NHƯ MỘT KỶ NIỆM 2014

Written by lcd on Tháng Mười Một 23rd, 2014. Posted in Hội Linh Mục Xuân Bích - St Sulpice, Đại Chủng Viện Huế

 Đặc san Như Một Kỷ Niệm lại tiếp tục góp mặt dịp mừng Lễ Mẹ Dâng Mình, ngày Truyền thống Xuân Bích, cũng là ngày đại lễ của Đại chủng viện Huế năm 2014. Nét mừng đặc biệt của năm nay, đó là mừng kỷ niệm 20 năm Chủng viện này tái hoạt động (1994-2014), một chặng đường đầy ắp hồng ân, với 14 khóa nối tiếp nhau, trong đó 7 khóa đã ra trường và đang dấn thân trong sứ vụ. Chặng đường 20 năm cũng đánh dấu những thay da đổi thịt dần dần của mái trường này, mà mới nhất là khối nhà đang được xây dựng và sắp hoàn tất. Nhân đây, gia đình chủng viện xin chân thành tri ân tấm lòng quảng đại của các ân nhân gần xa.

NhưMột Kỷ Niệm 2014, cũng theo thông lệ, bao gồm các bài viết của các thành viên Xuân Bích, các sinh viên, cựu sinh viên Xuân Bích, và thân hữu đó đây. Năm nay, đặc san dành hai bài chủ lực để nói về linh đạo độc thân theo Thánh Kinh và về giáo dục nhân bản, lần lượt của hai Cha: Ronald D. Witherup, Bề trên Tổng quyền Hội Linh mục Xuân Bích, và Bernard Phạm Hữu Quang, linh mục Xuân Bích tỉnh Canada và thành viên trong Ban đào tạo ĐCV Huế.

Hai cái tang lớn liên tiếp trong mùa hè qua của gia đình ĐCV Huế – Cha cố Antôn Trần Minh Hiển và Cha cố Albertô Trần Phúc Nhân – tiếp tục vang âm trong những trang đặc san này, qua tâm tình của các học trò thuộc các thế hệ khác nhau.

Ban biên tập chân thành cám ơn tất cả các cộng tác viên về mọi đóng góp bài vở, dù một số bài không xuất hiện ở đây – một phần do số trang có hạn. Xin Mẹ Dâng Mình chúc lành cho tất cả các cộng tác viên và các bạn đọc.

BBT/NMKN/2014

NHỮNGSỰ KIỆN NĂM QUA – (kể từ Giỗ Tổ Xuân Bích 2013)

 

  NIÊN KHÓA 2013-2014

[ …………………….. ]

– 20/11/2013: Cha Ph.X. Ngô Phục đến thăm ĐCV và chia sẻ kinh nghiệm truyền giáo.

– 01/01/2014: ĐCV hành hương Đức Mẹ La Vang, thăm Giáo xứ Nhất Đông và Nhất Tây.

– 07/01: Đức cha An phong Nguyễn Hữu Long, Giám mục Phụ tá Giáo phận Hưng Hoá, gặp mặt và giới thiệu đôi nét về Giáo phận Hưng Hoá với quý thầy.

– 14/01: Cha Bernard Phạm Hữu Quang, PSS., nói chuyện về nét tương đồng và dị biệt trong lối ứng xử giữa người Nhật và người Việt.

– 01/3: Tiến sĩ triết học Jérôme de Gramont chủ trì hội thảo với đề tài L’Absolu Retrouvé.

– 04/3: Đức Tổng giám mục Phanxicô Xaviê huấn đức về phương thức sống Mùa Chay.

 – 12/3: Đan viện phụ Đôminicô Phạm Văn Hiền nói chuyện về đề tài Agape.

-15/3 – 10/4: Lớp Tu Đức vào Tháng Sa Mạc tại Đan viện Thiên An.

– 02/4: Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh huấn đức về chân dung Thầy Giêsu qua Tin Mừng.

– 08/4: Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri huấn đức về đời sống nhân bản thể hiện qua các mối tương quan.

– 01/5: ĐCV viếng Đền Thánh Tử Đạo Tôma Thiện, thuộc Giáo xứ Trí Bưu, tắm biển Cửa Việt, thăm Giáo xứ Đông Hà và Trí Bưu.

– 29/5: Thánh lễ trao ban tác vụ Giúp Lễ cho quý thầy khoá VIII và Đọc Sách cho quý thầy khoá IX.

– 06 – 13/6: Ban đào tạo ĐCV tham gia tuần tĩnh tâm thường niên của các linh mục Xuân Bích Việt Nam tại Vũng Tàu.

– 14/6: Cha Alberto Trần Phúc Nhân, giáo sư Kinh Thánh, qua đời tại Chí Hòa, Sài Gòn.

– 18/6: Cha Antôn Trần Minh Hiển, PSS., nguyên Giám đốc ĐCV, qua đời tại Chu Hải, Bà Rịa.

 NIÊN KHÓA 2014-2015

– 03/9: ĐCV hân hoan chào đón quý thầy về tựu trường, tổng số đại chủng sinh 153 (chưa kể lớp thực tập mục vụ). Năm nay Ban đào tạo được tăng cường với Cha Ph. X. Trần Anh Duy, PSS., vừa hoàn thành việc học ở Pháp và trở về kịp đầu năm học mới.

– 05 – 09/9: ĐCV tổ chức chương trình ngoại khóa đầu năm, chủ đề “Phương pháp học”.

– 06/9: ĐCV hân hoan dâng Thánh lễ tạ ơn một năm hồng ân giám mục của Đức cha An phong Nguyễn Hữu Long, nguyên Giám đốc ĐCV.

– 07/9: ĐCV hiệp với Đức cha Têphanô Nguyễn Như Thể, nguyên Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế, dâng Thánh lễ tạ ơn 39 năm hồng ân giám mục, cùng hiệp với Cha Giám đốc ĐCV Giuse Hồ Thứ tạ ơn 14 năm linh mục. ĐCV đón đoàn múa lân Giáo xứ Kim Long mừng Trung Thu.

 – 11/9: Thánh lễ khai giảng năm học mới do Đức Tổng giám mục Phanxicô Xaviê chủ tế.

 – 15/9: Cha Nguyễn Khắc Hy, PSS., đến thăm ĐCV và chia sẻ kinh nghiệm đào tạo chủng sinh tại Hoa Kỳ với quý thầy.

 – 21/9: ĐCV dâng Thánh lễ tạ ơn 50 năm khấn dòng với Sr. Huệ, SPC., từng phục vụ tại ĐCV.

– 25/9: ĐCV tổ chức lễ giỗ 100 ngày cầu nguyện cho Cha cựu Giám đốc Antôn Trần Minh Hiển, PSS., và Cha giáo Albertô Trần Phúc Nhân. Thánh lễ do Đức Tổng giám mục Phanxicô Xaviê chủ tế, với sự hiện diện của quý Cha cựu sinh viên, quý đại diện các Hội Dòng trong giáo phận.

 – 06/10: Khai mạc Cúp Bóng Đá Xuân Bích với trận mở màn giữa lớp Thần I và lớp Tu Đức.

-17/10: Cha Giuse Vũ Thanh Tuấn (Thái Bình) nói chuyện với các thầy về Giáo hội Hàn Quốc.

– 28/10 – 01/11: Chủng sinh đoàn tĩnh tâm thường niên, chủ đề “Giáo hội của người nghèo”, dưới sự hướng dẫn của Cha Phêrô Trương Văn Phúc, SJ.

  

MỘT LINH ĐẠO ĐỘC THÂN THEO THÁNH KINH

 Độc thân linh mục vẫn còn là một trong những chủ đề nóng và gây tranh cãi nhất về chức linh mục Công giáo Rôma. Trong những thập niên gần đây, độc thân linh mục đã bị gièm pha (một cách sai trái, tôi nghĩ) do cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục, và thường xuyên bị bôi nhọ như là trái tự nhiên và có vẻ không nhân bản, mặc dầu sự thật là không có chứng cớ khoa học nào nối kết chính sự độc thân với những lệch lạc về tình dục. Một số người, thậm chí một số giám mục, đã kêu gọi một cuộc thẩm xét công khai về việc thực hành độc thân có tính bắt buộc, điều mà Đức Gioan Phaolô II và vị kế nhiệm ngài, Đức Bênêđictô XVI, đã phản đối quyết liệt.

 Bối cảnh trên phải được thừa nhận, nhưng ở đây tôi không nhằm bảo vệ cũng không công kích việc thực hành hiện nay của Giáo hội Công giáo Rôma về độc thân. Đúng hơn, mục đích là cho thấy rằng, trong thực tế, có nền tảng Thánh Kinh vững chắc về sự độc thân vốn có thể giúp soi sáng và hữu ích, ngay cả trong bối cảnh những cuộc bàn luận sôi nổi hiện nay về đề tài. Mặc dầu từ một quan điểm Thánh Kinh, độc thân không gắn chặt với chức linh mục, tuy nhiên các linh mục độc thân có thể sống một đời sống chân thật và phong phú về mặt thiêng liêng nhờ hiểu biết tốt hơn ân ban có tính biệt loại mà họ đã lãnh nhận trong bậc độc thân […]

 Những lưu ý

Chúng tôi, những linh mục Xuân Bích, làm việc trong lãnh vực huấn luyện khai tâm và thường huấn linh mục. Cách đây một vài năm, trong khi xem xét lại kế hoạch tuyển sinh của mình, chúng tôi bảo trợ một cuộc thăm dò ẩn danh ngắn gọn đối với các linh mục trên khắp các giáo phận ở Hoa Kỳ, để cung cấp cho chúng tôi những dữ liệu về các mối quan tâm của các linh mục. Sự hưởng ứng khá tốt. Một vấn đề nổi cộm, tất nhiên là độc thân. Đặc biệt, có một câu trả lời làm tôi chú ý. Vị linh mục này nói huỵch toẹt: “Độc thân là một trò đùa. Không ai có thể chịu được. Lý do duy nhất mà chúng tôi nhận sống độc thân là lý do kinh tế mà thôi.” Tôi cho rằng lời bình luận này hơi thô thiển và nông cạn. Trong khi có những câu hỏi thích đáng mà người ta có thể nêu lên về sự độc thân bắt buộc, thì chắc chắn có những lý do sâu xa hơn nhiều cho sự độc thân, thậm chí về mặt lịch sử, hơn chỉ là kinh tế. Do vậy, tôi muốn tìm một số nền tảng Thánh Kinh.

Đầu tiên, tôi đã tham khảo các loại từ điển Kinh Thánh khác nhau để tìm xem các từ điển nói gì về độc thân. Tôi bắt đầu với một trong những từ điển hàng đầu của thế kỷ 20, bộ từ điển đồ sộ nhiều tập Anchor Bible Dictionary. Nó chuẩn mực về chuyên môn và rất hữu ích. Tôi ngạc nhiên khi đọc thấy trong đề mục “độc thân” như sau: “Độc thân: Khấn nguyền tiết chế không kết hôn và không có những quan hệ tình dục – không được biết ở đâu khác ngoài sự ám chỉ trong Mt 19,12”. Một mục từ đáng chú ý! Ngay cả đối với cách tiếp cận truyền thống của Tin Lành về chủ đề độc thân, kể từ thời Martin Luther và các nhà Cải Cách thế kỷ 16, thì cái nhìn này cũng quá chật hẹp […]

Về việc tìm kiếm linh đạo độc thân theo Thánh Kinh, tôi cho rằng nên lưu ý năm điểm quan trọng ngay từ đầu.  

Thứ nhất, một cách tiếp cận Công giáo đối với Sách Thánh thì không hoàn toàn phù hợp với cách tiếp cận của hầu hết truyền thống Tin Lành, và nhất là không phù hợp với cách tiếp cận của những người chủ trương bám sát nghĩa đen. Dù Kinh Thánh không có một từ nào nói đến độc thân, thì điều đó không có nghĩa rằng chúng ta sẽ nghĩ việc Giáo hội thiết định nó là không hợp lẽ. Như Công đồng Vatican II khẳng định: Người Công giáo thừa nhận cả Thánh Kinh và Truyền Thống như là một nguồn liên tục của mạc khải thánh. Thánh Kinh và Truyền Thống không đơn thuần là hai thực thể tách biệt nhưng là những thực tại tương quan với nhau trong một mối tương quan phức tạp trong đó cái này giải thích và ảnh hưởng lên cái kia. Không phải mọi thứ người Công giáo tin đều phải được tìm thấy rõ rệt trong Kinh Thánh, mặc dù tôi thừa nhận rằng chúng ta đã có góp phần vào chuyện chú giải ngoài văn mạch Thánh Kinh qua dòng lịch sử.

Thứ hai, không phải mọi đoạn văn trong Kinh Thánh đều tự nó rõ ràng. Một số đoạn văn rất mù mờ và khó chú giải. Ngay cả các chuyên gia cũng có thể rối bời. Do đó chúng ta không nên trông mong trong mọi trường hợp đều có một chú giải rõ ràng về điều mà bất cứ bản văn cụ thể nào đó thực sự muốn nói với chúng ta.

Thứ ba, việc làm sáng tỏ từ vựng sẽ hữu ích. Đôi khi người ta nhầm lẫn khiết tịnh với những ý niệm khác. Độc thân không phải là khiết tịnh, không phải là trinh khiết và cũng không đơn thuần là tiết dục. Một lần kia, tôi đọc một bài báo trong một tạp chí, trong đó một linh mục theo nghi lễ Đông phương tranh luận mạnh mẽ rằng tất cả các Kitô hữu đã lãnh Phép Rửa đều được gọi sống độc thân. Ông ta đã phạm một lỗi căn bản mà nhiều người đã phạm trước đó; ông đã nhầm lẫn giữa độc thân và khiết tịnh. Tất cả mọi người đều được gọi sống khiết tịnh, gồm cả các đôi hôn nhân. Nhưng không phải tất cả được mời gọi sống độc thân. Ở đây chúng ta sẽ gọi độc thân là sự tự ý từ khước một quan hệ hôn nhân và sự diễn tả sinh dục giới tính của mình, vì những lý do vị tha.

Thứ tư, nếu với từ “độc thân” chúng ta có ý muốn nói tới sự độc thân có tính bắt buộc, ràng buộc với chức linh mục Công giáo Rôma (trong truyền thống Tây phương, dĩ nhiên, vì các linh mục theo nghi lễ Đông phương thì được phép kết hôn và có con cái), thì chúng ta phải thừa nhận ngay rằng Kinh Thánh thực sự im lặng về vấn đề này. Trước hết, chức linh mục duy nhất được đề cập trong Tân Ước là chức linh mục của Đức Giêsu, trong Thư gửi tín hữu Do thái. Chắc chắn ở đây không đề cập đến độc thân, và độc thân không ràng buộc đối với chức linh mục. Nhưng tôi muốn nêu rằng độc thân, nhìn từ nhãn giới Thánh Kinh, thực sự là một ý niệm rộng lớn hơn ý niệm vốn được đồng hóa với thực hành hiện nay của Giáo hội về độc thân linh mục. Thật vậy, thực hành này của Giáo hội có những nguồn gốc cổ xưa và đã tiến hóa trong lịch sử vì những lý do phức tạp không liên hệ gì đến nhãn giới Thánh Kinh, nhưng đây cũng lại là một chủ đề khác không nằm trong cuộc thảo luận của chúng ta.

Cuối cùng, như nhiều người đã từng khẳng định, ngay cả dù Giáo hội quyết định thay đổi cách thực hành hiện nay về độc thân bắt buộc đối với linh mục giáo phận, thì thực hành này sẽ vẫn còn như một phần thiết yếu của đời tu. Độc thân là một phần làm nên đời tu. Nó tương hợp với một nhãn giới chung và với thực hành khổ hạnh vốn thuộc về sự cam kết sống đời tu, dù đó là các nữ tu, các thầy dòng, hay các linh mục […]

 Những yếu tố căn bản cho một linh đạo độc thân theo Thánh Kinh  

Tôi cho rằng có năm lãnh vực quan trọng để triển khai một linh đạo độc thân. Nhưng trước hết, tôi muốn đề cập bốn bài học từ dữ liệu Thánh Kinh, như sau:

(1) Thật quan trọng việc ghi nhận rằng Đức Giêsu – Đấng là nguồn cội căn tính Kitô hữu của chúng ta – là một người độc thân. Không có chứng cứ Thánh Kinh nào nói rằng Đức Giêsu đã từng kết hôn. Trái lại, cuộc sống Ngài được thấy là hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa. Trung thành tuyệt đối với Thiên Chúa là điều trên hết, và từ bỏ tất cả những cánh cửa nhân loại để hoàn toàn thuộc về Cha trên trời là điều thiết yếu nhất. Hơn nữa, Phaolô, Tông đồ kiệt xuất của Ngài (chưa từng gặp gỡ Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, mà chỉ gặp Chúa Phục sinh) cũng là người độc thân. Độc thân có bảo chứng Thánh Kinh vững chắc nơi Đức Giêsu và Thánh Phaolô. Người ta khó có thể bỏ qua sự kiện rằng hai tượng đài này phủ bóng buổi ban đầu Kitô giáo.

