mình[149].

ĐGH Biển Đức XVI, trong thông điệp “Đức Ái trong Chân Lý” nhấn mạnh tầm quan trọng của tình yêu gia đình như nguyên lý cuộc sống xã hội, là trường học đầu tiên về tình thương và tình người, là nơi đầu tiên con người học cách chia sẻ về Thiên Chúa và Giáo Hội như một gia đình. Nhưng thật “đáng tiếc là xã hội hiện nay phát triển thứ văn hóa “vứt bỏ”, coi sự cam kết hôn nhân trọn đời là điên rồ và làm nản chí. Vì thế người trẻ có xu hướng sợ kết hôn và nhìn sự cam kết ấy như một gánh nặng. Một phần ơn gọi của chúng ta là khuyến khích người trẻ tiến vào hành trình hôn nhân thánh thiện, nhìn Chúa Kitô như niềm hy vọng mới”[150].

Bên cạnh rất nhiều gia đình giữ được truyền thống gia đình công giáo tốt, có những gia đình phải trải qua thử thách khủng hoảng, chúng ta cần vươn tay ra với họ, tới với họ trong những thực tại “rối rắm hôn nhân ly thân, ly dị” của họ, đồng hành sát cánh hơn nữa với các gia đình bị tổn thương, đầy lòng thương xót và tránh những cách cư xử nguyên tắc quá cứng cỏi vốn chỉ thấy có lý thuyết mà Amoris Laetitia gọi là ‘những hòn đá ném vào đời sống của những con người’ (số 305), để giúp họ dần dần điều chỉnh và tái hội nhập với Giáo hội, lưu tâm đến các thực tế hiện sinh của họ. Do đó, các chủng sinh và linh mục cần được đào tạo tốt hơn để hiểu được sự phức tạp của đời sống hôn nhân của mọi người, vì nhiều khi “các thừa tác viên thánh chức thường thiếu sự huấn luyện thích hợp để đối phó với những vấn đề phức tạp hiện nay của các gia đình” (Amoris Laetitia số 202). Nhưng sứ mệnh chính và khẩn trương của Giáo Hội là đề cao vẻ đẹp và sự cao quí của bí tích hôn nhân và đời sống gia đình[151]. Ngoài ra, chúng ta cố gắng giúp làm tốt và vận dụng các cuộc hôn nhân khác Đạo rất năng gặp thấy ngày nay như cơ hội đối thoại liên tôn và loan báo Tin Mừng[152], nhất là giúp cho bên phối ngẫu công giáo sống một đời sống đức tin có sức hấp dẫn và thuyết phục người bạn đời cùng gia đình của người ấy.

Chính GHVN cũng đã lên kế hoạch “phải tăng cường và canh tân mục vụ gia đình, phải xem mục vụ gia đình là hoạt động quan trọng và nối kết những kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo xứ cũng như giáo phận[153].

  1. b) Giới trẻ di dân hôm nay: Giới trẻ dần dần bỏ nông thôn di dân ra thành phố hay địa phương khác để học tập và làm ăn sinh sống. Rất nhiều người trong họ không được đào luyện và nuôi dưỡng về đức tin, không phát triển được một đời sống cầu nguyện, và họ thực sự nghèo nàn về mặt thiêng liêng. Họ trải nghiệm một nội tâm trống rỗng bên cạnh những lợi lộc vật chất họ tìm kiếm, với đời sống luân lý quá dư thừa sai phạm và những tệ nạn xã hội thời đại. Chăm sóc nhu cầu thiêng liêng cho giới trẻ là trách nhiệm lớn lao của chúng ta. Làm sao tiếp cận cách tốt nhất với họ? Nhiệm vụ trước mắt của chúng ta là làm sao giữ liên lạc và đồng hành thiêng liêng được với họ. Chúng ta phải cố gắng giúp họ duy trì mối liên lạc, cách riêng là tình cảm yêu mến với gia đình và giáo xứ nguyên quán; đồng thời giúp họ hội nhập vào các giáo xứ ở thành thị hay địa phương nơi họ cư trú.

Dịp Ad Limina 2009, ĐTC Biển Đức XVI yêu cầu các Giám Mục Việt Nam “phát triển nền mục vụ thích hợp cho các người trẻ di dân trong nước qua việc tăng cường sự hợp tác giữa các giáo phận hay giáo xứ gốc của họ và các giáo phận và giáo xứ họ đến, cung cấp cho họ những lời khuyên về mặt đạo đức và các chỉ dẫn thực hành[154]. Hẳn giáo phận Xuân Lộc chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm thực tế quý báu từ cuộc di dân vĩ đại 1954 đã đem lại bộ mặt ngày hôm nay cho Giáo Phận, Giáo Hội và Đất Nước Việt Nam thân yêu. Và với kinh nghiệm đó thì những người di dân khắp nơi tìm về Xuân Lộc sẽ hạnh phúc gặp được lòng hiếu khách và sự giúp đỡ quảng đại để xây dựng một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.