(2) Trong khi Thánh Kinh không nối kết rõ ràng độc thân với chức linh mục, thì nhãn giới Thánh Kinh cho thấy rằng độc thân phù hợp cách hoàn hảo với chức linh mục. Quả thật, Thánh Kinh cho thấy rằng độc thân rất phù hợp với một số cá nhân, tại một số thời điểm và trong một số hoàn cảnh, chính vì độc thân giúp thi hành sứ mạng cụ thể mà Thiên Chúa mời gọi người ta. Chức linh mục Công giáo Rôma, như đã tiến triển qua dòng thời gian, là một trong những thực tại đặc biệt đó. Cách riêng, đối với các linh mục dòng, độc thân là yếu tố thiết yếu để tự nguyện ràng buộc chính mình với một cộng đoàn nhằm làm chứng cho một sứ vụ ngôn sứ là dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.

(3) Các dữ liệu Thánh Kinh cho thấy rằng độc thân có tính đối lập văn hóa và rất hạn chế. Độc thân không bao giờ dành cho hết mọi người. Nó là một ân ban độc đáo đến từ Thiên Chúa, đòi hỏi sự tự do đón nhận. Nếu độc thân trái ngược với một nền văn hóa nào đó (rõ ràng không loại trừ nền văn hóa của chúng ta), thì đó là một phần thuộc bản chất của nó. Độc thân mời gọi người ta tìm kiếm một mục đích sâu xa hơn ở một nơi khác. Độc thân mời gọi người ta nhìn quá! Điều quan trọng, đó là độc thân cũng không đưa ra sự bảo đảm nào. Độc thân tạo điều kiện cho người ta gần gũi với Thiên Chúa, toàn tâm toàn trí hiến thân cho Nước Thiên Chúa, trở nên thực sự một alter Christus bằng một cách thức đặc biệt, nhưng độc thân không tất yếu bảo đảm những điều ấy. Thật vậy, tình hình hiện nay của chúng ta cho thấy những người độc thân thực tế còn xa lý tưởng ấy biết bao. Hơn nữa, nếu những người độc thân được kỳ vọng hướng chỉ cho người khác thấy được thực tại sâu hơn này là chính triều đại Thiên Chúa, thì chính họ phải kinh nghiệm điều ấy trước, và đây là một thách thức thực sự cho lối sống này.

(4) Cuối cùng, tôi muốn lưu ý rằng độc thân không phải là ân ban để có thể thực hành được với một mình nó. Độc thân phải được liên kết với một số giá trị khác vốn trên thực tế được ràng buộc cách rõ ràng với đời tu trong các lời khuyên Tin Mừng. Tôi muốn nói đến những giá trị như cầu nguyện, sống thân mật với Thiên Chúa và với Đức Kitô, vâng phục các giá trị siêu việt và các quyền bính cao hơn, giản dị trong đời sống (khó nghèo). Độc thân không thể đứng vững tự nó. Giống như bất kỳ khu vườn xinh đẹp nào, nó cần phải được tưới tắm và bón phân để đem lại hoa trái.

Vậy điều gì tạo nên cơ sở Thánh Kinh của sự độc thân trong thời đại chúng ta? Tôi nêu ra năm khía cạnh của nhãn giới Thánh Kinh mà chúng ta cần tham chiếu: thần học, Kitô học,Thần Khí học, cánh chung học và Giáo hội học. Ba khía cạnh đầu được tạo thành nhóm, theo thứ tự của nó, vì chúng làm nên một lối tiếp cận Ba Ngôi vốn là nền tảng của đời sống Kitô hữu, đặc biệt là đời tu và chức linh mục. Thiên Chúa Ba Ngôi là mẫu thức chính yếu của tương quan. Ba Ngôi vị Thiên Chúa thiết yếu là một “gia đình”, yếu tính của sự tự hiến trong tình yêu và tình bạn mà mọi người được mời gọi sống, nhưng cách riêng, đó là đặc điểm của đời sống độc thân.

(1) Nền tảng thần học của độc thân được định vị trong sự dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho Nước hay Triều Đại của Thiên Chúa. Những người độc thân phải đặt Thiên Chúa làm Đấng tuyệt đối của đời mình.

(2) Nền tảng Kitô học của độc thân cắm rễ trong chính con người của Đức Giêsu Kitô. Ngài không chỉ là kiểu mẫu đệ nhất của độc thân qua chứng tá đời sống, sứ vụ công khai và cái chết của Ngài, mà Ngài còn là Đấng mà những người sống độc thân cố gắng cho phép Ngài nhập thân nơi chính mình. Trở thành một alter Christus, một Đức Kitô khác, đó là trọng tâm của đời sống độc thân. Trong lời nói và hành động, chúng ta được mời gọi bắt chước Đức Kitô, một cách trọn vẹn chứ không lưng chừng. Điều này có nghĩa là kết bạn với Đức Kitô, trở nên thân mật với Ngài trong cầu nguyện, trong các bí tích và trong Lời Chúa. Thật vậy, sức mạnh có tính Kitô học này có sức biến đổi đến nỗi chúng ta có thể thốt lên với Thánh Phaolô rằng “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và đã hiến mạng vì tôi” (Gl 2,19-20).

(3) Nền tảng Thần Khí học cắm rễ trong Chúa Thánh Thần. Theo Phaolô, độc thân là một ân ban của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng hỗ trợ, là nguồn năng lực giúp chúng ta sống độc thân. Độc thân có nghĩa là trở nên “mềm mại trong Chúa Thánh Thần”, có thể uốn nắn, thích nghi và được biến đổi nhờ sinh khí của Thiên Chúa. Không thể sống độc thân nếu tách rời khỏi Chúa Thánh Thần.

(4) Nền tảng Cánh chung học đưa chúng ta trở lại chiều kích ngôn sứ của độc thân, chiều kích vốn gắn liền với đời tu. Độc thân trước hết có vai trò một biểu tượng. Độc thân có tính trung chuyển và kêu mời chúng ta sống “ở ngưỡng”. Độc thân có tính đối lập văn hóa sâu sắc và được nhiều người xem là lạc điệu, trong khi trên thực tế, độc thân nhằm mời gọi chúng ta vươn tới ý thức siêu việt hơn rằng đời sống còn hàm chứa nhiều hơn những gì mà chúng ta cảm nghiệm ở đây và bây giờ. Các ngôn sứ có một thái độ đối lập văn hóa nhằm khơi lên cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa còn lớn hơn nhiều so với thành công, quyền lực, tiền bạc, địa vị… được đo lường theo tiêu chuẩn của thế gian. Độc thân chỉ có thể triển nở nếu nó được nhìn với con mắt hướng tới tương lai, tương lai tối hậu trong đó Thiên Chúa chiến thắng chung cuộc trên sự dữ, tội lỗi và sự chết.

(5) Cuối cùng, có một chiều kích Giáo hội học về độc thân cũng cắm rễ trong Thánh Kinh. Độc thân là một thể chế của Hội Thánh. Từ một góc nhìn, có thể nói rằng trên thực tế những người độc thân là những bạn đời của Hội Thánh. Thánh Kinh ghi nhận rằng hôn nhân là một loại suy mô tả tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh (Ep 5), và giờ đây Hội Thánh áp dụng điều này trong liên hệ với sự độc thân linh mục. Ý tưởng này đặc biệt nổi bật trong tác phẩm của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, tôi phải nêu rõ rằng không có chỗ nào trong Thánh Kinh nói về điều này, nhất là trong liên hệ với chức linh mục. Đúng hơn, độc thân được hiểu như một loại suy, một biểu tượng. Như thế, nó tiện ích, nhưng cũng có những giới hạn. Cũng như đối với nhiều sự loại suy, nếu người ta đẩy nó tới chỗ thái quá hoặc giải thích nó quá sát nghĩa, thì nó có thể chẳng còn là gì ngay chính trước mắt chúng ta. Quan trọng hơn, phải nhớ rằng những người độc thân liên hệ với Hội Thánh, với Dân Thiên Chúa, trong ý nghĩa phục vụ. Có một khía cạnh giải phóng trong sự hiến thân hoàn toàn cho sứ vụ. Những người độc thân chọn việc sống cho người khác và phục vụ người khác làm mối ưu tiên trong đời sống của mình. Bằng cách này, họ “kết hôn” với Hội Thánh, với Dân Thiên Chúa. Đây là một kết quả thực tiễn của một sự dấn thân có tính hướng thần nhiều hơn. Nhưng chúng ta không bao giờ được phép suy diễn rằng độc thân là lối sống cao trọng hơn. Không phải vậy, Thánh Kinh cũng không có chỗ nào khẳng định như vậy. Đúng hơn, độc thân là một tiếng gọi độc đáo cho những ai có thể chấp nhận nó.

Vậy những điều này đưa dẫn tới đâu? Tôi đã không có ý đề cập đến sự kiên định của Giáo hội Tây phương rằng các linh mục của mình phải là những người độc thân. Đó là một vấn đề khác. Đúng hơn, tôi muốn xác nhận rằng quả thực có một nền tảng Thánh Kinh cho sự độc thân, sự độc thân được tự do chọn lựa như là một ân ban mà Thiên Chúa trao cho một số người được tuyển chọn, những người này chấp nhận lời mời gọi huyền nhiệm từ Thiên Chúa để đi theo một nẻo đường khác thường nhằm phục vụ Nước Thiên Chúa.

Cũng như lối sống của Gioan Tẩy Giả (là một trong những trường hợp độc thân trong Tân Ước) và của chính Chúa Giêsu là một ngoại lệ đối với tiêu chuẩn của thời đó, thì độc thân cũng sẽ luôn là trường hợp ngoại lệ ở bất cứ thời đại nào. Nhưng đời sống độc thân có một hiệu lực thường hằng. Đó là một chứng tá cho một sự chọn lựa Nước Thiên Chúa ưu tiên trên mọi giá trị khác. Chắc chắn đó không phải là một ân ban dễ dàng được chấp nhận. Và đó càng không phải là lối sống dễ dàng để sống. Tuy nhiên nhiều người – cả nam lẫn nữ – đã sống lối sống này qua các thế kỷ, hoặc trong các cộng đoàn tu trì hoặc như một cam kết cá nhân. Với những nền tảng thiêng liêng riêng biệt của mình, độc thân trở thành một dấu hiệu hùng hồn trong thế giới rằng Thiên Chúa có thể bước vào thế giới của con người bằng những cách rất kỳ diệu. Thiên Chúa có thể dùng những công cụ nhân loại nào đó – là những người tự do chấp nhận lời mời gọi dấn thân cho Nước Trời – cho sứ vụ có tính sáng tạo. Các linh mục tham gia vào sứ vụ độc đáo này và được nâng đỡ trong sứ vụ ấy nhờ mối tương quan mật thiết với Đức Kitô, vị Thượng tế.

Hình ảnh “những hoạn nhân vì Nước Trời” có nghĩa gì?

Dường như một trong các hình ảnh kỳ dị nhất trong các Sách Tin Mừng là việc Đức Giêsu qui chiếu rõ ràng đến sự độc thân thông qua khái niệm “những hoạn nhân chọn như thế vì Nước Trời” (Mt 19,12). Trong đời linh mục của mình, tôi chưa từng nghe một vị linh mục hay giám mục nào vì những lý do rõ ràng đã công bố với cộng đoàn rằng ngài là một hoạn nhân. Hoạn nhân là người đàn ông bị hoạn. Trong mắt hầu hết người ta, những con người này thật tội nghiệp. Họ không thực sự là đàn ông, họ không toàn vẹn, họ bất lực, họ như đàn bà, và rốt cục họ bị tẩy chay. Vậy thì tại sao Đức Giêsu lại dùng hình ảnh này? Có thật Ngài đã dùng hình ảnh này không? Và ý niệm về hoạn nhân có liên hệ gì đến sự độc thân? Phải chăng hình ảnh này có thể nói lên điều gì đó về chức linh mục ngày nay, trong khi được gỡ khỏi bối cảnh lịch sử của nó hàng bao thế kỷ? […]

 Hoạn nhân và chức linh mục

Không hề có mối liên hệ rõ ràng nào giữa hoạn nhân và chức linh mục – đây chính là điểm rõ ràng nhất để ta bắt đầu. Thực ra, Cựu Ước loại trừ mọi hoạn nhân ra khỏi hàng tư tế, bởi vì – theo như định nghĩa – họ là những người bị tổn hại về mặt thể lý, do đó họ không tinh tuyền cho việc phụng tự. Thực tế vẫn có một số tôn giáo dân ngoại dường như cho phép hoạn nhân được nằm trong hàng tư tế của mình, tuy nhiên các lý do cho việc này lại không rõ ràng, và chức năng của họ vẫn còn mơ hồ, trừ khi đó có lẽ là vì những lý do khổ hạnh.

Quan trọng hơn, hình ảnh hoạn nhân Đức Giêsu nói đến trong Tin Mừng Matthêu nhằm chỉ tất cả môn đệ, bất kể là nam giới hay nữ giới. Độc thân là một thực hành khổ hạnh cực độ và tự bản chất nó không liên quan gì đến chức linh mục. Mãi đến sau này truyền thống Giáo hội Công giáo Rôma mới buộc các linh mục phải giữ độc thân.

Một khía cạnh của thần học về một chức linh mục độc thân được phát triển trong những năm gần đây theo một hướng đặc thù, đặc biệt trong triều đại Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đó là ý niệm về người linh mục đóng vai trò như “những người bạn đời” của Giáo hội thay vì có những người bạn đời theo nghĩa đen. Ngày nay, điều đó đã trở thành một lối ẩn dụ rõ ràng, tuy nhiên ta nên nhớ rằng nó không được chứa đựng hiển nhiên trong lời Đức Giêsu kêu gọi trở nên hoạn nhân vì Nước Trời.

Vậy, trong khi Đức Giêsu nói về “hoạn nhân vì Nước Trời” thì làm sao Giáo hội có thể liên kết cách rõ ràng hình ảnh này với một chức linh mục độc thân? Tôi tin rằng câu trả lời cho dấu hỏi trên nằm ở năm sự thật riêng rẽ sau đây.

Thứ nhất, dựa vào sự kiện rằng hầu hết các học giả đều chấp nhận lời nói về “hoạn nhân” của Đức Giêsu trong Tin Mừng Matthêu đích thực là một ‘logion’ (lờicủa Đức Giêsu), có thể lý do của việc Đức Giêsu gợi ra hình ảnh này, đó là vì nó quá kỳ dị, quá triệt để và quá bất ngờ. Hình ảnh này là một sự nhìn nhận tinh tế rằng Ngài được xem như một kẻ tầm thường.Tình trạng là một người đàn ông Do thái độc thân vốn đã cho thấy Ngài không bình thường. Sự độc thân, tuy không phải là chưa được biết đến ở người Do thái (ví dụ như ngôn sứ Giêrêmia), song vẫn là cái gì rất hiếm. Tình trạng không kết hôn của Đức Giêsu ít nhất cũng khiến Ngài bị xem là lập dị. Điều này hợp với những hình ảnh biếm họa của Đức Giêsu giữa những người đương thời, những hình ảnh vốn làm cho Ngài trông có vẻ bất kham và khó ưa. Ngài còn bị tố cáo là một “tay ăn nhậu” (x. Mt 11,19; Lc 7,34), nhất là trong đối chiếu với người bà con khắc khổ của Ngài, là Gioan Tẩy giả. Hơn nữa, cách mà Ngài chọn bạn và kết thân (những người thu thuế và các cô gái điếm!) làm cho Ngài càng dễ bị chế nhạo (x. Mt 9,11; 11,19; Lc 5,30; 7,34; 15,1). Nói tóm lại, việc nhận diện Ngài như một hoạn nhân tự nguyện giúp xác định rõ hơn tính biệt loại của Ngài  và do đó xác nhận tính độc đáo của Ngài là “Con Thiên Chúa” với sứ mạng khác hẳn với những kỳ vọng tôn giáo bình thường. Tình trạng hoạn nhân (= độc thân) đặc biệt của Ngài vì thế trở thành một phần thiết yếu trong căn tính của Ngài. Nó cũng làm cho giá trị chứng tá của tình trạng ấy càng thêm ý nghĩa. Các nhân vật biệt loại rõ ràng là khác thường. Trong bối cảnh các xã hội được tổ chức xung quanh quyền lực, những nhân vật khác thường sẽ nổi bật lên. Họ đôi lúc có thể đóng vai trò là tiếng nói tiên tri trong một sa mạc tâm linh (ám chỉ Gioan Tẩy giả).

Đối với Giáo hội, đã trở thành tiêu chuẩn việc áp dụng tình trạng ấy cho linh mục. Linh mục theo bản chất là những nhân vật loại biệt. Chúng ta ở ngoài “tiêu chuẩn” của xã hội. Chúng ta cũng là những người vượt qua ranh giới theo nghĩa rằng chúng ta phải có khả năng đồng hóa với cả người nữ lẫn người nam trong những thử thách hiện sinh mà họ phải đối mặt trong cuộc sống hằng ngày. Cũng như trong thời của Đức Giêsu việc chọn sống độc thân được xem như là rất ngoại lệ, một điều lạ lùng, thì trong xã hội Tây phương nặng ảnh hưởng tình dục ngày nay, sự độc thân chí ít cũng bị xem là ngoại lệ và có lẽ là không bình thường. Nhưng chúng ta phải cẩn thận với những điểm khác biệt này. Độc thân có thể được xem là “không tự nhiên” (theo nghĩa là không bình thường), nhưng không nên hiểu nó là “trái tự nhiên” (theo nghĩa là ngược với tự nhiên). Dù sao, sự chọn lựa này thực tế thường gây ra sự chế giễu hay khinh miệt, điều mà rõ ràng Đức Giêsu đã kinh nghiệm.