Ủy Ban Di Dân của HĐGMVN sẽ đưa ra bản Hướng Dẫn Mục Vụ Di Dân để có một đường lối chung. ĐTC khích lệ các vị tuyên uý nhiệt thành đáp ứng các nhu cầu của anh chị em di dân và phát triển cuộc sống thiêng liêng cho họ. Di dân bởi bất cứ lý do gì cũng bao gồm các lo âu, vấn đề và nguy hiểm, vì họ bị bẻ gẫy với các nguồn gốc lịch sử văn hóa và gia đình. Do đó, chúng ta cố gắng giúp họ duy trì đức tin và làm chứng nhân trong các xã hội họ sinh sống[155], bao gồm cả tác động của họ trên việc tô điểm cho xã hội và dân tộc, như ĐTC nói với người tị nạn “mỗi người trong anh chị em sẽ có thể là chiếc cầu kết hợp người dân các nước xa xuôi, sẽ là nơi gặp gỡ các văn hóa, tôn giáo khác nhau, một con đường để tái khám phá lại tình nhân loại chung của chúng ta[156], vì lòng hiếu khách thực ra lớn lên từ cả việc cho đi lẫn việc lãnh nhận[157]. Sứ điệp Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn 2016 mở ra đường hướng hành động tích cực. ĐTC Phanxicô mong muốn đây là thời gian của ân sủng để gây ý thức về trách nhiệm xây dựng một xã hội công bằng đầy tình huynh đệ[158]. Ngài nói khi cùng đi với Đức Thượng phụ Constantinople Bártôlômêô I và TGM Chính Thống Jérôme của Athènes đến thăm trại tị nạn Lesbos: “Chúng tôi cùng nhau đến đây để lắng nghe những câu chuyện của anh chị em, để đòi thế giới phải lưu tâm đến cuộc khủng hoảng nhân đạo này và tìm ra giải pháp… Món quà lớn nhất chúng ta có thể dành cho nhau là tình yêu, ánh mắt xót thương, là sự ân cần lắng nghe và thấu hiểu, lời khích lệ, lời cầu nguyện[159].

Ông Martin Schulz, chủ tịch Nghị viện Âu Châu nhận định: “Vatican, Quốc gia nhỏ nhất Âu Châu đã đón nhận 12 người tị nạn Syria… Hành vi của Đức Phanxicô (đem 12 người tị nạn về Rôma trên chuyến bay của mình) là một biểu tượng không chối cãi của sự tôn trọng, lòng nhân đạo và lòng bao dung… Nhà lãnh đạo cao cấp nhất của công giáo đã cho chúng ta một bài học dứt khoát[160].

Chúng ta cần có một cái nhìn lạc quan như dấu chỉ thời đại của Chúa Quan Phòng về hiện tượng di dân ngày nay dưới bất cứ hình thức nào, kể cả việc “bách hại cách tinh vi” xé nát các cộng đồng tín hữu kỳ cựu để “phân sáp” đi khắp nơi như một cơ may thể hiện mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Cứu Thế[161]. Điều quan trọng là liệu các tín hữu của chúng ta có sống đức tin vững mạnh có sức hấp dẫn và truyền lây như các tín hữu đầu tiên khi bị bách hại hay không? Và cuộc sống của họ có là chứng tá đức ái có sức thuyết phục, có là men làm bột dậy men hay không?

  1. c) Những Nicôđêmô thời đại: Xưa ông Nicôđêmô e ngại các thủ lãnh Do Thái mà phải đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ngày nay chúng ta cũng gặp những người thiện chí như thế ở bất cứ nơi đâu mà sứ vụ đưa chúng ta đến. Họ là những người thuộc các Tôn giáo bạn, những người thờ kính ông bà tổ tiên, những người không theo tôn giáo nào, và cả những người vô thần nữa. Chúng ta gặp những Nicôđêmô thời đại đó đến với chúng ta, có khi trong âm thầm, gần như bí mật, để đặt câu hỏi, để nói lên những mối nghi ngờ, để tìm ý nghĩa cuộc sống, để tìm cách tiếp cận Giáo Hội và tìm kiếm Chúa. Chúng ta cố gắng đón tiếp họ với nhẫn nại và yêu thương, nói cho họ hay rằng cuối cùng chỉ có thể đạt tới Chúa bằng một bước nhảy vọt của đức tin tín thác. Chúng ta cầu nguyện và nỗ lực làm cho các cuộc gặp gỡ ấy sinh hoa kết quả, những Nicôđêmô thời đại ấy sẽ sẵn sàng đến gần Chúa và trở lại với Chúa. Đừng sợ những kẻ bách hại, những người chống đối Chúa và tìm mọi cách làm cho người khác chối bỏ Chúa hay không được tự do tôn thờ Chúa: một Saolô bắt Đạo sẽ trở nên người truyền Đạo và chết vì cái Đạo mà ông muốn tiêu diệt; rất lắm người chỉ vô thần trên lý thuyết và trong tập thể vì sự nghiệp hay miếng cơm manh áo, nhưng khi ở riêng tư và thực sự va chạm với cái chết, sự chóng qua của đời này và tiếng nói lương tâm được thức tỉnh, họ sẽ cần đến Chúa. Nhiều kẻ bách hại Đạo đã được ơn trở lại khi chứng kiến chứng tá Đức Tin của các thánh tử đạo.
  1. d) Những người thanh niên giàu có tân thời: Có lẽ của cải, nghề nghiệp, địa vị xã hội hay quyền lực của họ không lấp đầy được lòng họ. Họ muốn có được sự sống đời đời, nhưng không dám từ bỏ mọi thứ họ đang gắn bó. Chúng ta không mang lại cho họ lợi ích gì nếu không nói với họ về kho tàng của ơn thánh Chúa, luôn sẵn sàng trao ban cho họ nơi các Bí Tích của Giáo Hội. Chúng ta không mang lại cho họ lợi ích nào, khi để họ ra đi mà không được biến đổi gì cả.
  1. e) Những con chiên lạc: Nhiều khi chúng ta ngần ngại chỉnh sửa và khiển trách người có tội, vì chúng ta ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta chưa phục vụ các tội nhân đúng mức, khi chúng ta thất bại trong việc khuyên ngăn họ đừng phạm tội, vì những yếu đuối và nhát đảm của mình. Nỗ lực nhằm hoán cải người có tội chỉ thực sự sinh hoa kết quả khi chúng ta cải thiện đời sống của chính mình, nhất là đối với những con chiên lạc do trách nhiệm và tội lỗi hay gương xấu của chúng ta mà họ lìa xa Giáo Hội, có khi bỏ cả Chúa. Chúng ta phải đền tội mình và ra sức đi tìm kiếm những con chiên lạc này về lại cho Chúa và Giáo Hội.

Sứ vụ hoán cải tội nhân, giáo hóa người dốt nát, khuyên bảo người hoài nghi nhất thiết đòi hỏi chúng ta sống rất mật thiết với Chúa. Muốn hoán cải người khác mà chính mình không hoán cải, không phải là một con người cầu nguyện, hay không thấm nhuần các mầu nhiệm của Chúa, thì nhất thiết chúng ta sẽ bị thất bại, và chỉ là “thanh la inh ỏi và não bạt rền vang mà thôi[162]. Nếu không có tâm hồn cầu nguyện, chúng ta chẳng bao giờ hy vọng thuyết phục được người nghe. Phải đã trải nghiệm được tình yêu của Chúa thì chúng ta mới giúp được người khác trải nghiệm tình yêu thương xót của Ngài. Nhưng chúng ta cũng phải khiêm tốn mà nhìn nhận rằng có một số anh em linh mục chúng ta, và có lúc cả chúng ta nữa, đã trở thành những con chiên lạc, hãy để cho Chúa và Giáo Hội, Bề trên và anh em tìm gặp và đưa chúng ta về lại đàn chiên thánh thiện của Chúa.

  1. f) Những người bên lề cuộc sống: Thánh Matthêu nói rằng vào lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị xét đoán theo tình thương[163], nên chúng ta nỗ lực đáp lại bằng các công việc của lòng thương xót: cho ăn người đói, cho uống người khát, tiếp rước khách lạ cô đơn, áo mặc cho người trần trụi, săn sóc người ốm đau, mang tình thương của Chúa cho người tù đày, bị áp bức, cho cô nhi, quả phụ, người bệnh hoạn, khuyết tật, người chịu tác hại của chiến tranh và các tệ nạn xã hội, người già cả neo đơn, người quẫn bách, trong sự nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá của họ. Hoạt động bác ái của chúng ta phải là hành động của lòng thương xót, chứ không phải là một thương vụ hay chỉ thuần túy việc nhân đạo như bao nhiêu người khác làm, vì qua những hoạt động đó chúng ta yêu người như yêu Chúa Kitô và Chúa Kitô yêu chúng ta.

Nhiều người nhìn nhận những cống hiến của chúng ta có cái gì an ủi và tăng sức mạnh. Nhưng lắm khi chúng ta bị lúng túng, như các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, vì có quá nhiều người quẫn bách mà chúng ta không có đủ nguồn lực để giúp đỡ[164]. Lắm lúc chúng ta cũng bị áp đảo bởi sự bao la của nghèo khó, đói khát, nạn nhân của bất công và đau khổ. Và nhiều lúc chúng ta đi tìm giải pháp nơi loài người, mà không tính đến quyền năng của Chúa. Cần có đức tin mạnh mẽ để chống lại cám dỗ đó. Và khi bị cám dỗ như thế, chúng ta phải nhớ lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ “Các con hãy cho họ ăn” khi bảo họ mang cái ít ỏi họ đang có đến cho Ngài. Ngày nay Chúa cũng sẽ biến đổi cái ít ỏi của chúng ta để lo cho người kém may mắn hơn chúng ta. Nhiều tôi tớ quảng đại của Chúa Kitô hằng cho đi, không phải cái dư thừa mà là cái rất cần thiết của họ: thời giờ, sức khỏe, và có khi cả mạng sống nữa. Họ đã làm cho người cơ cực và bệnh hoạn hiểu được ý nghĩa cứu độ của những đau khổ của họ. Không cuộc đời nào được mua lấy bằng Máu của Chúa Kitô lại không có giá trị. Trong xác thịt của Ngài, Chúa Kitô đã trải nghiệm nỗi đau của những vết thương thể lý cũng như nỗi đau tâm hồn của con người. Tình thương của Chúa Kitô biến đổi nỗi đau của con người và làm cho nó trở nên phương tiện chuyển tải sự sống và tình thương cứu độ của Chúa.