Phương diện thứ hai liên quan đến hình ảnh này là về giá trị khổ hạnh của nó. Trở nên như hoạn nhân, tự nguyện khước từ tình dục là một dạng “khó nghèo” hay “chay tịnh”, cho thấy đây là một lối sống khổ hạnh được tự do lựa chọn. Thực sự, một số học giả đã sử dụng những cách biểu đạt như trên để mô tả ý nghĩa sâu xa của độc thân. Xét như một thực hành khổ hạnh, nó đã trở nên một phần tất yếu của đời sống thánh hiến, trong đó nó được ghi nhận là một trong ba lời khấn (khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục).Quả thực, cách thực hành khổ hạnh như thế hoàn toàn phù hợp với cách sống mà chính Đức Giêsu đã chọn và phù hợp với giáo huấn của Ngài về việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước mọi thứ khác (Mt 6,33).

Thứ ba, hình ảnh hoạn nhân – về mặt lịch sử, như đã nêu trên – cũng có mối nối kết nội tại với những người đầy tớ trung tín. Hoạn nhân được tiếng là những đầy tớ trung thành của các chủ nhân hoàng gia. Sự kiện rằng một số trong họ cũng gian dối và tắc trách vẫn không che mờ cái ấn tượng chung về lòng trung thành nơi họ. Tình trạng đặc biệt này rõ ràng là rất phù hợp với những kỳ vọng dành cho các linh mục của Giáo hội. Chúng ta được mời gọi trở thành những người đầy tớ giỏi và trung thành. Chúng ta cũng được mời gọi kiên trì phục vụ Chúa, chỉ chú tâm thi hành thánh ý Chúa bằng cách trung thành phục vụ dân Người.

Thứ bốn, đối với Đức Giêsu cũng như đối với các linh mục ngày nay, sống độc thân – trở thành hoạn nhân vì Nước Trời – là một sự lựa chọn tự nguyện, không phải do bị ép buộc. Đây là khía cạnh thiết yếu của việc trở thành hoạn nhân, nó khác so với các hoạn nhân trong lịch sử – là những người hoặc sinh ra đã là như vậy, hoặc bị buộc phải hoạn vì những lý do khác. Sự chọn lựa tự do này mang theo với nó một số kỳ vọng. Nó không có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn sự tồn tại của giới tính hay trở thành người vô tính. Các hoạn nhân cũng có những cảm nghĩ và khát vọng tính dục. Nhưng đôi khi việc phó mặc cho các khuynh hướng này sẽ dẫn họ tới những điều vụng trộm trong cung điện, gây hại cho sự nghiệp của họ.

Tuy nhiên, các hoạn nhân tự nguyện tự do từ bỏ khía cạnh ấy nơi bản tính con người của mình để phục vụ cho một lý tưởng khác mà họ hết lòng cống hiến. Việc kiềm chế các khát vọng giới tính, các sự lôi cuốn, các xung lực thì không dễ dàng. Họ cần phải có kỷ luật rất cao. Điều này không có nghĩa rằng cám dỗ sẽ không bao giờ xảy đến với chúng ta. Nhưng việc nghe theo chúng để thỏa mãn nhu cầu tình dục không phải là sự chọn lựa của một hoạn nhân tự nguyện. Một khía cạnh khác nữa của vấn đề này là bằng cách nào ta có thể sống “khả năng sinh sản” của mình trong tư cách là người độc thân. Việc trở thành một con người sung mãn đích thực không đòi sự lấp đầy về tình dục theo nghĩa đen. Vì thế, việc trở nên một “người cha, người mẹ” không nhất thiết là phải sinh ra con cái theo nghĩa đen. Nhiều cha mẹ nuôi, trong đó có một số không có khả năng sinh con, là những cha mẹ gương mẫu, hoàn toàn hy sinh cho “con cái” của họ và qua đó thỏa mãn khát vọng làm cha làm mẹ của họ. Đối với hoạn nhân cũng vậy, việc sinh sản phải thông qua những cách thức khác. Đối với những ai dâng hiến hoàn toàn để phụng sự Chúa qua đời độc thân linh mục, điều này có nghĩa là đảm hận tiết dục và tận tâm thuộc về Thiên Chúa.

Cần phải lưu ý rằng không hề có bằng chứng nào nói rằng đương nhiên các hoạn nhân sống không hạnh phúc, lệch lạc, hay hoàn toàn dang dở vì điểm bất lợi về mặt thể lý của họ – bẩm sinh hay do tự nguyện. Trái lại, nhiều hoạn nhân trong thực tế đã có đời sống rất thành công và sung túc, nhận được phần thưởng xứng đáng từ các chủ nhân hoàng gia đáp lại sự phục vụ trung thành của họ. Cũng vậy, bất chấp một số quan niệm sai lầm thường thấy, ngày nay những người đàn ông độc thân cũng không kém phần thành công hơn hay ít hạnh phúc hơn so với những người đàn ông lập gia đình. Một phán đoán tiêu cực ngược lại điều nói trên thường dựa cách sai lầm vào giả thiết rằng khát vọng tình dục là ưu tiên trên bất cứ khuynh hướng nào khác của con người. Khi những người độc thân lần đầu đón nhận hồng ân ấy từ Thiên Chúa, có thể họ không nhận được tất cả các khía cạnh của đời sống này cùng một trật. Đời sống độc thân cũng cần sự triển nở. Người ta phải chiến đấu với nó, cầu nguyện cho nó và kiên trì trong nó. Nhưng nếu nó đích thực là một ân sủng từ Thiên Chúa thì căn tính của người ta cuối cùng cũng trở nên vững chắc trong lối sống này.

Thứ năm và cũng là điểm cuối cùng, giáo huấn hiện nay của Giáo hội về mối nối kết giữa sự độc thân và chức linh mục sử dụng nhãn giới Thánh Kinh này, nhưng phát triển nó với sự suy tư thần học sâu hơn. Mặc dù việc giải thích cặn kẽ giáo huấn về độc thân nằm ngoài phạm vi chương này, nhưng cần lưu ý rằng Tông huấn PDV (số 29) đã nêu bật tính tự do của ơn gọi độc thân và nhấn mạnh rằng nó cũng là một ân huệ của Thiên Chúa, một đặc sủng dành cho một số ít người được chọn. Điều này rất nhất quán với quan điểm của Đức Giêsu. Tông huấn tiếp tục chỉ ra “ý nghĩa hôn phối” của sự độc thân này, nhằm nói đến mục đích sinh sản của nó trong một chiều hướng khác với trường hợp thông thường của con người:

 Sự tiết dục hoàn toàn vì Nước Trời ấy luôn luôn được Giáo hội trân trọng như một dấu chỉ và trợ lực của đức ái, và như một nguồn mạch độc đáo làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng trong thế giới”. Trong bậc sống đồng trinh và độc thân, đức khiết tịnh giữ nguyên ý nghĩa cơ bản của nó, nghĩa là tính dục con người được sống như một dấu chỉ đích thực và như sự phục vụ quí giá cho tình yêu hiệp thông và cho sự tự hiến cho người khác. Ý nghĩa này, được tìm thấy đầy đủ trong bậc sống đồng trinh, trong đó mặc dầu người ta khước từ đời sống hôn nhân, người ta thể hiện rõ ràng “ý nghĩa hôn phối” của thân xác xuyên qua một mối hiệp thông và sự trao hiến chính mình cho Đức Giêsu Kitô và Giáo hội của Ngài; điều này báo trước mối hiệp thông hoàn hảo và chung cục cũng như sự trao hiến chính mình ở đời sau: “Trong bậc sống trinh khiết hay độc thân, con người đang mong đợi, ngay cả trong thân xác mình, ngày dự tiệc cưới cánh chung của Đức Kitô với Giáo hội, con người tự trao hiến hoàn toàn cho Giáo hội với hy vọng Đức Kitô sẽ trao hiến chính Ngài cho Giáo hội trong sự thật trọn vẹn của đời sống vĩnh cửu” (PDV, 29, trích Lumen Gentium, 42, và Familiaris Consortio, 16, lần lượt).

Bản văn này tuy không tổng hợp được hết những gì có thể nói về sự độc thân ngày nay, nhưng nó xác nhận rất đáng kể những gì đã được đề cập ở trên. Độc thân có thể và thực sự là một hồng ân quý giá, được ban cho chỉ một số người để họ phục vụ tốt hơn. Người ta cũng không thể bỏ qua sự kiện rằng độc thân có một hiệu ứng phụ thực tiễn, đó là sự thong dong để sẵn sàng phục vụ người khác. Dù đây không phải là động lực chính yếu để các linh mục giữ độc thân, nó thực sự giúp ích rất nhiều cho sứ vụ.

 KẾT LUẬN

 Ngày nay chúng ta nên hiểu thế nào về hình ảnh của hoạn nhân? Hình ảnh này thật không dễ chịu chút nào. Nó cũng sẽ không bao giờ là một hình ảnh hấp dẫn. Rõ ràng nó phục vụ như một ẩn dụ cho một số nhà khổ hạnh, trong đó có các linh mục, với một nền tảng Thánh Kinh vững chắc trong lời dạy của Đức Giêsu. Tuy nhiên, tôi nghĩ nó hoàn toàn không phải kiểu như các linh mục đột nhiên đảm nhận hình ảnh này rồi công bố nó từ trên đỉnh núi. Nó vẫn luôn bị coi như một cái gì quá thô thiển, đáng xấu hổ hay kỳ cục và không thể nào là một hình ảnh lôi cuốn người ta được. Nhưng mục tiêu chính của tôi là nhằm giúp các linh mục độc thân có thể cảm nhận được ý nghĩa sự độc thân của chúng ta như một thực tại mà mình đón nhận từ giáo huấn của Đức Giêsu.

Tôi tin rằng câu nói của Đức Giêsu về những hoạn nhân vì Nước Trời vẫn có giá trị cho chúng ta ngày nay, ngay cả dù chúng ta sẽ không bao giờ quảng bá ý niệm về hoạn nhân một cách rộng rãi. Điều quan trọng hơn, đó là chứng tá đời sống hạnh phúc, tròn đầy, trung thành và hữu ích trong tư cách là những người độc thân. Trong chừng mực mà Giáo hội áp dụng hình ảnh này cho chức linh mục, thì ẩn dụ này kêu gọi sự chú ý đến tình trạng độc đáo của các linh mục như những nhân vật khổ hạnh và loại biệt, những người có thể phục vụ người khác vì Nước Thiên Chúa chứ không phải vì mưu cầu bất cứ lợi ích cá nhân nào. Với việc sử dụng một hình ảnh thái quá như thế để diễn tả một ơn gọi ngôn sứ và triệt để, hướng đến các giá trị của Nước Thiên Chúa, dành cho một số tương đối ít người có thể thực sự chấp nhận nó, thì sự độc thân được thấy là một ân huệ có một không hai cho Giáo hội. Trong hình ảnh hoạn nhân, chúng ta được nhắc nhớ về bản chất rất đặc biệt của chức linh mục. Nó cũng không là một qui tắc chung. Các linh mục là những nhân vật đặc biệt, được mời gọi đảm nhận một lối sống khổ hạnh trong đó các ngài tập trung toàn tâm trí vào những giá trị rút ra từ nhãn giới của Thiên Chúa chứ không phải của thế gian (x. Mc 8,33; Mt 16,23).

Một học giả đã tóm lược cô đọng giá trị của sự độc thân dựa trên lời dạy của chính Chúa Giêsu và trên tầm nhìn về Nước Thiên Chúa:

 Do đó, các Kitô hữu có thể sống độc thân, không phải vì họ bị tước đoạt, bị gò ép, hay vì họ “kỳ lạ”, nhưng là vì họ được thu hút bởi sự hiện diện của quyền chủ tể của Thiên Chúa đến nổi trong thực tế họ không thể sống đời hôn nhân. Điều này không làm cho cuộc sống của họ dễ dãi hơn, nhưng như Đức Giêsu họ là “những hoạn nhân vì Nước Trời”, và họ chỉ ra cách dứt khoát cái giá trị vượt quá mọi giá trị, đó là quyền chủ tể của Thiên Chúa trong cuộc đời của mọi người nam nữ – kết hôn hay độc thân. (Moloney, Matthew 19,3-12, tr. 53)

Trong khi những gì nói ở đây có thể không làm cho chúng ta cảm thấy muốn khoe rằng mình là những hoạn nhân, tôi hy vọng nó có thể củng cố giá trị thường hằng của thực hành độc thân trong đời sống Giáo hội. Ngay cả nếu như Giáo hội Công giáo Rôma có thay đổi thực hành độc thân bắt buộc của mình đi nữa, thì điều đó cũng không hủy bỏ cái nhìn của Đức Giêsu rằng sẽ luôn có một số cá nhân loại biệt, những người sẽ đón nhận quà tặng độc thân tự nguyện để phục vụ Nước Thiên Chúa.

 Ronald D. Witherup, PSS. – (trích dịch từ Gold Tested in Fire: A New Pentecost for the Catholic Priesthood, do nhóm dịch thuật Anh Việt, ĐCV Huế, niên khóa 2013-14. Bản Việt ngữ đầy đủ của quyển sách sẽ xuất bản nay mai.)

  

Con chiên được nâng cao

Một năm, đó không phải là khoảng thời gian quá dài, dù với sự mong mỏi đợi chờ, mà cũng không phải là quá ngắn, với nhiều những đổi thay. Điều làm tôi ấn tượng khi trở lại Chủng Viện sau một năm giúp xứ, đó không phải là cung thánh trang trọng trong nhà nguyện, không phải là khu nhà mới khang trang đang trong giai đoạn hoàn thiện nhưng chính là tượng Đức Giêsu mục tử với tám con chiên vây quanh ngay trước lối vào phòng khách. Yêu thương và hiệp nhất, êm ả và bình an có lẽ là cảm giác sẽ đến với những ai chiêm ngắm hình ảnh này cách lắng đọng. Tôi cũng thế, mỗi khi đứng trước tượng Đức Giêsu Mục Tử, tôi cảm nhận được một sự bình an trong tâm hồn và như thấy mình cũng là một trong những con chiên đang vây quanh Ngài.

Một số anh em “chú giải” rằng: mỗi con chiên là đại diện cho một lớp. Con chiên “Triết I” , “Triết II” đang thảnh thơi nằm nghỉ, con chiên “Giúp xứ” đang miệt mài gặm cỏ,… còn con chiên được Đức Giêsu bồng ẵm trên tay là con chiên lớp nào? Đa số anh em đều đồng ý với nhau đó là con chiên “Tu Đức” với lý do lớp Tu Đức mới vào nên còn nhiều bỡ ngỡ, sợ sệt nên được Đức Giêsu nâng niu hơn. Về phần mình, tôi nghĩ đó là con chiên “Thần IV” sắp sửa ra trường, sắp kết thúc những năm đèn sách tu học tại mái trường ĐCV để bước sang một sứ vụ mới, nhiều thú vị nhưng cũng đầy cam go. Lý do nào khiến tôi nghĩ như thế?

Thứ nhất, tôi liên tưởng tới hình ảnh Đức Giêsu với các môn đệ trong ba diễn từ chia tay mà thánh Gioan trình bày (Ga 14-17). Sau Khổ Nạn và Phục Sinh, Ngài vẫn hiện diện với các môn đệ bằng những cách thế khác nhau như chính Ngài đã dạy: nơi những người bất hạnh (Mt 25, 40); nơi những phát ngôn viên của Ngài (Lc 10, 16); nơi giữa những ai họp nhau cầu nguyện nhân danh Ngài (Mt 18, 20). Dù biết vậy nhưng Đức Giêsu vẫn xao xuyến, vẫn muốn nán lại thêm nữa với các môn đệ mà thổ lộ tâm tình: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi” (Ga 16,12). Dẫu biết nơi sứ vụ mới, Đức Giêsu vẫn cùng đồng hành với những mục tử tương lai của Người nhưng sao tôi lại cảm thấy những lời trên kia cách nào đó cũng dành cho con chiên “Thần IV”:“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”. Nhưng bây giờ, đã đến lúc phải ra đi và trong trường hợp cụ thể này, không phải Đức Giêsu ra đi mà là con chiên “Thần IV” sẽ ra đi, lên đường bước vào một hành trình mới.

Thứ hai, Đức Giêsu bồng ẵm con chiên “Thần IV” thật gần với trái tim của Ngài, để nó có thể cảm nhận được những tâm tình, để nó có cùng nhịp đập yêu thương như chính trái tim của Ngài và để rồi trong sứ vụ mới, nó cũng biết yêu thương, biết chạnh lòng trước nỗi thống khổ của nhân loại như chính Ngài vẫn hằng mong mỏi “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Đức Giêsu đã không để bài học yêu thương chỉ dừng lại nơi những lời dạy dỗ thân tình nhưng Ngài còn thể hiện bằng hành động nêu gương. Ngài nêu gương qua việc rửa chân cho các môn đệ, qua biết bao lần trước đó trong khi cùng với các ông rong ruổi trên khắp các nẻo đường như: chữa lành bệnh nhân, làm cho người chết sống lại (Mt 4,24; Mc 1,32-34; Lc 7,11-17); yêu thương dân chúng lầm than (Mt 9,36-38; Lc 10,2); cứu chữa người phụ nữ tội lỗi (Ga 8,1-11) và đỉnh điểm là cái chết của Ngài trên thập giá. Ngài đã đi bước trước để các môn đệ không ngại ngùng mà bước theo sau.