  1. g) Những giáo dân ngỗ nghịch: Nói chung giáo dân Việt Nam chúng ta rất dễ thương và rất thương chúng ta. Nhưng bên cạnh những chiên ngoan thì cũng có những chiên ngỗ nghịch, những sói đội lốt chiên làm cho linh mục lắm khi cũng phải khóc[165]. Tuy vậy, chúng ta luôn cố gắng cư xử với lòng thương xót, thông cảm tha thứ và cầu bàu cho những giáo dân ấy, vì người đang còn sống là còn có thể biến đổi, theo gương của Môsê trong những lần Dân Chúa ngỗ nghịch chống lại Chúa chống lại ông, như khi dân nổi loạn đòi thịt ăn[166] và đòi nước uống[167]. Xét mình lại, chúng ta cũng có biết bao nhiêu lần ngỗ nghịch, với Chúa, với Bề trên, nhưng chúng ta vẫn luôn luôn đón nhận được lòng nhân từ thương xót tha thứ, thì đến lượt chúng ta cũng phải biết sẵn sàng thương xót tha thứ cho tha nhân, nhất là đoàn chiên bé nhỏ ít được học hành đào tạo như chúng ta.
  • Đối với người đã qua đời

Còn đối với người đã qua đời, chúng ta biết rằng các linh hồn trong luyện ngục may mắn không làm chi thêm tội, chỉ phải lo đền trả theo lẽ công bằng cho đến đồng xu cuối cùng[168], và họ cũng chẳng làm được chi thêm công phúc cho mình, chỉ trông nhờ vào lời cầu bàu của các thánh trên trời và sự giúp đỡ của người còn sống chúng ta, nên tích cực cầu nguyện cho người đã qua đời là bổn phận đức ái không thể thiếu, vì nay người mai ta mà thôi. Chúng ta được dạy cho biết rằng các linh hồn trong luyện ngục phải trải qua những khổ đau dữ dội chẳng khác gì đau khổ trong hoả ngục, chỉ khác là đau khổ trong luyện ngục có thời hạn và còn hy vọng được nhìn thấy Chúa, còn đau khổ trong hoả ngục là vô tận và sẽ không bao giờ được nhìn thấy mặt Chúa nữa. Vì vậy mà Ơn Toàn Xá chúng ta lãnh nhận trong Năm Thánh Lòng Thương Xót được đề nghị nhường lại cho các linh hồn. Càng nhiệt thành thực hiện các điều kiện qui định để lãnh nhận càng nhiều ân xá thì các linh hồn càng được nhờ.

 Chúng ta không chỉ nhớ đến Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ và các thân nhân huyết thống đã sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người về phần xác, mà còn phải nhớ đến các đấng bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng ta trong đức tin và đời sống ơn gọi làm linh mục của Chúa nữa, cũng như các ân nhân về tinh thần và vật chất khác. Chúng ta nhớ đến mọi người đã ra đi trước chúng ta, nhất là các linh hồn mồ côi không được ai nhớ đến để cầu nguyện cho, dù lắm khi người thân của họ còn sống đầy dẫy ra đó. Chúng ta cũng không được quên những người chúng ta có liên đới trách nhiệm, nhất là những người mà vì sự thiếu sót, lầm lỗi hay gương mù gương xấu của chúng ta mà giờ đây đang phải đau khổ trong lửa luyện ngục để cầu nguyện cho họ và đền tội chúng ta theo lẽ công bằng.

Việc làm này không những lợi ích cho các linh hồn mà còn cho chính cuộc sống đời sau của chúng ta nữa, vì nó nhắc chúng ta thức tỉnh nhìn lại cuộc sống của chính bản thân mình hôm nay: không ai biết được lúc nào Chúa vạch đường ranh giới chấm dứt cuộc đời mình, có thể không xa nữa đâu, bắt phải đến trước toà phán xét công thẳng của Thiên Chúa và trả lời Ngài về tất cả những gì chúng ta đã làm khi còn sống. Cuộc sống hiện tại rất ngắn ngủi so với cuộc sống đời đời, nhưng chính cuộc sống ngắn ngủi này lại quyết định số phận vô tận đằng sau cái chết và mời gọi chúng ta thức tỉnh ngay từ lúc này. Chúa Giêsu hằng nhắc nhở phải luôn sẵn sàng cho giờ từ giã cõi đời này để buớc vào sự sống đời sau.

Ngoài việc hy sinh hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta còn phải ý thức và tập thói quen xin lễ và dâng lễ cầu nguyện cho chính mình nữa. Thỉnh thoảng cũng hãy nhớ xin lễ và dâng lễ bù vào các lễ thiếu sót chúng ta có thể mắc phải, vì quên ghi sổ lễ hay không giữ đúng lời hứa, bổn phận và trách nhiệm của mình. Đó cũng là một nghĩa vụ công bằng phải đền trả ở đời này hoặc đời sau. Chúng ta phạm đến Chúa nhiều cách, nếu biết đền bù bằng việc lành phúc đức, từ thiện bác ái, nhất là nhờ công nghiệp Chúa Giêsu qua thánh lễ thì tội nợ chúng ta được tẩy xóa, chứ chờ đến trước tòa án mới xin đền thì hình phạt lại thêm nặng. Thánh Anselmô dạy rằng chúng ta sốt sắng dâng một Thánh lễ cho mình khi còn sống lợi ích hơn cả ngàn Thánh lễ được xin cho chúng ta khi đã qua đời, mà biết người ta có xin cho không nữa. Chính Chúa Giêsu cũng dạy “Hãy làm việc khi trời còn sáng, tối rồi ai thấy đường đâu mà làm.”

Một việc bổn phận chuẩn bị khôn ngoan không thể thiếu cho anh em linh mục chúng ta, không chỉ những người lớn tuổi mà cả những người đang còn trẻ nữa vì chẳng ai biết được lúc nào Chúa gọi chúng ta về với Ngài, đó là việc viết chúc thư, “một nghĩa vụ liên hệ đến đức công bằng và khó nghèo:” nên để lại tài sản cho người nghèo, tốt hơn là giao phó cho Thẩm quyền Giáo Hội trực tiếp của mình lo liệu, không những tài sản vật chất, tinh thần và thiêng liêng để mưu ích cho các linh hồn, mà cả những gì liên quan đến thân xác chúng ta sau khi chết nữa. Phải gửi cho Tòa Giám Mục một bản chúc thư và cất giữ cẩn thận một bản khác để được an tâm khi còn sống và việc thực hiện di chúc sẽ được nhẹ nhàng tốt đẹp khi đã qua đời. Trong cuốn sách The Grace of Dying, bà Kathleen Dowling Singh nhận xét rằng những người ở giai đoạn cuối cuộc đời cảm nghiệm một sự thanh luyện làm nhỏ dần đi một cách tự nhiên những bám víu vào những sự đời này và cả vào bản thân để được sẵn sàng đi vào một sự sống và ý nghĩa mới vượt quá ý thức hiện thời của chúng ta[169].

Chúng ta cùng cầu nguyện để các nỗ lực của chúng ta ngày càng đưa được nhiều linh hồn về với Chúa và Danh Chúa được cả sáng hơn. Ước mong chúng ta sống được như lời Thánh Thi này:

Đây linh mục, những con người thánh hiến

Suốt cuộc đời làm chủ tế trung kiên

Đem tình thương người mục tử nhân hiền

Dâng trọn vẹn cho đoàn chiên chẳng tiếc.

Hồng ân Chúa, những hồng ân đặc biệt

Lãnh nhận rồi phân phát cả cho dân

Thắt đai lưng như đầy tớ chuyên cần

Chờ đợi chủ tay cầm đèn sáng rực.

Không mỏi mệt nhưng kiên trì tỉnh thức

Suốt đêm trường hay mãi tới canh khuya

Miễn làm sao kịp khi Chủ trở về

Mở ngay cửa nghêng đón Người vội vã.

Vinh tụng Chúa Cha vua trời cao cả

Cùng Chúa Con đấng chuộc tội cứu đời

Và Thánh Thần lửa yêu mến sáng soi

Hằng hiển trị bây giờ và mãi mãi[170].

Xin cho chúng ta được trung tín và thành công trong đời sống và sứ vụ linh mục của chúng ta ở đời này, được Chúa thương xót và hết lòng thương xót mọi người, chuẩn bị hành trang đi vào đời sau, như giai thoại về cuộc đời của thánh Gioan Maria Vianney: Một ngày kia, sau nhiều giờ miệt mài với hối nhân nơi tòa giải tội, cha thánh trở về kiệt sức và té ngã. Giáo dân hay tin chạy đến và hô hoán lên: “Cha bị bệnh, đi kêu bác sĩ gấp!” Ngài khoát tay ôn tồn bảo: “Kêu linh mục chứ không kêu bác sĩ”… Và sau khi được lãnh các bí tích sau hết, ngài ôn tồn nói với vị linh mục trẻ ban bí tích: “Đẹp làm sao cái chết của một linh mục hoàn tất trách nhiệm của mình”. Amen.

———————

[1] Trích sách Tên của Chúa là Lòng Thương Xót.

[2] http://vietvatican.net/.

[3] Trích huấn dụ của ĐTC Phanxicô ngày 20/11/2015 nhân dịp kỷ niệm 50 năm ban hành hai sắc lệnh Presbyterorum ordinis và Optatam totius của Công đồng Vatican 2.

[4] Le Curé d’Ars, Pensées, présentés par l’abbé Bernard Nodet, DDB, Foi Vivante, 2000, pp. 101.

[5] Misericordiae Vultus, số 8.

[6] x. Mc 14,23

[7]  x. Lc 10,21

[8] x. Mc 14,32

[9] x. Mt 27,36

[10] x. Lc 23,46.

[11] x. Ga 1,:5.

[12] Bài đọc 2 Kinh Sách Thứ Bảy CN 27 TN.

[13] Thánh Bộ Giáo Sĩ, Linh Mục và Thiên Niên Kỷ Thứ Ba: Thầy Dạy Lời Chúa, Thừa Tác Viên Bí Tích và Người Lãnh Đạo Cộng Đoàn, Ch.3, số 2.

[14] Thánh Gioan Thánh Giá, Ngọn Lửa Sống của Tình Yêu, đoạn 3, 45.

[15] x. Mc 10,14.

[16] x. Ga 11,35.

[17] x. Mc 6,35.

[18] x. Lc 7,11.

[19] x. Mc 1,41.

[20] x. Mc 10,46.

[21] x. Mc 5,30.

[22] x. Lc 21,2.

[23] Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 1.

[24] http://phanxico.vn/2016/01/01/ngay-the-gioi-hoa-binh-su-diep-cua-duc-phanxico-cho-ngay-dau-nam-2016/

[25] http://phanxico.vn/2016/01/04/bao-thu-o-argentina-tien-bo-o-vatican-ai-that-su-moi-la-duc-phanxico/

[26] JP II, Triều yếu ngày 14/8/1990.

[27] http://phanxico.vn/2016/01/01/ngay-the-gioi-hoa-binh-su-diep-cua-duc-phanxico-cho-ngay-dau-nam-2016/

[28] Trong cuộc tiếp kiến các linh mục và chủng sinh ngày 20/11/2015 – http://www.vietcatholic.org/News/Html/163013.htm

[29] x. Kh 21,5

[30] x. Vui Mừng và Hy Vọng số 1.