Thứ ba, sứ vụ mới với những niềm vui, nỗi buồn, những khó khăn là điều mà các mục tử tương lai không thể tránh khỏi. Nhưng mỗi khi như thế, nhất là khi đối diện với những khó khăn, con chiên “Thần IV” sẽ nhớ lại hình ảnh mình được bồng ẵm trên tay của chính Đức Giêsu mục tử. Điều đó có nghĩa là con chiên “Thần IV” biết rõ Đức Giêsu, Ngài vẫn đang ở với mình trong lúc này, khó khăn của mình Ngài đã nhận lấy và chịu đựng trước. Không những thế, Ngài còn bồng mình lên mà vượt qua. Đó chẳng phải là niềm an ủi, động lực lớn lao thúc đẩy các mục tử can đảm hơn mà luôn cố gắng chu toàn bổn phận của mình sao.

Thứ tư, Đức Giêsu bồng ẵm con chiên “Thần IV” trên tay để chỉ cho nó cánh đồng bao la của sứ vụ mới mà nó sẽ nhận lãnh nếu muốn tiếp tục bước theo Ngài. Cánh đồng ấy có nhiều niềm vui, nhiều điều thú vị và cũng đầy ắp những cam go. Cánh đồng ấy cũng đầy những ánh sáng mới lạ, những hào quang chóng qua là vinh dự, tình cảm, tiền bạc,… chúng cám dỗ con chiên bước theo mà quên đi căn tính, quên đi “sứ vụ tình thương” thực sự của mình. Đức Giêsu nâng con chiên “Thần IV” lên cao, cao hơn sẽ nhìn xa hơn, trông rộng hơn nhưng muốn sâu lắng hơn thì cần phải kết hiệp và chìm đắm nơi Đức Giêsu. Cây càng cao, tán càng rộng thì rễ của nó càng phải đâm thật sâu xuống lòng đất mới có thể đứng vững được. Cũng thế, để việc mục vụ có nền tảng vững chắc và bản thân không bị mất hút vào dòng xoáy của công việc thì “lòng đất” mà con chiên “Thần IV” cần đâm rễ sâu là đời sống nội tâm sâu xa nhờ cầu nguyện thường xuyên và liên lũy. Bởi vì cầu nguyện và việc ở lại với Chúa Giêsu là nền tảng và nguồn sức mạnh của đời sống hoạt động tông đồ (HĐGMVN, ĐÀO TẠO LINH MỤC – Định hướng và chỉ dẫn, Nxb. Tôn Giáo, 2012, số 454, tr. 254); và bởi việc học hỏi và sinh hoạt mục vụ trong những năm tháng tại ĐCV cũng chỉ quy về một nguồn mạch bên trong: đó là sự hiệp thông ngày càng sâu đậm hơn vào đức ái mục vụ của Chúa Giêsu (PDV, số 57).

Ước gì những ai muốn bước theo Chúa cách riêng trong đời sống linh mục cảm nhận được sự hiện diện luôn luôn của Đức Giêsu Mục Tử mà bắt chước Ngài vì Ngài là mẫu gương, mà học hỏi nơi Ngài vì Ngài là thầy dạy và chia sẻ với Ngài vì Ngài là bạn đồng hành. Ước gì ai nấy đều có được sự bình an, niềm vui trong bất kỳ giai đoạn nào, bậc sống nào: là chú, là thầy, hay là linh mục mà luôn tiến bước trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cuối cùng, ước gì mỗi người sau khi đã cố gắng chu toàn bổn phận trong bậc sống của mình cũng phần nào nói được như Thánh Phaolô trong Thư 2 Timôthê: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện (2Tm 4,7-8).                   

         Phaolô Trần Quốc Cường, Thần I


ƠN GỌI CỦA ĐỨC MARIA


Tiêu đề thường được gán cho trình thuật Lc 1,26-38 là “Truyền Tin”. Bản văn này nói về một cảnh xảy ra theo kiểu thức của các biến cố truyền tin trước đó, tức những biến cố – cũng bằng một cách tương tự – nói về những cuộc sinh hạ hay về điều gì đó khác. Trong số những cuộc truyền tin sinh con, có thể kể đến cuộc truyền tin cho Haga (St 16,7-14), truyền tin cho Abraham và Sara (St 17,15-22; 18,9-15), truyền tin cho cha mẹ của Samson (Tl 13,2-23), và truyền tin cho Dacaria (Lc 1,8-23). Trong số những cuộc truyền tin có các nội dung khác, có thể ghi nhận cuộc truyền tin cho Môsê trong đoạn văn về bụi gai bốc cháy (Xh 2,1tt.), và cuộc truyền tin cho Ghiđêon (Tl 6,11-24).

Đối chiếu giữa câu chuyện truyền tin của Lc 1,26-38 với các cuộc truyền tin như kể trên, R. E. Brown kết luận: “Bố cục của Luca 1,26-38 bắt chước các cuộc truyền tin trong Cựu Ước. Những cuộc truyền tin như vậy là một cách thức tiêu chuẩn trong Thánh Kinh để chuẩn bị cho độc giả tiếp cận sự nghiệp của một nhân vật vốn được dự liệu để đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ, một vai trò mà tác giả vốn đã biết rồi.”[1]

Quả thật là không thể xem thường những điểm tương đồng giữa cảnh truyền tin của Luca và những cảnh truyền tin về việc sinh con trong Cựu Ước và Tân Ước. Một cách đặc biệt, trong những cuộc truyền tin này luôn có sự ám chỉ đến việc thụ thai và sinh hạ một đứa trẻ. Cách chung, luôn luôn có sự qui chiếu đến việc thụ thai và sinh con, việc định trước một cái tên cho đứa trẻ cùng với sự giải thích ý nghĩa cái tên ấy, và một tuyên bố về công việc tương lai và địa vị của đứa trẻ. Trình thuật của Luca có thể được gọi là “Truyền tin về sự chào đời của Đức Giêsu”. Tuy nhiên, giữa Lc 1,26-38 và các cuộc truyền tin về sinh hạ khác nói trên cũng có những khác biệt đầy ý nghĩa.

Nào, chúng ta hãy xem lời chào dành cho Maria trong trình thuật này của Luca. “Chaire, kecharitôménê, ho Kyrios metà sou.” Có ba yếu tố ở đây: lời mời gọi hãy mừng vui lên, tước hiệu đầy hàm súc cho thấy mối tương quan nền tảng của Maria với Thiên Chúa, và sự bảo đảm về ơn trợ giúp của Chúa. Ở đây chúng ta không thấy sự tương tự nào với các cuộc truyền tin sinh hạ khác.[2]

Tuy nhiên, có một sự tương đồng nào đó với biến cố thiên thần “viếng thăm Ghiđêon”. Thiên thần của Giavê chào Ghiđêon như sau: “Chào chiến sĩ can trường! Ðức Chúa ở với ông” (Tl 6,12). Như chúng ta sẽ thấy sau đây, còn có nhiều điểm tương tự khác nữa được tìm thấy giữa hai trình thuật. Yếu tố duy nhất không thấy trong Ghiđêon là lời mời gọi  mừng vui lên. Trong trường hợp của Ghiđêon, chúng ta nhận ra đó là trình thuật về ơn gọi của ông – như G. del Olmo đã chỉ rõ.[3]

Bây giờ ta hãy đi vào cảnh của Luca, trong đối chiếu với trình thuật về ơn gọi của Ghiđêon. Trình thuật của Luca bắt đầu với hai câu mang đặc tính dẫn nhập rất rõ (Lc 1,26-27). Các nhân vật được định vị trong không gian và thời gian. Tiếp theo là cuộc thần hiện (Lc 1,28-29), trong đó chỉ tường thuật các lời nói và không có sự mô tả nào như trong trình thuật về ơn gọi của Ghiđêon (Tl 6,12-13). Như ta đã đề cập, trong cả hai trường hợp này, các lời chào rất giống nhau. Cả hai đều  cho thấy chủ điểm của biến cố: sự hiện diện và sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trong cả hai trường hợp, các nhân vật đã phản ứng theo một cung cách giống nhau. Ghiđêon nhận sự bảo đảm về ơn trợ giúp của Chúa (“Đức Chúa ở với ông”) và ông lớn tiếng bày tỏ suy nghĩ đầy cân nhắc của mình về điều đó (Tl 6,13), mặc dù bản văn không nói gì về sự bối rối và về sự tuyên bố chấp nhận của ông. Về phần mình, Maria đã phản ứng vừa bằng cảm xúc vừa bằng lý trí trước lời chào nhận được, nhưng Maria đã không nói lên lớn tiếng. Ta ghi nhận rằng trong cả hai trường hợp, lời chào ‘thần hiện’ đã gợi lên một phản ứng, một ‘lời than thở’ (dù trong trường hợp của Maria thì “lời than thở” này xem ra được làm giảm nhẹ hơn).

Trong phần tiếp theo của hai trình thuật (Lc 1,30-35; Tl 6,14-16), ta thấy thiên thần của Thiên Chúa trả lời cho sự ‘phản kháng’ và tuyên bố sứ mạng mà các nhân vật liên hệ ở đây được mời gọi đảm nhận. Ở câu trả lời này, thiên thần lặp lại cách gọi tên đã được sử dụng trong lời chào. Thiên thần nói với Ghiđêon, người ‘chiến sĩ can trường’: “Hãy mạnh bạo lên đường” (Tl 6,14); và thiên thần nói với Maria, người ‘đầy ân sủng’: “Bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30b).

Sau đó là mô tả về công việc của mỗi nhân vật. “Hãy cứu Ítraen khỏi tay quân Mađian” (Tl 6,14). “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai…” (Lc 1,31). Cả hai trường hợp, mỗi nhân vật đều chân thành xem xét khả năng thực hiện sứ mạng được giao và nêu ra một vấn nạn (Tl 6,15 và Lc 1,34). Các câu trả lời cho những vấn nạn này lặp lại thông điệp trong lời chào (“Chúa ở cùng…”) và khẳng định sứ mạng của đương sự. Câu trả lời của thiên thần nói rõ phương cách cụ thể của sự hiện diện thần linh và xác định loại sứ mạng được ủy thác. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). “Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Mađian như đánh có một người” (Tl 6,16).

Sau khi một dấu hiệu được xin (Tl 6,17-21) hay được cung ứng (Lc 1,36-37) và sứ mạng ủy thác kia được chấp nhận (Lc 1,38a), cuộc thần hiện (Tl 6,21) và bản trình thuật chấm dứt (Lc 1,38b).

Như người ta nhận thấy, tính song song giữa hai trình thuật này rất sát nhau. G. del Olmo đã nghiên cứu và chỉ ra rằng trong cả hai trình thuật, người ta rất dễ nhận ra những yếu tố đặc trưng của loại văn trình thuật về ơn gọi.

  Ơn gọi của Ghiđêon

(Tl 6,11-24)

Ơn gọi của Maria

(Lc 1,26-38)

Giới thiệu

Thần hiện

Sứ mạng

Dấu hiệu

Kết thúc

c. 11

c. 12-13

c. 14-16

c. 17-21a

c. 21b (22-24)

c. 26-27

c. 28-29

c. 30-35

c. 36-38a

c. 38b

Kết cấu văn chương của bản văn Luca xác nhận cách chú giải và cách phân đoạn nói trên. Cảnh tượng bắt đầu với một chi tiết về thời gian (En dè tôi menì tôi hektôi) song song với Lc 1,1-5 (Egéneto en tais hêmérais Herôidou basiléôs). Đó là một bức phông mới trong đó những nhân vật khác nhau gặp tại một nơi chốn mới, và nó phục vụ như phần dẫn nhập vào tất cả những gì xảy ra sau đó. Hai trong số các nhân vật được giới thiệu sắp sửa ‘vào vai’: Gabrien và Maria.

Xong phần dẫn nhập, cuộc thần hiện bắt đầu với phân từ bất định eiselthôn. Trong nhiều cách dùng từ Hípri tương đương của nó (wayyabo’), thì điều thú vị nhất là việc nó được sử dụng trong các mô tả về thần hiện. Trong tất cả những trường hợp này, động từ bo’ “giúp cho thấy lời chứng của Thiên Chúa, Đấng can thiệp hữu hiệu vào lịch sử”.[4] Và như vậy, bất kể tính đa nghĩa của nó, việc dùng động từ này ở đây là vô cùng chính xác để nói về sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa vào lịch sử chúng ta. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, không có mô tả nào tương thích với điều người ta nhìn thấy được. Đúng hơn, ‘thị kiến’ được chuyển thành lời. Bên cạnh đó, thị kiến và lời nói đều cùng thiết yếu để cuộc thần hiện bộc lộ ý nghĩa là một cuộc thần hiện về ơn gọi. Vì thế, chính công thức ngắn gọn Kai eiselthôn pròs autên eipen mở ra khoảnh khắc thần hiện.

Một đẳng lập mới với việc lặp lại từ bất định eipen cho thấy sự chuyển sang ‘dạng’ kế tiếp (Kai eipen ho ággelos autêi). Sau khi đã trả lời cho tâm trạng bối rối và cho câu tuyên bố của Maria, trình thuật tiếp tục với việc trình bày sứ mạng của Maria và của người con mà Maria sẽ sinh ra. Tiểu từ nối kết sự bối rối của Maria với sứ mạng được mô tả – và đồng thời yêu cầu một câu trả lời (như ta thấy thiên thần đã trả lời cho Maria ở câu 35). Như vậy, trình thuật này được kết cấu rất sát với kiểu thức “sai đi làm sứ mạng”, gồm: sai đi, sứ mạng, và sự củng cố.

Lời xác nhận mới, cũng có tính đẳng lập, và việc đề cập một nhân vật mới là Êlidabét là những yếu tố làm cho trình thuật tiếp diễn. Yếu tố này được đưa ra cùng với dấu hiệu cho Maria thấy rằng đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể. Tiếp theo dấu hiệu này (một lần nữa, được sử dụng, với nghĩa diễn tiến), ta thấy Maria tuyên bố mình là một nữ tì lắng nghe Lời và chấp nhận ơn gọi của mình. Một bất định từ – một lần nữa vẫn có tính đẳng lập và vẫn trong tính tính chất phản đề song song với phần bắt đầu cuộc thần hiện – kết thúc cảnh này và đánh dấu trình thuật kết thúc.

Như vậy, cả hình thức kể chuyện của Luca trong cảnh này lẫn nhiều yếu tố song song của nó so với trình thuật ơn gọi của Ghiđêon dẫn ta đến chỗ nhìn nhận rằng trình thuật này của Luca là trình thuật về “Ơn gọi của Maria”. Quả là nó có bao gồm việc “truyền tin về sự sinh hạ Đức Giêsu”, nhưng chính việc truyền tin về sự sinh hạ ấy cũng cho phép chúng ta nắm bắt nội dung về ơn gọi. Thật vậy, Đức Giêsu là hạt nhân của cảnh này (Lc 1,31.33.38), và trong khía cạnh này chúng ta đồng ý với khẳng định của Brown rằng “lời loan báo của Gabrien nhắm nêu bật phẩm cách cao trọng sau này của Đức Giêsu.”[5] Tuy nhiên, một sự thật cũng rõ ràng không kém, đó là Maria không phải là một nhân vật chỉ có tính trang trí ở đây. Trong sự kiện của Ghiđêon, thông điệp trung tâm là việc cứu Ítraen khỏi tay người Mađian, nhưng sự kiện ấy không được gọi là cuộc “Truyền tin về sự cứu độ Ítraen”, mà được gọi là trình thuật về “Ơn gọi của Ghiđêon [để] cứu Ítraen”. Cũng vậy, trong trình thuật của Luca, Đức Giêsu là nhân vật trung tâm, nhưng không nên gọi biến cố này là cuộc “Truyền tin về sự sinh hạ Đức Giêsu”, mà phải gọi là trình thuật về “Ơn gọi của Maria [để] làm mẹ Đức Giêsu”.[6] 

Chúng tôi tin rằng cách hiểu này đối với bản văn của Luca có phản ảnh hoạt động của Thiên Chúa nơi Maria, phản ảnh việc Maria chấp nhận Lời thần linh, và phản ảnh ơn gọi của Maria. Hơn nữa, nó giúp chúng ta hiểu bản văn tốt hơn nhờ ánh sáng của các trình thuật về ơn gọi. 

A.     Aparicio Rodríguez, CMF . – (Thiên Phong dịch)

 

CÙNG MẸ DÂNG MÌNH THƯA TIẾNG XIN VÂNG

 Thánh Kinh qui điển chính thức không hề nhắc đến biến cố Đức Maria dâng mình. Tuy vậy, Giáo hội vẫn kính nhớ và duy trì lễ này vào ngày 21 tháng 11 hằng năm. Giáo hội nhận thấy ý nghĩa sâu xa của biến cố “dâng mình” đối với đời sống của Đức Maria, đặc biệt trong sự nối kết giữa biến cố này với lời thưa “xin vâng” của Mẹ. Điều đó cũng là bài học quý báu cho đời sống người Kitô hữu nói chung và cách riêng đối với những tâm hồn tận hiến.