[31] Trích bài diễn văn bế mạc Công Đồng Vatican II năm 1965.

[32] http://phanxico.vn/2016/01/01/ngay-the-gioi-hoa-binh-su-diep-cua-duc-phanxico-cho-ngay-dau-nam-2016/

[33] Tông huấn Lời Chúa (Verbum Domini) của ĐTC Biển Đức XVI ký ngày 30/9/2010 và công bố chính thức ngày 11/11/2010, là kết quả của THĐGMTG lần thứ XII năm 2008.

[34] x. Verbum Domini số 22-23.

[35] Zenit 16/8/2010.

[36] Trích sách “Tên của Chúa là Thương xót” – http://phanxico.vn/2016/01/12/bay-cau-nen-nho-trong-quyen-sach-moi-cua-duc-giao-hoang/

[37] Misericordiae Vultus, số 2.

[38] http://phanxico.vn/2016/01/13/long-thuong-xot-la-the-thong-hanh-cua-chua/

[39] ĐHY Antonio Tagle của Philippines –http://vietnam.ucanews.com/2012/10/26

[40] http://www.vietcatholic.org/News/Html/160003.htm

[41] Trích lời ĐTC Biển Đức XVI trong Vatican City, 14 /4/ 2010 (VIS).

[42] 2 Cr 1,3-4.

[43] ĐTC giảng lễ khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót – lefigaro.fr, Jean-Marie Guénois, 2015-12-08 – http://phanxico.vn/2015/12/09/duc-phanxico-chung-ta-phai-co-long-thuong-xot-truoc-khi-phan-xet/

[44] http://phanxico.vn/2016/02/16/the-gioi-ngay-nay-can-biet-noi-len-xin-tha-thu-duc-giao-hoang-voi-cac-tho-dan-da-do/

[45] Trích Sứ điệp Ngày Ơn Gọi lần thứ 53 của ĐTC Phanxicô.

[46] Trích sách “Tên của Chúa là Thương xót” – http://phanxico.vn/2016/01/12/bay-cau-nen-nho-trong-quyen-sach-moi-cua-duc-giao-hoang/

[47] Mt 10,28.

[48] Bộ Giáo sĩ, Linh Mục Và Thiên Niên Kỷ Thứ Ba…, ch.4, số 3.

[49] x. Ga 10,11.

[50] x. Mt 25, 40; Pastores Dabo Vobis, số 49.

[51] Mt 21,23.

[52] ĐTC Phanxicô nói trong bài giảng đầu tiên cho 114 vị HY bầu chọn mình.

[53] x. Mc 16,15-16.

[54] x. Thư thánh Inhaxiô Antiôkia gửi thánh Polycap, Bài đọc 2 Kinh Sách thứ sáu XVII TN.

[55] Trong ngày lễ khai mạc sứ vụ Giáo Hoàng ngày 19/3/2013.

[56] Kim Chỉ Nam 2013, số 56,7.

[57] Dt 5, 8.

[58] x. Tông huấn Verbum Doini số 59-60 về nội dung và phẩm chất của bài giảng.

[59] x. Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, số 15.

[60] cha Pierre-Hervé Grosjean ở giáo xứ Saint-Cyr-L’École, trong vùng Yvelines- http://phanxico.vn/2016/03/28/cha-xu-grosjean-linh-muc-muon-thuc-tinh-nguoi-cong-giao/

[61] Optatam totius số 4.

[62] Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 150.

[63] Thánh Bộ Giáo Sĩ, Linh Mục Và Thiên Niên Kỷ Thứ Ba…, Ch.2, số 1.

[64] Paul VI, Tông huấn Loan Báo Tin Mừng,  ban hành ngày 8/12/1995, số 41.

[65] Trích diễn từ của ĐTC Phanxicô với các chủng sinh và tập sinh ngày 6/7/2013 – http://www.vietcatholic.net/News/Html/113268.htm

[66] Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng số 150.

[67] Mc 3,14.

[68] Mt 28,19-20.

[69] http://phanxico.vn/2016/02/20/duc-phanxico-den-tham-duc-benedicto-truoc-moi-chuyen-di/

[70] ĐTC Phanxicô giảng tại Morelia, Mễ tây Cơ – http://phanxico.vn/2016/02/17/khong-cam-chiu/

[71] X. Misericordiae Vultus số 13.

[72] Xem bài huấn dụ của ĐTC Phanxicô trong buổi tiếp kiến ngày 18/11/2015 – http://www.vietcatholic.org/News/Html/161985.htm

[73] X. Misericordiae Vultus, số 22.

[74] http://www.vietcatholic.org/News/Html/167156.htm

[75] Misericordiae Vultus số 17-http://www.la-croix.com/Religion/Actualite/Une-Annee-de-misericorde-pour-changer-de-vie-2015-04-12-1301559

[76] Misericordiae Vultus, số 17.

[77] ĐHY Mauro Piacenza, chánh án Toà Ân giải tối cao, nói trong lễ khai mạc Khóa học về Toà Trong ngày 24/3/2014 theo Vatican Insider.

[78] http://phanxico.vn/2015/11/12/xin-giang-ngan-bot-duc-giao-hoang-phanxico-nhan-nhu-cac-linh-muc/

[79] Trích bài giảng Lễ Kính Lòng Thương Xót ngày 3/4/2016 – http://phanxico.vn/2016/04/03/chung-ta-la-nhung-nguoi-viet-tiep-tin-mung-long-thuong-xot/

[80] 1 Cr 13,1.

[81] Bài đọc 2 Kinh Sách Thứ Bảy CN 27 TN.

[82] HĐGM Philippines đã khẳng định trong Thư mục vụ Năm Thánh Lòng Thương Xót – http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/15news/15news1476.htm

[83] Trích sách “Tên của Chúa là Thương xót” – http://phanxico.vn/2016/01/12/bay-cau-nen-nho-trong-quyen-sach-moi-cua-duc-giao-hoang/

[84] Mt 11,19.

[85] Lc 23,43.

[86] 2 Cr 5,19.

[87] Ga 11,52.

[88] Rm 7,24.

[89] 1Ga 1,8.

[90] Gc 5, 19-20.

[91] X. Rm 5,1-8.

[92] Trích bài giáo huấn của thánh Syrilo, GM Gierusalem, bài đọc 2 Kinh Sách thứ Bảy tuần XIII TN.

[93] http://www.hdgmvietnam.org/ngay-le-cua-on-tha-thu-chung-ta-hay-don-nhan-long-thuong-xot-va-hay-biet-xot-thuong/5915.57.7.aspx

[94] ĐTC nói trong buổi tiếp kiến chung ngày 26/3/2014.

[95] http://phanxico.vn/2016/01/02/quay-ve-voi-viec-xung-toi/

[96] http://phanxico.vn/2016/01/16/long-thuong-xot-de-cuu-giao-hoi/

[97] ĐTC trả lời tạp chí Credere http://www.vietcatholic.org/News/Html/167073.htm

[98] Trích huấn dụ tiếp kiến chung ngày 10/4/2013.

[99] Buổi triều yết ngày 20/11/2013 –http://vietcatholic.org/News/Html/119161.htm

[100] Ibid.

[101] Gc 5, 16.19-20.

[102] JP II, Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia, số 31.

[103] Khi nói chuyện với các chủng sinh và tập sinh –http://www.vietcatholic.net/News/Html/113268.htm.

[104] Cha Antonio Sparado, chủ bút tạp chí La Civiltà Cattolica hỏi “Jorge Mario Bergoglio là ai?”

[105] Misericordiae Vultus số 3.

[106] x. 1 Cr 6,11.

[107] Khi suy niệm Tin Mừng Ga 21,15-19.

[108] Xem bài giảng lễ ngày 17/5/2013 tại Nhà trọ thánh Matta.

[109] Trích sách “Tên của Chúa là Thương xót” – http://phanxico.vn/2016/01/12/bay-cau-nen-nho-trong-quyen-sach-moi-cua-duc-giao-hoang/

[110] http://phanxico.vn/2015/12/09/dung-ha-tien-long-thuong-xot-chua/

[111] http://www.vietcatholic.net/News/Html/122344.htm

[112] http://phanxico.vn/2016/01/16/ten-cua-chua-la-thuong-xot-mot-giao-hoi-di-ra/

[113] G. Trần Đức Anh OP, RadioVaticana 09.02.2016

[114] http://phanxico.vn/2016/02/14/an-nghia-phut-thinh-lang-cau-nguyen-lau-dai-cua-duc-phanxico-truoc-tuong-duc-me-guadalupe/

[115] Tội này theo Giáo luật số 1398 sẽ tức khắc bị vạ tuyệt thông tiền kết dành riêng cho Đức Thánh Cha hay thẳm quyền hợp pháp (các Giám Mục) quyền tháo gỡ.

 [116] Trích huấn dụ của ĐTC Phanxicô ngày 20/11/2015 dành cho các linh mục, chủng sinh và tu sinh tham dự hội nghị do Bộ giáo sĩ tổ chức tại Đại học Giáo Hoàng Urbaniana, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ban hành hai sắc lệnh của Công đồng Vatican 2 về đời sống linh mục (Presbyterorum ordinis) và việc đào tạo linh mục (Optatam totius).

[117] http://phanxico.vn/2016/01/13/long-thuong-xot-la-the-thong-hanh-cua-chua/

[118] http://phanxico.vn/2016/04/30/cha-giai-toi-khong-duoc-dat-chuong-ngai-tren-con-duong-cua-nhung-nguoi-mong-muon-hoa-giai-voi-thien-chua/

[119] Thực tế là ngày Thứ Tư Lễ Tro 10/2/2016 tại Đền Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô đã chọn sai 1.142 thừa sai của lòng thương xót đi sứ vụ trên khắp thế giới, mà 700 vị hiện diện.

[120] http://baoconggiao.com/vi/news/Giao-Hoi-Hoan-Vu/Hon-800-don-xin-lam-thua-sai-long-Thuong-Xot-7544/

[121] Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Tân Phúc Âm Hóa và cũng là điều phối viên Năm Thánh.

[122] http://vietcatholic.org/News/Html/180597.htm

[123] Trích bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô trong buổi yết kiến chung ngày 20/11/2013.

[124] http://hdgmvietnam.org/duc-thanh-cha-phanxico-gap-be-tren-tong-quyen-huynh-doan-pio-x/7814.57.7.aspx

[125] http://vietcatholic.org/News/Html/182476.htm

[126]* Câu chuyện “xong ván này”

[127] Trong cuộc tiếp kiến ngày 11/3/2010 – Vatican City, Mar 11, 2010 CNA/EWTN News.