Từ biến cố Dâng mình…

Truyền thống Giáo hội từ xưa đã cho rằng, ngay từ lúc mới lên 3 tuổi, Đức Maria đã dâng mình cho Thiên Chúa trong Đền Thánh Giêrusalem. “Đẹp thay là nhịp chân bước của ái nữ con vua trời cao, vội vã tiến trong hân hoan, cửa đền thánh đã bước tới”. Những lời mở đầu của bài ca Quam Pulchre Graditur đã phác họa nên hình ảnh thật đẹp của một Maria đầy lòng tin yêu trong ngày tiến vào cửa Thành Thánh cao sang. Cử chỉ dâng mình này không chỉ biểu tỏ một thái độ tình cảm nhưng còn là một chọn lựa căn bản, một quyết định tự do của Maria. Chọn lựa ấy đưa tới một thái độ sống, một cung cách sống, một chương trình sống loại biệt. Dâng mình ở đây có nghĩa là dâng hiến, hay tận hiến.

Có lẽ trong tâm trí Maria, dâng mình là để sống một cuộc sống âm thầm, bình dị, có thể là tách biệt và phần nào êm đềm. Maria muốn sống trọn đời cho Thiên Chúa, muốn thuộc trọn về Thiên Chúa, và hoàn toàn qui hướng về Ngài. Đời sống ấy sẽ được diễn tả ra trong việc khấn giữ mình trinh khiết, đêm ngày kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa qua việc chuyên chăm học hỏi và suy gẫm Sách Thánh. Đó là đời sống đúng với sở nguyện, theo ý hướng đã chọn lựa của Maria. Và đó là một ý hướng thật cao đẹp, thật đáng trân trọng.

Thế nhưng, Thiên Chúa đã muốn Đức Maria dâng hiến hơn nữa bằng việc cộng tác vào chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa muốn mời gọi Đức Maria đón nhận, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế cho nhân loại.

… đến lời thưa “Xin vâng”

Thật khó để thay đổi một lối sống tốt đẹp đã được chọn lựa và định hình. Đức Maria quả thực đang ở trong hoàn cảnh này. Thế nhưng, Đức Maria đã can đảm và mau mắn thưa tiếng “xin vâng” trước lời truyền tin của sứ thần Thiên Chúa, dù rằng trước đó vẫn có chút bối rối và phân vân. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Tiếng xin vâng ấy làm cả triều thần thánh vỡ òa sung sướng; tiếng xin vâng ấy làm toàn thể nhân loại nhảy mừng hân hoan; và tiếng xin vâng ấy cũng sẽ làm thay đổi cả cuộc đời của Đức Maria. Biết bao hệ lụy sẽ đến theo sau lời chấp thuận đó. Thực ra, lời thưa “xin vâng” không phá hủy đời dâng hiến của Đức Maria, mà là cụ thể hóa sự dâng mình bằng một đời sống dâng hiến triệt để hơn theo thánh ý Thiên Chúa. Ở đây, lời đáp trả của Đức Maria là một cử chỉ dâng mình dứt khoát và trọn vẹn. Tiếng “xin vâng” của Đức Maria đặt nền tảng trên sự dâng mình, trên đời sống đã mở ra cho Thiên Chúa. Đồng thời, “xin vâng” cũng đòi buộc phải dâng mình liên lỉ.

Quả vậy, kể từ lời thưa xin vâng ấy, cuộc đời Đức Maria chuyển sang một trang khác. Mẹ không còn sống theo ý sở nguyện của mình nữa nhưng sống theo ý muốn của Thiên Chúa. Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời Mẹ, có quyền trên cuộc đời Mẹ. Trước đây, Mẹ còn có thể chủ động trên cuộc đời mình, thì nay Mẹ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Trước đây, Mẹ sống mở ra cho Chúa, thì nay Mẹ còn mở ra cho cả nhân loại nữa. Trước đây, Mẹ dâng mình cho Thiên Chúa vô hình trong đền thánh, thì nay Mẹ sẽ gắn đời mình với một Thiên Chúa hữu hình là Đức Giêsu – Ngôi Lời Nhập Thể mà Mẹ đang cưu mang trong lòng. Mẹ sẽ sinh ra giữa nhân loại này Đấng đã tác tạo nên Mẹ. Cuộc đời Mẹ sẽ gắn chặt với Giêsu. Giêsu là gia nghiệp của Mẹ. Mẹ sống cho Giêsu và, qua đó, Mẹ sống cho nhân loại. Gắn bó với Giêsu, Mẹ sẽ sống dâng mình liên lỉ hơn trong suốt cuộc đời qua những biến cố xảy đến, để xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa.

Dâng những hoài nghi của Giuse về bào thai Mẹ đang cưu mang.

Dâng những vất vả dặm trường trên đường trốn sang Ai Cập.

Dâng những thiếu thốn của việc hạ sinh Con Chúa Trời trong hang đá Bêlem.

Dâng những “lưỡi dao đâm vào lòng ruột” như lời tiên báo của cụ Simêon.

Dâng những hốt hoảng khi phải lạc mất Giêsu trong Đền Thánh.

Dâng những xót xa khi nghe mọi người bảo Giêsu mất trí, điên khùng.

Dâng những đắng cay của lần gặp Con trên đường khổ nạn.

Dâng cả con tim vỡ nát khi đứng trên núi Sọ dưới chân thập giá treo xác con yêu.

Dưới chân thập giá, Mẹ đã sống đến cùng biến cố dâng mình và lời thưa xin vâng của Mẹ thuở nào. Mẹ “dâng mình” trọn vẹn để “xin vâng” ý Chúa trọn niềm. Bằng việc dâng cuộc đời mình và lời thưa xin vâng dứt khoát với Thiên Chúa, Đức Maria trở thành gương mẫu tuyệt hảo cho những tâm hồn tận hiến.

Những người con của Mẹ hôm nay

Những người đi tu thường được gọi là những người sống đời dâng hiến. Điều đó quả đúng. Đẹp biết bao hình ảnh những người trẻ trao dâng đời mình cho Chúa để phụng sự Ngài và phục vụ anh chị em. Cảm động biết bao hình ảnh những giám mục, linh mục quỳ gối trước bàn thờ Chúa để lặp lại lời tuyên hứa: “Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con. Số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 15,5). Tuy vậy, vẫn còn đâu đó, không ít người muốn sống dâng mình mà không dám xin vâng; không ít người đã thưa xin vâng nhưng không sống dâng mình, hoặc nữa là dâng mình nửa vời, xin vâng có điều kiện!

Lạy Mẹ Maria, Mẹ của các chủng sinh, xin cho các chủng sinh, những người chọn dâng mình cho Chúa cũng biết can đảm thưa tiếng “xin vâng” như Mẹ.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ của các linh mục, xin cho các linh mục biết noi gương bắt chước Mẹ, biết sống tiếng “xin vâng” bằng cuộc sống “dâng mình” mỗi ngày trong suốt cuộc đời.

LKV

HÃY ĐẾN CÙNG GIU-SE

Trên tiền đường nhà nguyện Đại Chủng Viện Huế, có tượng Thánh Giu-se, tay cầm nhành huệ, tay bồng ẳm Hài Nhi Giêsu đứng uy nghi lộng lẫy là hình ảnh rất mực thân quen đối với quý anh em chủng sinh đã và đang tu học ở đây. Phía trên đầu bức tượng, hàng chữ “Ite ad Joseph” (Hãy đến cùng Giu-se) uốn hình vòng cung điểm tô cho bức tượng thêm phần nổi bật và xinh đẹp, đồng thời tôn lên vẻ hài hòa, cổ kính và linh thánh cho ngôi nhà nguyện này. Có lẽ, bức tượng đã có từ lâu, cùng thời với ngôi nhà nguyện chăng? Bởi các vị Ân sư tiền nhiệm đáng kính muốn đặt công cuộc đào tạo linh mục dưới sự bảo trợ của Thánh cả Giu-se. Theo dòng thời gian, với bao thăng trầm lịch sử, bức tượng vẫn đứng đó chứng kiến biết bao thế hệ chủng sinh nhập trường rồi ra trường trở thành những linh mục phục vụ Dân Chúa khắp mọi nơi. Thánh Giu-se là tấm gương mẫu mực, là chỗ dựa đáng tin cậy cho những tâm hồn tận hiến, cách riêng cho quý anh em chủng sinh đang được thụ huấn ở đây.

Thánh Giuse – mẫu gương thinh lặng

Thánh Giuse là mẫu người thích đời sống thầm lặng. Mặc dù thuộc dòng dõi hoàng tộc, và là cha nuôi của Chúa Giê-su, nhưng ngài không tỏ ra tự cao tự đại vì điều đó. Các Thánh sử Tin Mừng cũng không miêu tả nhiều về Ngài hay những lời nói xuất phát từ môi miệng Ngài. Tin Mừng chỉ cho biết Ngài là người công chính, sống bằng nghề thợ mộc âm thầm nơi làng quê Nazaret. Cuộc sống của Ngài tỏa chiếu một đời sống nội tâm sâu sắc. Trong thinh lặng, ngài lắng nghe lời Chúa và sẵn sàng từ bỏ ý riêng để thực thi ý Chúa. Ngài đã không ngại đón Mẹ Maria về nhà khi được sứ thần báo mộng, mặc dù trước đó Mẹ đã mang thai. Trong đêm vắng, ngài đã âm thầm và nhanh nhẹn đưa Hài Nhi và Mẹ trốn sang Ai Cập tránh khỏi cuộc bách hại của bạo chúa Hê-rô-đê. Ngài luôn sống trong thinh lặng, nhưng không phải thinh lặng thường tình mà là thinh lặng thánh. Thinh lặng trong Chúa và thinh lặng với Chúa. Ngài tin tưởng vào Chúa và luôn để Lời Chúa dẫn dắt cuộc đời mình. Ngài không than van, trách cứ với Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngài đã âm thầm chu toàn bổn phận chăm nom, dưỡng dục, bảo vệ gia đình thánh gia cách trọn hảo. Ngài đã làm đẹp lòng Chúa và xứng đáng được hưởng vinh phúc bên tòa Chúa cao sang.

Thinh lặng là điều rất cần thiết trong môi trường Đại Chủng Viện, bao gồm cả thinh lặng bên ngoài và thinh lặng nội tâm. Ngoài giờ thể thao và giờ ăn cơm, thời gian còn lại, anh em chủng sinh đều được mời gọi sống trong thinh lặng, thinh lặng để học, thinh lặng để cầu nguyện… Nhờ thinh lặng, anh em chủng sinh mới có thể lắng nghe được tiếng nói bên trong của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, để qua đó nhận ra tiếng Chúa gọi trong hành trình dâng hiến của mình và sẵn sàng đáp trả lời mời gọi ấy. Không những thế, thinh lặng còn giúp cho mỗi người nhận rõ hơn về bản thân và người khác. Nhìn vào thánh Giu-se, anh em chủng sinh có thể noi gương ngài, kín múc sự thinh lặng ở nơi ngài để tập rèn cho mình có được một đời sống nội tâm cần thiết làm nền tảng cho đời sống cầu nguyện được tốt hơn. Hơn nữa, Thánh Giu-se còn dạy cho các chủng sinh biết yêu mến và tôn kính Mẹ Ma-ri-a.

Thánh Giu-se giúp chủng sinh yêu mến Mẹ Ma-ri-a.

Thánh Giu-se là vị Hôn Phu của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Ai yêu mến thánh Giu-se thì chắc hẳn sẽ yêu mến và tôn kính Mẹ Ma-ri-a. Những ai đến với ngài, ngài sẽ dạy cho biết cách để yêu mến Mẹ nhiều hơn. Bởi ngoài Chúa, không ai gần Mẹ bằng ngài, không ai hiểu Mẹ bằng ngài. Bao năm tháng cùng chung sống với Mẹ trong một mái ấm gia đình, ngài đã từng an ủi, nâng đỡ và yêu thương Mẹ để cùng Mẹ nuôi dạy Chúa.  Do đó, Thánh Giu-se sẽ rất vui mừng và tự hào khi chứng kiến những tâm hồn tận hiến năng chạy đến với Hiền Thê của mình. Một hình ảnh ấm cúng và thân thương khi vào mỗi tối thứ bảy, cả gia đình Đại Chủng Viện quây quần bên Diễm Tụ Đài, ở đó có tượng Mẹ Ma-ri-a đang ẳm Chúa Giê-su, trao phó mọi tâm tư tình cảm của một tuần sống trong bàn tay từ mẫu của Mẹ. Cách đó không xa, trên tiền đường nhà nguyện, tượng thánh Giu-se đang ngự ở đó như hình dáng của một người cha nhân từ luôn âm thầm dõi theo đoàn con đang hợp quần bên Mẹ. Ngài hiểu rõ tâm tư và nguyện ước của con cái mình. Ngài không để Mẹ phải lo lắng một mình, nhưng cùng với Mẹ để giúp đỡ và bảo vệ cho những tâm hồn tận hiến. Nếu như trước đây, ngài đã yêu mến Mẹ thế nào thì giờ đây, ngài cũng có cách để giúp đỡ anh em chủng sinh yêu mến Mẹ như vậy. Bằng việc sống chuyên cần, liêm chính, thanh khiết và âm thầm, ngài đã cùng với Mẹ chăm non và nuôi dưỡng Chúa Giê-su. Bởi vậy, học theo gương ngài, bắt chước các nhân đức của ngài là phương thế hữu hiệu nhất để yêu mến Mẹ và được Mẹ yêu thương nâng đỡ.

Thánh Giu-se, Đấng đầy quyền uy và hằng bầu cử cho các chủng sinh

Giữa muôn người, thánh Giu-se được Chúa chọn làm cha nuôi của Đấng Cứu Thế, một đặc ân vô cùng diễm phúc mà có lẽ ngài cũng không dám nghĩ đến. Theo đó, ngài còn là chồng thanh khiết của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa. Ý thức được vai trò trọng đại của mình, ngài đã chu toàn bổn phận làm chồng, làm cha của mình cách tuyệt vời. Với Mẹ Ma-ri-a, ngài đã âm thầm, nhạy bén, và nhiệt tâm giúp đỡ Mẹ bằng một tình yêu phu phụ cao quý. Với Chúa Giê-su, ngài là người cha mẫu mực hết lòng chăm sóc và nuôi dạy Chúa trong những năm tháng ở dương thế. Giữ một vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ, Thánh Giu-se được Thiên Chúa yêu thương và sủng ái. Do đó, Thiên Chúa đã ban cho ngài nhiều đặc ân cao quý. Ngài được chọn làm Quan Thầy của Hội Thánh, của bậc gia trưởng và là đng bầu cử đắc lực cho các chủng sinh, linh mục nữa.

“Hãy đến cùng Giu-se”, hãy ở lại với ngài, vì ngài luôn yêu thương và hằng bầu cử cho các chủng sinh trước nhan thánh Chúa. Với tấm lòng nhân hậu, ngài sẽ luôn giang rộng vòng tay để ôm lấy những ai năng chạy đến với ngài như hình ảnh ngài đang bồng ẳm Hài Nhi Giê-su trên tay. Ý thức điều đó, khi màn đêm buông xuống, sau giờ kinh tối chung, ở đây đó nơi sân nhà nguyện hoặc các hành lang, nhiều anh em chủng sinh đứng âm thầm, mắt hướng nhìn lên tượng Thánh Cả trao dâng cuộc đời tận hiến của mình trong bàn tay yêu thương của ngài. Đó luôn mãi là hình ảnh đẹp đáng lưu dấu và là một thói quen đạo đức không thể thiếu trong cuộc đời tận hiến.

                Triều Nguyên

 đêm nguyện   

(kính dâng Mẹ Diễm Tụ Đài)

Hương đêm theo gió quyện trời cao

Uống giọt sương nguyên nguyệt đón chào

Mẹ ẳm Hài Nhi bên cánh ngọc

Uy nghi lộng lẫy đẹp dường bao

Đơn sơ, khiêm hạ, hồn thanh khiết

Nhân hậu, từ tâm, nét thục đào

Lặng thấu lời kinh con khấn nguyện

Ơn lành tuôn xuống Mẹ ban trao.

                                     Triều Nguyên

***

 

Chiều thu hắt nắng

Xin dâng Mẹ chuỗi tình con đó.
Tháng ngày dài rong ruổi khắp muôn nơi.
Vui trong nắng chiều thu hiu hắt.
Giữa đại ngàn vang vọng tiếng kinh cầu.
Như tiếng sóng vỗ về thuyền xuôi mái.
Đưa hồn thơ hướng vọng tận trời cao.
Trong giây phút chợt con tim bừng tỉnh.
Cảm tạ hồng ân từ mẫu dư đầy
.