[128] http://phanxico.vn/2016/01/16/ten-cua-chua-la-thuong-xot-mot-giao-hoi-di-ra/

[129] Trích bài giảng của DTC Phanxicô ngày 17/9/2013 – http://www.vietcatholic.net/News/Html/116026.htm

[130] Trích sách Tên của Chúa là Lòng Thương Xót, bài số 2.

[131] http://www.hdgmvietnam.org/co-the-lanh-nhan-bi-tich-hoa-giai-qua-dien-thoai-khong/ 2613.57.7.aspx

[132] ĐTC phát biểu trong buổi tiếp kiến sáng ngày 25/3/2011 dành cho 800 tham dự viên khóa học về bí tích giải tội do Tòa Ân Giải Tối Cao tổ chức từ 21/3-11/4/2011.

[133] ĐTC nói trong buổi tiếp kiến sáng ngày 9/3/2012 với 1.300 linh mục và phó tế tham dự khóa học hằng năm về Tòa Trong do Tòa Ân giải Tối cao tổ chức – VIS, 09-03-2012.

[134] ĐHY Mauro Piacenza, chánh án Toà Ân giải tối cao, nói trong lễ khai mạc Khóa học về Toà Trong ngày 24/3/2014 theo Vatican Insider.

[135] http://phanxico.vn/2016/03/05/hay-la-nhung-duong-truyen-long-thuong-xot/

[136] http://phanxico.vn/2016/02/07/dau-la-cac-moi-day-noi-duc-phanxico-voi-cha-thanh-pio/

[137] Trích bài giảng bế mạc Năm Đức Tin ngày 24/11/2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

[138] X. Kim Chỉ Nam 2013, số 93.

[139] Chính việc không có được sự hỗ trợ mục vụ mà chức thánh mang lại khiến họ gặp phải nguy hiểm.

[140] Bộ Giáo Sĩ, Kim Chỉ Nam về tác vụ và đời sống linh mục, số 93.

[141] Chỉ dẫn mới đề cao căn tính linh mục giáo xứ, số 11.

[142] X. Sắc Lệnh Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục , số 14.

[143] Trích bài giảng lễ Chúa Kitô Vua, kết thúc Năm Đức Tin, của ĐTC Phanxicô http://www.vietcatholic.net/News/Html/119233.htm.

[144] Trích bài giảng Lễ Dầu ngày 28/3/2013.

[145] x. Phaolô VI, Tông hiến Giáo lý về lòng khoan dung số 5.

[146] Trích Sứ điệp Ngày Ơn Gọi lần thứ 53 của ĐTC Phanxicô.

[147] Bản dịch tiếng Việt chính thức sẽ được VP/HĐGMVN phát hành giữa tháng 6/2016.

[148] Phát biểu tại THĐGMTG về Gia Đình của Bà Thérèse Nyarabukeye, huấn luyện viên thuộc Liên hiệp Phi châu về thăng tiến gia đình ở Ruanda.

[149] Bà Clara, Tổng thư ký điều hành Ủy ban GM Mêhicô về gia đình, Thư ký của Liên HĐGM Mỹ châu la tinh CELAM nói tại THĐGMTG với tư cách dự thính viên- http://www.vietcatholic.org/News/Html/145705.htm

[150] Phát biểu của ông bà Nkosi, tư vấn Văn phòng toàn quốc về gia đình thuộc HĐGM miền Nam Phi. – http://www.vietcatholic.org/News/Html/145705.htm

[151] Quan điểm của ĐHY Dolan- http://vietcatholic.org/News/Html/182416.htm

[152] http://hdgmvietnam.org/tong-hop-cac-y-kien-duoc-cong-bo-cua-cac-nhom-nho-ve-phan-thu-ba-cua-thuong-hoi-dong/7384.57.7.aspx

[153] HĐGMVN, Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 “cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống”, 2011.

[154] Trích Thư Mục Vụ 2015 của HĐGMVN, số 6.

[155] Xem diễn từ buổi tiếp kiến ngày 20/11/2013 của ĐTC do Linh Tiến Khải, RadioVaticana 20.11.2013.

[156] http://phanxico.vn/2016/04/22/duc-phanxico-xin-nguoi-ti-nan-thu-loi/

[157] X. Sứ điệp Di Dân 2016 của ĐTC Phanxicô ban hành ngày 12/9/2015.

[158] http://www.hdgmvietnam.org/ngay-the-gioi-di-dan-va-ti-nan-2016/7339.32.21.aspx

[159] http://hdgmvietnam.org/duc-thanh-cha-phanxico-voi-nguoi-ti-nan-o-lesbos-“toi-muon-noi-voi-anh-chi-em-rang-anh-chi-em-khong-co-don”/7836.57.7.aspx

[160] http://phanxico.vn/2016/04/22/martin-schulz-cap-lanh-dao-cao-nhat-cong-giao-cho-mot-bai-hoc-dut-khoat/

[161] Mc 16, 15-16.

[162] 1 Cr 13,1.

[163] x. Mt 25,35-36.40.

[164] x. Mt 14,14-18.

[165] x. trường hợp thánh Phaolô ở Cv 20,31.

[166] Ds 11, 10-15.

[167] Ds 20, 2-8.

[168] x. Lc 12, 59.

[169] http://phanxico.vn/2016/04/02/linh-hon-truong-thanh-hay-con-duong-cai-chet/

[170] Thánh Thi Kinh Sáng Thánh Mục Tử.

Tags:

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Ba 2024
H B T N S B C
« Th2    
  1 2 3
4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17
18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30 31