 

                                              Jeanphuoc

 

GIÁO HỘI VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG MỚI

 Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ(Mt 28,19). Đó là lệnh truyền cuối cùng của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ và đồng thời cho Giáo hội của Người. Hiện diện và hoạt động giữa lòng thế giới, Giáo hội luôn tìm những cách thế thích hợp tùy theo hoàn cảnh lịch sử để thực thi sứ mạng ấy. Thật khích lệ biết bao, sau hai ngàn năm, Tin Mừng của Chúa Giêsu không ngừng loan đi khắp năm châu bốn biển! Và rồi những năm đầu thế kỷ 21 đã đánh dấu sự ra đời của một lục địa mới mang tên lục địa kỹ thuật số với những phương tiện truyền thông (PTTT) mới. Vào ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 43, Đức Bênêdictô XVI đã thừa nhận lục địa mới này là một cánh đồng sứ mạng chín muồi cho Giáo hội và khuyến khích người Công giáo tiến bước đầy can đảm vào vùngđất sứ mạng này với trái tim của một tín hữu.

1. Giáo hội và các phương tiện truyền thông cũ

Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn sử dụng nhiều loại PTTT để chuyển tải sứ điệp của Người: cột lửa, cột mây, tinh tú trên vòm trời, bụi gai bốc cháy, con lừa biết nói… Thiên Chúa ban Mười Điều Răn trên những bia đá, vẽ cầu vồng để báo hiệu giao ước và sử dụng thập giá để biểu lộ tình yêu. Cũng vậy, Giáo hội luôn tìm nhiều phương tiện trong mỗi thời đại nhất định để thông truyền sứ điệp Tin Mừng.

Trong suốt 1500 năm đầu tiên, hình thức truyền thông chính yếu của Giáo hội là những thủ bản trên các cuộn da và sách viết tay. Thế kỷ 15 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của ngành truyền thông, đó là sự kiện Johannes Gutenberg phát minh ra máy in. Nhờ thành quả này, những bản văn của Giáo hội được in ấn, nhân bản và phát tán trên toàn thế giới. Loại hình truyền thông này thống trị trong vòng 450 năm cho đến khi radio và truyền hình xuất hiện. Giáo hội Công giáo là một trong những tổ chức đầu tiên sử dụng radio khi Fulton Sheen, một mục tử giàu đặc sủng, bắt đầu chương trình hằng tuần mang tên Catholic Hour vào năm 1930. Những phương tiện vừa kể – máy in, radio, truyền hình – được xem là cũ nếu so sánh với những PTTT ra đời vào đầu thế kỷ 21này.

2. Các phương tiện truyền thông mới

Những năm đầu thiên niên kỷ này, chúng ta chứng kiến sự ra đời và bùng nổ cực nhanh của những PTTT mới trên công nghệ Internet như Blogs, Facebook, Podcast,YouTube, Twitter… Nét đặc thù của tất cả các phương tiện này là tính đối thoại. Trong khi các phương tiện truyền thống chuyển tải thông tin theo hướng một chiều thì các PTTT mới truyền tải nội dung xuyên qua nối kết và đối thoại. Vốn đặt nền trên cộng đồng tương tác, chúng cho phép con người trên toàn thế giới chia sẻ, bình luận, thảo luận về nhiều chủ đề khác nhau.

Các phương tiện truyền thông mới này thu hút rất nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, tham gia và sử dụng. Chẳn hạn tính đến năm 2014, Facebook có hơn 1,3 tỉ thành viên, Twitter đã vượt ngưỡng 600 triệu thành viên. Nếu Facebook, Twitter là một “nước” thì chúng được xếp vào tốp những nước đông dân nhất thế giới! Quả thật, các PTTT mới là một vùng đất sứ mạng hàm chứa cả mặt tốt lẫn mặt xấu, cơ hội lẫn thách đố, thuận lợi lẫn nguy cơ mà Giáo hội đang gấp rút tiến vào.

3. Những chấm đen

Hiện nay, có rất nhiều bài viết trên sách báo, tạp chí và Internet bàn về những bất cập đang diễn ra nhan nhãn trên các PTTT mới. Ở đây chỉ xin nêu dẫn một số hiện trạng mà ai cũng có thể cảm nhận một cách thực tế. Một điều dễ thấy là các PTTT mới “ngốn” không ít thời gian của chúng ta. Theo ước tính, trung bình một người Mỹ dùng máy tính 66 giờ/tháng cho các hoạt động ngoài công việc. Còn ở Việt Nam, rất nhiều bạn trẻ có thể ngồi ì trước máy tính hằng giờ để check Facebook, post hình (nhiều khi là vô tội vạ!), viết status (lắm lúc nội dung gần như rỗng!) chỉ để “câu view” hay “câu like”. Điều này dần dà đưa các bạn trẻ đi vào trong thế giới ảo mà quên đi thế giới thật. Họ có nguy cơ đánh mất mối tương quan liên vị trong cuộc sống hiện sinh của mình.

Cũng cần ghi nhận rằng có những biểu hiện thiếu văn hóa nơi một số người sử dụng các PTTT mới. Rảo qua các trang mạng xã hội, chúng ta bắt gặp không ít những status, comment khiếm nhã, thô tục. Sự kiện Bà Tưng năm vừa quahay những vụ chửi đổng, thóa mạ nhau trên Facebook của các sao Việt là những minh chứng đủ sức thuyết phục cho nhận định này. Đặc biệt nguy hiểm hơn nữa, một số kẻ xấu đang lợi dụng các PTTT mới để bóp méo sự thật, lèo lái dư luận, cổ động cho nạn bạo lực, khiêu dâm, buôn người… Đây là những nọc độc chết người đang được gieo rắc hằng ngày trên các PTTT mới.

Tuy nhiên, những gam màu tối ấy cũng chỉ là một phần của bức tranh. Bên cạnh những chấm đen, vẫn còn đó rất nhiều những gam màu sáng mà các PTTT mới mang lại.

4. “Đào vàng” trên các phương tiện truyền thông mới

Với đặc tính đối thoạivà nối kết, các PTTT mới giúp xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ giữa các thành viên trong Giáo hội cũng như giữa Giáo hội với thế giới bên ngoài. Đức Tổng Giám mục Celi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Truyền thông Xã hội cho rằng: “Trong Giáo hội, chúng ta cứ đánh bắt cá ở trong hồ, mà quên rằng có rất nhiều cá ở bên ngoài”.[7] Các PTTT mới cung ứng một không gian để người ta trò chuyện, trao đổi, chia sẻ, hoặc phản hồi ý kiến về một đề tài nào đó. Những mạng xã hội như Facebook, Twitter có thể phục vụ hữu hiệu cho mục đích đem con người lại gần nhau hơn.

Thứ đến, các PTTT mới là những cửa ngõ giúp Giáo hội chuyển tải sứ điệp Tin Mừng cho con người thời nay. Blogs được xem như là những bức thư hiện đại để các bloggers Công giáo đăng tải Lời Chúa, bài suy niệm cầu nguyện, chứng từ… và một trật khơi lên bầu khí thảo luận mang tính xây dựng về những chủ đề quan trọng. Podcast, Youtube có thể giúp các vị mục tử chia sẻ bài giảng của mình một cách sống động với dân Chúa. Đi tiên phong trong lĩnh vực này, ta có thể kể đến một số nhà loan báo Tin Mừng như: Cha Robert Barron (www.WordOnFire.org), Đức Hồng y Seán O’Malley (www.CardinalSeansBlog.org), Đức Hồng y Timothy Dolan (http://blog.archny.org)

Bên cạnh đó, các PTTT mới giúp Giáo hội thực hiện những sáng kiến mục vụ đầy hấp dẫn. Một khoa Minh giáo mới đang hình thành và phát triển trên mạng nhằm làm sáng tỏ những quan điểm, giáo huấn của Giáo hội vốn dễ gây hiểu lầm bấy lâu nay. Tổ chức Called to Communion (www.CalledToCommunion.com) nhanh chóng trở nên một kiểu thức của khoa Minh giáo mới này. Họ nhắm đến việc thăng tiến hòa giải và tái hiệp nhất giữa Công giáo và Tin lành. Cũng có thể kể ra ở đây chương trình mục vụ cho những người Công giáo không hành đạo của tổ chức Catholics Come Home (www.CatholicsComeHome.org). Bạn có thể đọc những giải thích giáo huấn của Giáo hội, xem video về các chứng từ đức tin ở trang này. Theo ước tính đến nay, có khoảng 200.000 người trở lại sinh hoạt tại các giáo xứ ở Mỹ nhờ hiệu ứng của chương trình này. Lại nữa, các PTTT mới làm nảy sinh hình thức cầu nguyện trực tuyến mà nhiều nhóm, tổ chức trong Giáo hội đang thực hành thời gian gần đây. Đó là chưa kể đến việc các giáo xứ, hội đoàn xây dựng những “nhóm” trên Blogs hay Facebook để thông báo tin tức, chia sẻ hình ảnh, sinh hoạt cũng như đón nhận những ý kiến đóng góp của các thành viên. Nói tắt, các PTTT mới là một “mỏ vàng” mà Giáo hội phải khai thác để phục vụ cho công cuộc Tân Phúc Âm hóa.

5. Thái độ nào cho Giáo hội?

Một cá nhân hôm nay có thể leo cao tới tận đỉnh của thiên tài và đức độ, cũng như có thể ngụp sâu tới tận đáy của sự suy đồi mà chỉ cần ngồi một mình trước bàn phím và màn hình”.[8] Dù không thể hình dung hết những gì đang xảy ra vào đầu ngàn năm mới này, nhưng các Nghị phụ của Công đồng Vatican II vẫn nhìn nhận những thuận lợi lẫn nguy cơ của các PTTT (x. Inter Mirifica, 2). Chúng là những con dao hai lưỡi mà Giáo hội phải sử dụng với tất cả sự thận trọng và khôn ngoan để thực thi sứ mạng của mình.

Lục địa kỹ thuật số này là nơi mà Giáo hội vun đắp nền văn minh tình thương và sự sống, thực thi công bình và bác ái, “hình thành và phổ biến dư luận ngay chính” (x. Inter Mirifica, 8). Đối tượng ưu tiên của Giáo hội là những thành phần dễ bị tổn thương nhất đang sống ở vùng ngoại vi của cuộc sống như người nghèo, gái điếm, người vô gia cư, nghiện ngập, người già, thai nhi (x. Evangelii Gaudium, 209-216). Giáo hội cần dùng những PTTT mới để đem lại cho họ niềm vui, sự an ủi và chữa lành qua việc giới thiệu hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nói chung, trong mọi nỗ lực của Giáo hội nhằm vào lục địa kỹ thuật số này, “tâm điểm sứ điệp rao giảng vẫn luôn là một: Thiên Chúa, Đấng mạc khải tình thương vô biên của Người nơi Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh” (Evangelii Gaudium, 11).

Cha Robert Barron ví von các PTTT mới với hình ảnh Areopagus là nơi mà Thánh Phaolô đến rao giảng ở Athen năm xưa. Phần lớn cử tọa hôm ấy đều chống đối và nhạo cười, nhưng cũng có một số người đã theo thánh nhân và tin Chúa (Cv 17,32). Học gương Thánh Phaolô, Giáo hội luôn can trường và kiên nhẫn để chài lưới người trên vùng đất sứ mạng này bất chấp những khó khăn và trở ngại. Mọi Kitô hữu, cách riêng là những người trẻ, đều được mời gọi trân trọng và biện phân dấu chỉ thời đại này để tuyên xưng đức tin của mình trong hoàn cảnh mới và bằng những cách thế mới. Chúng ta hãy để cho những lời đầy khai trí này lan tỏa nơi con tim, lay động nơi khối óc và thúc giục hành động của mỗi người: “Nếu đức tin xác định căn tính của chúng ta và trở thành một phần của mọi biểu hiện nơi chúng ta, thì đức tin ấy nên chuyển động xuyên qua các bàn phím và chiếu sáng các màn hình máy tính của chúng ta” (Rozann Carter).

 Phêrô Nguyễn Quí Khôi – Triết II – (Dựa theo Brandon VOGT, The Church and New Media, Our Sunday Visitor, Indiana, 2011)

 

gặp gỡ

Em mười sáu, tóc dài chấm lưng, dáng người cao ráo, thanh mảnh. Em xinh đẹp và đích thị là một tiểu thư con nhà giàu. Nơi Em, cái chất thành phố rõ rệt trăm phần trăm. Em đang trong lứa tuổi xuân thì tròn đôi tám, lứa tuổi mà ai cũng cho là đẹp nhất của đời người. Ngày ngày, Em cắp sách đến trường như bao người cùng lứa tuổi. Sau những chiều Chúa Nhật, lớp giáo lý vắng bóng Em. Một ngày kia, Tôi và một Thầy khác tìm đến nhà Em để hỏi thăm. Nhà Em rất dễ tìm vì nằm ngay mặt phố.

 Chúng tôi đến thăm Em vào một sáng Chúa Nhật nắng ươm vàng, bầu trời trong vắt cao vời vợi, mây kéo đi đâu tìm hoài chẳng thấy. Sau những tiếng gọi, hướng ánh mắt vào khung cửa kính, Tôi thấy Em mệt mỏi, chầm chậm, uể oải đi ra mở cửa từ phía cầu thang. Cánh cửa mở ra cũng chầm chậm, dè dặt như đề phòng một sự xâm nhập trái phép. Vừa thấy hai chúng tôi, đôi mắt Em tròn xoe, kinh ngạc pha lẫn thách thức với ánh nhìn xéo xéo, lườm lườm. Câu đầu tiên thốt ra từ cửa miệng Em, có lẽ đó là một lời chào: “thằng H không có ở nhà”. H vốn là em trai của Em. Tôi cũng đang phụ trách dạy giáo lý cho H ở nhà thờ. “H không có nhà thì hai thầy đến thăm Em”, tôi đáp lời. Em hỏi: “Thầy tới làm chi rứa?”. Tôi bắt kịp phong cách đối thoại của Em và giả vờ gọn lỏn: “Tới chơi không được à?”. Em chẳng buồn mời chúng tôi vào nhà. Cô giúp việc vội chạy nhanh ra cửa mời hai anh em chúng tôi vào uống nước. Vào đến phòng khách, Em toan bước lên cầu thang thì Tôi chặn lại và nói: “Em ngồi xuống nói chuyện với hai Thầy một chút được không?”. Em miễn cưỡng ngồi, bắt chéo chân với thái độ sẵn sàng “chiến đấu” với bất cứ lời hỏi han hay tỏ ra quan tâm nào từ phía chúng tôi. Em đề phòng ngay cả sự quan tâm. Em như một lãnh chúa sẵn sàng dùng mọi sức mạnh để đề phòng và bảo vệ cái giang sơn nhỏ bé của mình khi nghĩ rằng một ai đó đang bước chân vào xâm phạm chủ quyền của phần lãnh địa được phong kín. Em thu mình trong cái vỏ bọc kiên cố của cái gọi là “niềm kiêu hãnh cô đơn”.

 Gia đình có ba chị em. Em là chị cả, H là em thứ và bé út hãy còn đi mẫu giáo. Mẹ Em vừa mới qua đời ngót một năm. Ba Em vắng nhà. Ba Em thường bận rộn với những chuyến làm ăn xa nên thường không có mặt trong những bữa cơm gia đình sáng, trưa, chiều, tối. Bàn ăn gia đình vốn đã vắng, nay lại càng thêm lạnh. Mọi việc quán xuyến gia đình, nấu nướng, giặt giũ, việc nhà, việc cửa, việc không tên… đều do một tay cô giúp việc đảm đương.

 Sau một hồi hỏi thăm sức khỏe, tình hình học tập, gia đình, mọi thứ… chúng tôi liên tục nhận được những câu trả lời tỉnh lược đến mức không thể nào tối giản, đại loại như: “Có”, “khỏe”, “ok”, “Thầy không biết chi hết!”… Nhìn thấy chân tay Em dính những băng dán y tế và xen lẫn giữa những vết trầy xước là những dấu bầm tím, Tôi quan tâm: “Bị răng rứa?” (bị sao thế?). Để nhập cuộc với em, tôi dùng lối nói khuyết một thành phần câu như Em. Em có một phong cách, một lối cư xử bất cần, bất cần đời, bất cần người. Bất cứ sự quan tâm nào dành cho Em cũng dường như là một dấu hiệu của sự tấn công. Vì thế, Em phản kháng lại những cái nhìn thương cảm để tỏ ra em không cần ai thương hại. “Té xe”, Em đáp. “Chà! Chà! chắc là đi xe bo dữ quá đây mà!”, Tôi giả vờ mỉa mai. Nghe xong, đôi mắt non dại của Em hướng nhìn Tôi như nhìn một sinh vật kỳ dị ngoài hành tinh, và rất nhanh, đôi mắt Em bỗng cụp xuống phía sàn nhà, ánh mắt Em buồn một kiểu buồn mà tôi không thể nào đặt tên được, không khái niệm được, không định nghĩa được và không thể ghép được một tính từ nào vào phía sau chữ “buồn” đó. Tôi biết mình đã đúng và không bỏ lỡ cơ hội “thừa thắng xông lên”: “Mấy tuần nay không thấy Em đến nhà thờ học giáo lý, làm hai Thầy tưởng Em bệnh nặng nên mới đến thăm”. “Bệnh mô mà bệnh”, Em bắt đầu dịu giọng xuống nửa cung nhưng nghe vẫn còn đốp chát.

 Sau những phút mở bài tưởng chừng căng thẳng, với ánh mắt vờn vờn và sự đáp trả đầy quan sát của Em như một mãnh thú sắp lâm cuộc hỗn chiến, chúng tôi dường như bất lực trước một con bé bất trị. Thế nhưng, khi Em hạ nửa cung giọng, câu chuyện về Em mới thực sự bắt đầu. Em thầm thĩ kể về gia đình, về sự ra đi vĩnh viễn đầy đau thương, tức tưởi của một người mẹ tự tìm đến cái chết để giải quyết những vấn đề nan giải của cuộc đời, về chuyện trường, chuyện lớp, chuyện bạn bè… Những dòng tâm sự cứ thế tuôn ra như một dòng thác lũ cuồn cuộn cuốn phăng cả con đập ngăn cách dòng nước với đại dương. Em kể như chưa từng được tâm sự.

            – Mỗi chiều Chúa Nhật Em đi mô mà không đến lớp giáo lý?

            – Đi chơi.

            – Chơi ở mô mà nhiều rứa, Chúa Nhật em có cả ngày để vui với bạn?

            – Karaokê, café, nghe nhạc, tụ tập đánh Bi-a… Chỗ chơi mà thiếu mới lạ.

            – Đi chơi nhiều rứa Em không thấy mệt à?

            – Mệt và chán lắm Thầy ơi!

            – Đi chơi mà mệt với chán thì chơi làm chi?

            – Ở nhà buồn lắm, với lại không biết làm chi hết thì đi thôi.

 Té ra, Em có tâm lý hay chống đối là vì tâm hồn em dễ vỡ, phản kháng như một cơ chế tự bảo vệ nơi Em. Gia đình đối với Em là mảnh đất mà nỗi buồn ngự trị. Em không tìm thấy vai trò của mình ngay tại nhà mình. Em buồn, có lẽ mái nhà chỉ để che mưa, che nắng, đó là nơi em “dung thân” mà không tìm thấy chốn “nương thân”. Em buồn, bởi lẽ những bữa cơm gia đình thay vì là nơi tốt nhất để người ta có thể sẻ chia, thổ lộ, là nơi bày tỏ những nỗi niềm, trao đổi những câu chuyện có khi là chỉ để mua vui, là mảnh đất để gieo những thương yêu, gửi gắm những tâm tình… thì ngược lại, với Em, nó như những bữa cơm bụi ven đường, hờ hững. Em buồn vì nơi căn nhà Em không tìm ra mái ấm mà chỉ thấy toàn giá lạnh, hoang vu. Em buồn vì sự trống vắng, nỗi cô đơn, khuyết hụt và thiếu thốn một cái gì đó vừa hữu hình vừa thiêng liêng, vừa rất đỗi đời thường, vừa rất đỗi cao sâu. Phải chăng, đó là cái mà người ta gọi là tình gia đình, là sự thương yêu, sự kề cận, gần gũi, san sẻ của những thành viên cùng chung máu huyết trong một tập thể có tên: GIA ĐÌNH.

 Để khỏa lấp cái trống trải của một tâm hồn cần được thương yêu, chăm sóc; để lấp đầy nỗi đơn côi vì mặc dầu đang sống giữa gia đình mà Em như một người bị bỏ rơi; để đi tìm cái lý do cho sự tồn tại trong một cuộc đời đang cần có ý nghĩa; đi tìm hoạt động giữa mênh mông buồn; Em tìm đến với bạn.

 Em có một nhóm bạn. Nhóm bạn kéo nhau từ trường đến quán café; sau đó là Karaokê; hát khản cổ, nhảy tưng bừng đến mệt lả thì quay sang kiếm chỗ nghe nhạc cực hot, cực mạnh; nghe nhạc chán lại tìm vui bên bàn Bi-a vừa chơi vừa uống. Em đi tìm sự bù đắp trong ồn ào, náo động, trong những âm thanh quay cuồng, trong những cuộc chơi chỉ tan đàn rã đám khi Em kiệt sức. Em sợ sự thinh lặng, sợ ở một mình, sợ những khoảng thời gian trống, vì như thế, em lại suy nghĩ. Và Em sợ cơn buồn, nỗi đau lại ập đến kết thân. Thế là, về đến nhà, Em đi thẳng đến ngay phòng ngủ và quăng mình trên giường tìm giấc ngủ vùi. Đó cũng không phải là ngủ cho đúng nghĩa của giấc ngủ mà chẳng qua là tình trạng kiệt sức lả người, tinh thần suy kiệt, hệ thần kinh không còn đủ sức đàn hồi phải nghỉ lấy hơi. Đó cũng không hẳn là giấc ngủ tròn trịa của lứa tuổi thần tiên mà là một trạng thái quên lãng nặng nề. Ngày mai, sau khi tỉnh giấc, Em lại lao  mình vào vòng xoáy của ngày hôm qua và quay cuồng không biết bao giờ ngừng lại.

 Ở lứa tuổi của Em, người ta mang cái hồn nhiên, trong sáng, vui tươi, đầy hy vọng và sức sống vào đời. Giấc ngủ cũng vì thế mà trở nên êm đềm, nhẹ nhàng những ước mơ xanh. Tuổi mộng của em đã và đang trôi qua trong những tháng ngày “chạy trốn”. Em chạy trốn chính mình, chạy trốn nỗi đau và sự thiếu hụt. Em tìm cách thoát khỏi cái gia đình mà em không tìm ra ở đó hạnh phúc nào cho cuộc đời. Em tìm quên trong những cuộc chơi mà chính em cũng ê chề nhận ra là “mệt và chán lắm!”. Mệt nhưng vẫn cứ phải chơi. Chán mà vẫn đeo bám. Vì ngoài ra, Em chưa đủ sức tìm cho tâm hồn và cuộc đời mình một lối thoát khỏi nỗi cô đơn và sự trống trải thẳm sâu vì thiếu tình thương, sự dìu dắt, san sẻ. Em còn có Ba mà cuộc đời tưởng chừng như một đứa bé mồ côi.

 Em đã mở lòng với chúng tôi và chia sẻ tất cả những gì em trải qua, không ngần ngại. Em là người biết nhận định. Em tinh đời. Nói như người Huế, em rất “sỏi”. Cay đắng cuộc đời đã làm em lớn nhanh hơn số tuổi mà tạo hóa tặng ban. Em như một trái cây chín ép. Lớn nhanh hay lớn trước hay chín ép không có nghĩa là Em đã trưởng thành. Vì Em vẫn đang ở trong thời kỳ khủng hoảng.

 Em kể về nhóm bạn. Tất cả đều cùng học một trường, chung lớp. Cả nhóm có một điểm tương đồng là đều xuất thân con nhà giàu, học dốt, và quan trọng là chúng không tìm được hạnh phúc chốn gia đình. Em buồn. Các bạn khác mang nỗi buồn na ná như Em. Có lẽ đeo mang một nỗi buồn giống nhau nên các em tìm đến bên nhau như đám lục bình bị sóng xô, sóng đẩy dạt vào nhau, nép sát nhau, tụ lại thành một quần thể. Một cộng một làm đôi, nhưng với các em, có nhóm, có bè mà chưa hẳn đã là bạn, chúng chỉ là những hòn đá cô đơn. Những cái buồn đơn côi gộp lại, trở thành một nhóm “đập phá”. “Đập phá” theo nghĩa của Em là chơi tưng bừng, chơi tới bến, chơi xả láng, chơi  mệt nghỉ, chơi như không còn có ngày mai.

 Nhóm của em đã sử dụng bồ đà và cái mà em gọi là “hàng đá”. Tiếc thay cho cuộc đời những cô cậu choai choai, với lý do buồn và tìm quên đời trong thoáng chốc, đã tự hủy hoại cuộc đời trong hơi thuốc. Em tâm sự không chút giấu giếm: “Mấy đứa bạn chơi hàng đá phê lắm!”. Tôi hỏi: “Phê là sao?”. “Phê là chơi hàng xong thì đê mê, ngây ngây, ngất ngất. Em nói gì tụi nó cũng cười, cười rũ rượi, cười hoài, cười mãi… Chơi hàng đá sướng lắm!”. “Rứa có nghiện không?”, Tôi lần sâu vào hang tối. “Thầy không biết chi hết! Chơi hàng đá thì không nghiện nhưng nghiện cảm giác phê. Với lại, chơi hàng đá xong, về nhà ăn cơm nhiều và ngủ ngon lắm!”, Em giảng giải rành mạch với đôi mắt ánh lên tinh quái nhìn Tôi như một “con gà mờ”. Với những thứ như Bồ đà, hàng đá Em chỉ biết có thế, còn tác hại ghớm ghê của nó, Em mù tịt. Đến lượt Tôi lên tiếng góp đôi lời với Em về những tác hại của cái mà Em cho là phê, là sướng, là để ăn ngon, ngủ khỏe… Em ngạc nhiên. Ánh mắt Em chuyển rất nhanh từ khinh thị một “gã gà mờ” như Tôi sang có vẻ nể nang vài ba phần. Kết thúc diễn từ, Tôi nhẹ nhàng hỏi: “Thế nhóm Em kiếm mấy thứ nớ ở mô?”. “Dễ mua lắm, ngay quán café trước cổng trường”. Trời đất! Ngay trước cổng trường trung học là tụ điểm hút xách ư? Tôi choáng vì điều này. Một bên là môi trường giáo dục và dào tạo sự triển nở nhân cách; một bên là điểm nóng phá hoại nhân cách con người. Một bên ươm trồng tương lai; một bên hủy diệt cuộc đời. Một bên cho người ta lẽ sống và văn hóa của sự sống; bên kia làm cho người ta đánh mất ý nghĩa cuộc sống và là văn hóa của chết chóc. Hai mặt đối lập của cuộc đời lại tồn tại bên cạnh nhau như một cặp sóng đôi ngay giữa lòng cuộc sống. Ôi chao! Giáo dục không đủ sức tăng thêm nghị lực tâm hồn nơi các em để các em như những cơ thể hoàn toàn không có đủ sức đề kháng trước những lôi kéo, cám dỗ của những thú vui không lành mạnh, để rồi các em để mặc cho virus của những căn bệnh xã hội tấn công. “Thế thầy cô các em không phát hiện được à?”. “Làm sao mà biết được. Giờ ra chơi, tụi nó ra quán chơi “hàng” rồi lại vào lớp, học bình thường”…

 Em đã có những phút trải lòng với chúng tôi không dè dặt, chẳng sợ hãi. Đó là điều mà Em chưa từng làm với bất cứ một thầy cô nào ở trường. Có lẽ, chúng tôi là Thầy tu.

 Chúng tôi dừng lại bên cuộc đời Em khá lâu so với những cuộc thăm viếng mục vụ những gia đình của các em giáo lý mà chúng tôi có trách vụ hướng dẫn. Câu chuyện kết thúc để lại nỗi chạnh lòng còn đeo mang. Tôi đạp xe ra về mà những suy tư trải dài trên con đường theo những vòng xe lăn bánh. Phố Huế vẫn trôi êm đềm với dáng dấp bề ngoài gia phong, cổ kính, nề nếp, rêu xanh. Nhưng biết đâu đó, ngay trong lòng những gia đình đã tồn tại những con sóng ngầm tàn phá, những trận bão táp, cuồng phong làm lung lay tận nền móng. Nhìn xa xăm về phía chân trời, Tôi thấy hình như bầu trời đã gợn những bóng mây.

 Em lao vào những cuộc chơi quên ngày tháng, không nghĩ đến tương lai, không hề thương tiếc cho tuổi thơ đời mình. Em ngụp lặn chơi vơi trong những ê chề. Em chán chường trong những truy hoan. Em vương một nỗi buồn hủy diệt. Em bất hạnh vì không tìm được hạnh phúc. Cuộc đời này còn có bao nhiêu tuổi thơ như Em, như nhóm bạn của Em. Tôi thầm cầu nguyện Em quay trở về với gia đình, với xóm đạo, với nhà thờ và với lớp giáo lý. Em cần gì? Ai sẽ dang đôi tay đón Em về? Ánh mắt nào nhìn Em trìu mến mà không phải là cái nhìn thương hại, mỉa mai? Ánh sáng nào soi lối cho Em ra khỏi những nẻo đường mù tối? Em xa gia đình ngay khi còn ở tại nhà mình. Em xa giáo xứ khi ở giữa lòng giáo xứ. Đâu tiếng chuông chiều réo gọi hồn Em, thức tỉnh lòng Em? Nếu có tiếng chuông thì phải được ngân lên từ trái tim đồng cảm. Vì chỉ có tình yêu mới hy vọng mang lại sức mạnh níu kéo và hoán cải, chỉ có tình yêu mới có thể cản những bước chân Em lao vào nẻo đường lạc hướng. Tuổi thơ Em đã vướng vào những cuộc chơi không bờ không bến là hệ lụy của sự vắng mặt những yêu thương, vỗ về, ủ ấp. Vì không cảm nhận được sự có mặt của một ai đó, tâm hồn Em u ám nỗi buồn vì thiếu những gặp gỡ thân mật và những sẻ chia mang lại ánh sáng và sự giải thoát. Rồi đây, nếu tiếp tục cuộc sống đó, Em sẽ đi về đâu? Em lao vào cuộc chơi nghiệt ngã của cuộc đời trong khi vẫn biết đó là sự khiên cưỡng đem lại mệt mỏi và chán chường. Vì theo Em, ít nữa nó cũng là liều thuốc an thần để tìm quên trong giây lát.

 Tôi không ủng hộ lối sống của Em, đó là điều chắc chắn. Tôi kể lại câu chuyện này cũng chẳng phải với mục đích đầu tiên là lên án ai, trách móc ai… Hơn hết tất cả, qua đây Tôi dâng lời cầu nguyện cho cuộc đời này có những cuộc gặp gỡ thắm tươi tình người. Gặp gỡ mang lại biến đổi sâu xa trong đáy thẳm tâm hồn. Đó là cuộc gặp gỡ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau, gặp gỡ giữa thầy cô và học trò, gặp gỡ giữa láng giềng thân yêu, bà con lối xóm, gặp gỡ giữa những người có trách vụ và người thụ nhận, gặp gỡ giữa Mục Tử và ràn chiên…

 Cuộc sống hôm nay đang gióng lên từng hồi chuông thảm thiết từ căn bệnh vô cảm. Cuộc đời thiếu niềm vui vì sự vắng mặt của những gặp gỡ. Cuộc sống chứa chan nỗi buồn vì sự hiếm hoi của những khoảnh khắc dừng lại bên nhau với nỗi đau hay hạnh phúc, với niềm vui hay mất mát, với nước mắt hay nụ cười của nhau. Cuộc đời đang mất dần những cuộc hàn huyên tâm sự. Cuộc sống càng nhiều khổ đau vì thiếu sự chia sẻ. Đau khổ là những vẫy gọi tình yêu. Đau khổ dù có ghê ghớm đến đâu cũng không sâu thẳm bằng lòng nhân ái. Em bất hạnh vì Em không được gặp gỡ. Em không có cái cảm nghiệm hạnh phúc từ sự gặp gỡ. Có khi nào mỗi người bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ với người thân yêu? Có khi nào mỗi chúng ta bỏ quên nẻo đường gặp gỡ với một nỗi đau, một nỗi niềm, một ai đó? Gặp gỡ mang đến cảm thông. Gặp gỡ san sẻ ngọt bùi. Gặp gỡ chia sớt gánh nặng. Gặp gỡ củng cố niềm tin, tăng thêm sức mạnh, bồi bổ nghị lực. Gặp gỡ xua tan ngăn cách, xóa bỏ hiểu lầm. Gặp gỡ đẩy lui thù hận, tối giản những ghét ghen, tị hiềm. Gặp gỡ trao đổi thương yêu. Gặp gỡ mang đến bình an và có sức biến đổi diệu kỳ. Khi gặp gỡ, ai cũng cảm nhận được mình đang yêu và được yêu.

 Người Việt Nam sử dụng từ ngữ rất ư thâm thúy “gặp gỡ”: gặp là để giải gỡ cho nhau, gỡ những vướng mắc, gỡ những tâm tư nặng trĩu, gỡ rối tơ lòng, gỡ mớ bòng bong… chứ không phải gặp để buộc, để ràng …

 Giêsu, khi rảo qua phố chợ ồn ào, đã có một cái nhìn trìu mến và một lời mời gọi ngắn gọn: “Hãy theo Ta!”. Matthêu đang mải miết với công việc ở bàn thu thuế, bỗng ngước mắt lên bắt gặp ánh nhìn Giêsu và tai nghe tiếng gọi mời. Hai ánh mắt chạm nhau. Ngay tức khắc, Matthêu dứt khoát đứng dậy, bước qua bàn thu thuế, bỏ lại quá khứ lỗi lầm sau lưng để bước về phía trước, theo Thầy Giêsu, sau đó đã trở thành môn đệ và là Thánh Sử. Ở đó, có một cuộc GẶP GỠ. Cuộc gặp gỡ đã đi vào lịch sử thế giới và lịch sử tôn giáo.

 Cầu xin cho mọi người luôn biết kiến tạo những cuộc gặp gỡ yêu thương, hiệp nhất, huynh đệ… để nâng đỡ tâm hồn, tái tạo cuộc đời, gia tăng sức sống cho chính mình và cho tha nhân, cho những người trong gia đình, cho bạn hữu, cho tất cả những ai nhập cuộc vào con đường gặp gỡ.

 

            Hãy xích lại gần nhau thêm tí nữa!

            Như thế hãy còn quá xa.

            Đau khổ sẽ có mặt

            Nếu vắng bóng tình yêu,

            Buồn sẽ dài lê thê

            Nếu ta không gặp gỡ.

            Đừng bao giờ bỏ lỡ

            Cơ hội để yêu thương,

            Phía trước là con đường

            Đưa ta về gặp gỡ.

            Đừng bao giờ là bến đợi

            Để sóng lở sóng bồi,

            Hãy cứ là con thuyền

            Xuôi trăm miền gặp gỡ.

Simon Trương Duy Lam

 

Nhớ về hai Cha

Không biết Chúa có sắp đặt không, lại để hai “đại cổ thụ” của các sinh viên Xuân Bích qua đời cách nhau ít ngày, đây quả là một điều đáng tiếc cho Giáo hội Việt Nam, nhất là các Đại Chủng Viện. Đối với tôi, và với lớp chủng sinh khóa VIII nói chung, các ngài mang đến những kỷ niệm khá đặc biệt. Chúng tôi là lứa học trò cuối cùng của các ngài ở chủng viện này.

Cha Alberto là người mà có lẽ ai đã từng đi qua dưới mái trường này kể từ đầu thập niên 1960 đều biết đến ngài. Hơn thế nữa, Cha được xem là cây ‘cổ thụ’ của làng Kinh Thánh Việt Nam. Là Cha giáo, Cha để lại những ấn tượng khó quên cho các học trò. Trên giảng đường Cha có lối dạy dí dỏm, vui vẻ, nhiệt tình, mặc dù tuổi tác đã chất chồng. Mỗi buổi học Cha đều kèm theo giờ tập hát, tất nhiên là do chính Cha làm ca trưởng. Như thế các buổi học Thánh Vịnh tưởng như buồn chán lại trở nên sôi động. Đám học trò khó mà ngủ gật trong bầu khí như vậy.

Bài Thi môn Thánh Vịnh của Cha là một kỷ niệm đáng nhớ đặc biệt. Giữa tháng tư, cái nắng mùa hè đã bắt đầu, đám ve bắt đầu nhí nhố, thì cũng là lúc chúng tôi phải vùi đầu với cái đề cương 40 Bài Thánh Vịnh phải học thuộc lòng đến từng dấu chấm, phẩy. Có một anh từng nói: “Ai đã trải qua kỳ thi Thánh Vịnh của Cha Alberto mà bỏ tu về thì quá uổng”… Đọng lại sâu lắng qua tất cả, chúng tôi yêu quí Cha cả về con người lẫn tài năng.

Về Cha cố Antôn, tôi được gặp ngài ngay từ khi vào Đại Chủng Viện. Ấn tượng đầu tiên, ngài là một người Cha nhân hậu, vui tươi với nụ cười thường trực ở khắp mọi nơi. Suốt thời gian ở với ngài tại Đại Chủng Viện, tôi chưa bao giờ thấy ngài tỏ thái độ bực tức hay nóng giận với bất kỳ ai. Nhìn ngài, tôi thầm mong sau này mình sẽ cố gắng được như vậy. Những tưởng lớp tôi không được học với ngài, bởi vì ngài đã có dấu hiệu mỏi mệt vì tuổi tác. Thế nhưng năm 2012 ngài từ Sài Gòn ra Huế để dạy duy nhất lớp chúng tôi. Điều này làm cho chúng tôi cảm thấy vui mừng và hãnh diện. Trước mỗi buổi học, lớp đều phân công một người vào phòng để dẫn Cố đến lớp, hình ảnh người Cha chậm rãi, vui vẻ bước vào phòng học thật đặc biệt, nói lên tâm huyết của nhà giáo đối với học trò của mình.

Nhưng lực bất tòng tâm, ngài đã trở bệnh khi bài khóa còn dang dở, phải vào lại Sài Gòn để chữa trị. Rồi, thật là cảm động, ngay sau khi có dấu hiệu khỏe lại, ngài tiếp tục trở lại Huế để đồng hành với lớp chúng tôi cho đến kết thúc khóa học. Cũng giống như môn Thánh Vịnh của Cha Alberto, môn Giáo Phụ Học của Cố Antôn cũng khiến chúng tôi toát mồ hôi, hồi hộp cho đến tận lúc làm bài. Và Cố là một tượng đài thật sự trong lòng chúng tôi, về nhân cách, tâm huyết và tri thức của một nhà giáo.

Xin tạm biệt hai Cha Giáo đáng kính Chúng con, những người học trò cuối cùng của hai Cha, nguyện sẽ trân trọng gìn giữ hình ảnh của hai Cha cho hành trình của chúng con hôm nay và mai ngày.

Joshuy (học trò cuối)

***

CHA AN-BÊ-TÔ TRẦN PHÚC NHÂN VÀ NỖI OAN CÒN ĐÓ

Sáng 14-6-2014, còn chút thời gian tại Sài Gòn, tôi tranh thủ ghé thăm cha An-bê-tô Trần Phúc Nhân. Cửa phòng của ngài tại nhà hưu dưỡng linh mục Chí Hóa đóng chặt. Tôi bấm chuông hai lần, chỉ nghe được tiếng nói vọng ra từ bên trong, nhưng không thể hiểu được nội dung lời nói. Tôi thử vặn tay nắm cửa, nhưng chốt cửa cũng đã gài chặt. Tôi đành tới thăm cha Lu-y Trần Phúc Vỵ và nhờ cha Vỵ chuyển lời thăm cha Nhân. Trưa hôm đó, tôi nhận được tin cha Nhân đã từ trần. Bao nhiêu kỉ niệm về cha ùa về như trong những đoạn phim quay chậm. Tôi xin được lựa ra đây đôi ba đoạn kí ức nhỏ, như nén hương lòng để tưởng nhớ cha giáo kính yêu. 

Đôi mốc thời gian

Tuy sinh trưởng tại miền bắc, nhưng tôi lại có hân hạnh quen biết cha An-bê-tô Trần Phúc Nhân từ khá lâu, trong tương quan cũng khá đặc biệt.

Lần đầu tiên tôi được gặp cha An-bê-tô là vào năm 1989, khi cha về thăm quê hương Phát Diệm và nói chuyện với anh em tu sinh trẻ. Các vị hữu trách giới thiệu cha như là một học giả uyên thâm trong nhiều lĩnh vực. Anh em chúng tôi được phép nêu vài thắc mắc để cha giải đáp. Lúc đó tôi đang đọc cuốn Đời sống mới trong Chúa Ki-tô, nên đã đặt câu hỏi về Thánh Kinh với thuyết độc tổ và đa tổ. Cha đã trả lời như trong sách.

Giữa tháng 10 năm 1992, tôi thuộc nhóm mười anh em tu sinh giáo phận Phát Diệm được gửi vào Sài Gòn để hình thành một dạng chủng viện chui. Cha An-bê-tô Trần Phúc Nhân lãnh trách nhiệm làm giám học với một ban giáo sư đông hơn số chủng sinh. Kể từ đó cho tới khi rời Sài Gòn vào năm 1999, cùng với anh em, tôi được cha giáo ân cần dìu dắt. Dường như cha giáo cũng dành cho tôi một sự quan tâm ưu ái đặc biệt.

Quả thật, thời gian được thụ huấn bên cha giáo cùng với những nâng đỡ đầy yêu thương đã dệt nên giữa cha giáo và tôi một tương quan gắn bó thầy – trò như tình phụ – tử.      

Vài ba biệt lệ

Trong suốt thời gian được học hành tại Sài Gòn, cha giáo đã dành cho tôi khá nhiều biệt lệ.

Ngay từ những năm đầu theo chương trình triết học, cha đã khích lệ tôi học tiếng Hi-lạp Tân Ước. Vốn kiến thức tiếng Hi-lạp học được từ cha giáo đã là nền tảng căn bản giúp tôi đi xa hơn khi có dịp nghiên cứu chuyên sâu về Kinh Thánh. Khi tới học tại Học Viện Công Giáo Paris, tôi đã có thể dễ dàng bỏ qua năm đầu để bắt đầu môn tiếng Hi-lạp năm thứ hai, rồi với hành trang đó, tôi đã vượt qua kì thi môn cổ ngữ Hi-lạp tại Viện Thánh Kinh Rô-ma.

Ngoài việc cho phép tôi học thêm tiếng Hi-lạp, cha giáo đã luôn khích lệ tôi duy trì và trau dồi ngoại ngữ, đặc biệt là vốn tiếng Pháp đã học ở đại học. Cha đã uốn nắn cách phát âm, đã tạo cơ hội cho tôi sử dụng tiếng Pháp. Đặc biệt, năm 1995, cha cho phép tôi được học song song chương trình thần học và chương trình Anh ngữ tại Đại Học Tổng Hợp, cùng với lời nhắc nhở: “Tôi cho anh đi học đại học, nhưng tôi sẽ theo dõi. Nếu điểm các môn thần học của anh bị thấp xuống thì anh sẽ phải nghỉ chương trình đại học ngay lập tức.”

Sau một năm theo dõi, năm 1996, cha lại khuyên tôi theo môn tiếng Híp-ri. Điểm lại bàn bè đồng môn trong khóa học này, tôi nhận thấy khá nhiều anh chị em đang đảm nhận những nhiệm vụ quan trọng tại giáo phận hay dòng tu của mình. Tôi không dám cho rằng điều đó là kết quả của môn tiếng Híp-ri năm nào, nhưng tôi nghĩ có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng những anh chị em đó đã ít nhiều chịu ảnh hưởng từ những năm tháng theo học với cha giáo.

 Phải nói thêm rằng bận tâm lớn của cha giáo trong nhiều năm trời, nhất là vào những thời điểm khó khăn, là lo đào tạo những chuyên viên trẻ về Kinh Thánh. Trong số những người đang giảng dạy Kinh Thánh ở Việt Nam hiện nay, không ít người đã từng là học trò của cha giáo.

Và nỗi oan của cha giáo

Tôi nghĩ mình đã hơi lan man dài dòng, đã kể về cái tôi hơi nhiều, nhưng mối thâm giao đặc biệt cùng với những năm dài thụ huấn với cha giáo khiến tôi thấy mình có thẩm quyền và trách nhiệm giải oan cho cha giáo.

Đi đâu tôi cũng thường nghe người ta đồn thổi, thậm chí đặt vè về ác mộng mang tên Trần Phúc Nhân. Nào là cha Nhân bắt học đúng từng dấu chấm dấu phẩy, nào là cha Nhân bắt học đúng từng câu từng chữ theo sách cha viết.

Tôi đồng ý là cha giáo rất kĩ lưỡng khi ra đề và chấm bài thi. Tôi đồng ý là cha giáo soi xét từng con số, từng dấu chấm, dấu phẩy trong các bài làm. Nhưng đổ cho cha giáo cái tội bắt học trò học từng dấu chấm dấu phẩy là đổ oan cho cha giáo. Tôi đã học rất nhiều môn với cha giáo trong suốt bẩy năm trời, từ năm 1992 tới năm 1999, tôi chưa bao giờ học thuộc lòng một bài học nào của cha giáo. Thường thường, tôi chỉ học các ý chính trong một bài, rồi khi làm bài, tôi viết lại các ý đó theo lối văn của mình. Thế mà điểm số của tôi thường khá cao, thậm chí có những lần cha giáo đã cho tôi điểm tối đa. Tôi đã nói chuyện này với một vài anh em linh mục từng học với cha giáo, những anh em này cũng đồng ý với nhật xét của tôi.

Phải nói rằng cha An-bê-tô Trần Phúc Nhân là người rất cẩn trọng trong việc đào tạo nhân sự cho Hội Thánh. Với những ai quen biết, đặc biệt là với học trò, cha luôn tận tình chỉ bảo từng chi tiết nhỏ. Khi viết lách, cha lựa chọn câu chữ rất kĩ càng. Giáo trình của cha cũng được viết rất cẩn thận. Vì thế, học trò làm bài với cha mà viết lách lôi thôi về câu cú hay từ ngữ, hoặc nội dung bài làm thiếu sót, nếu có bị “chỉnh” thì cũng phải coi là chuyện bình thường. Sự cẩn trọng của cha toát lên tình yêu và trách nhiệm đối với Hội Thánh.

Nhưng ngay cả một người luôn đòi hỏi sự rành mạch và rõ ràng trong ngôn ngữ cũng đến lúc không thể nói những câu đơn giản một cách mạch lạc. Sáng ngày 14-6-2014, đứng ở cửa phòng cha, tôi chỉ còn có thể nghe thấy từ bên trong phát ra những âm thanh yếu ớt, không còn tròn vành rõ chữ. Đó âu cũng là giới hạn của kiếp người. Sinh thời, cha giáo từng băn khoăn tìm kiếm lớp người kế tục. Thế hệ học trò nên tiếp tục công việc của cha giáo, như một vế đối thời xưa nhắc nhở : “Phụ nghiệp tử năng thừa”.      

                                                       Vinh-sơn Trần Minh Thực

 

Nghĩ về Cha Alberto…

 Cha kính mến,

Cũng sáu hay bảy năm rồi, Cha nhỉ, con mới gặp lại Cha, mà lại là lần … cuối cùng!

Trưa Chúa Nhật rồi, từ B.C. trở lại Saigon, việc đầu tiên con làm là vào mạng check mail, thì bất ngờ biết tin Cha qua đời hôm Thứ Bảy trước đó. Năm ngoái, cũng ngày 14 tháng 6, và cũng vào dịp con có mặt ở Saigon này, một cha bạn con qua đời. Năm nay, một cha thầy!

Cha ra đi lặng lẽ quá.

Con bỗng tiếc. Tiếc cho cả nhóm Xuân Bích chúng con nữa. Nếu hôm đầu tuần, chúng con nhớ đến Cha và tạt lại Chí Hòa ghé thăm Cha trước khi đi Hố Nai thăm Cố Hiển và Cố Anh (cũng đang gần đất xa trời) trên đường đi tĩnh tâm thường niên ở Vũng Tàu, thì hay biết mấy. Nhưng chúng con đã không nhớ – và đã lỡ mất dịp chào đưa chân Cha rồi! Cha không phải là người bạn / người thầy ‘vàng ròng’ chung thủy gắn bó với Xuân Bích Việt Nam, cách riêng với Đại Chủng Viện Huế, gần ngót nửa thế kỷ rồi đó sao?

Cha ạ, giữa hàng ngàn môn sinh của Cha qua ngần ấy tháng năm, con chỉ là một anh học trò ‘đẻ non’, muộn màng. Nhưng con tạ ơn Chúa, vì được làm học trò của Cha trong những năm đầu thập niên 90 ấy ở Saigon này, và về sau còn được vinh dự tập tễnh làm đồng nghiệp của Cha tại Huế nữa.

Nghĩ về Cha, nhiều người sẽ ngưỡng mộ một con người biết hàng chục thứ tiếng, cả sinh ngữ lẫn cổ ngữ, một con người từng du học bên Tây trên chục năm, hay một chuyên viên Thánh Kinh gạo cội vốn là trụ cột của Nhóm PVCGK từ thuở nhóm này mới chào đời, hay thành viên của một gia đình thuộc hàng kỷ lục trong việc cung cấp cho Giáo hội những ơn gọi linh mục tu sĩ, hay một cố vấn cho một Thánh Bộ của giáo triều… Thực là những vòng hào quang lung linh lấp lánh.

Nhưng với riêng con, ấn tượng Cha để lại trong con trước nhất và sâu đậm nhất lại không phải là bất cứ thứ nào trong những thứ ấy – mà là những điều khác, kín đáo và giản dị hơn, song thực sự còn lấp lánh hơn rất nhiều.

Cha là một linh mục giáo phận, và người ta sẽ gặp ít nhiều khó khăn để nói Cha là một hình mẫu của một linh mục giáo phận, bởi gần như trong suốt đời linh mục của mình, Cha không làm cha sở, Cha hầu như không sống giữa dân chúng và không làm việc trực tiếp với các tầng lớp dân chúng. Song trong sứ vụ chuyên biệt – hay trong đặc sủng – mà Chúa mời gọi Cha, sứ vụ của một chuyên viên, một nhà giáo, Cha đã đàng hoàng cống hiến một hình mẫu, rất sâu và rất đậm, không chỉ cho các đồng nghiệp, các môn sinh, mà con nghĩ: cho mọi người.

Thác là thể phách, còn là tinh anh.

Nét lấp lánh đặc biệt trong “tinh anh” của Cha, đó là Cha đã sống một đời sống hết sức giản dị, khó nghèo. Ai từng biết Cha hay ở gần Cha, sẽ chẳng cần giải thích nhiều. Như một vị nào đó ở Tu viện Mai Khôi, 44 Tú xương, có lần thốt lên: “Ngài không khấn khó nghèo như chúng tôi, song ngài là bậc thầy của chúng tôi về đời sống khó nghèo, siêu thoát!”

Phần con, những gì nhận được từ Cha và lắng đọng trong con sâu xa nhất không phải là những kiến thức về Sáng Thế, về các Ngôn Sứ hay các Thánh Vịnh, mà chính là những mẩu giấy vụn, với đủ kích thước và hình thù mà Cha cắt ra từ các phong thư cũ, tận dụng các chỗ còn trống để ghi ‘notes’ khi chấm bài cho đám học trò chúng con. Còn những mẩu bút chì Cha dùng thì chỉ bị quăng đi khi đã gọt đến còn quá ngắn, chừng hơn đốt ngón tay, không còn có thể cầm và viết được nữa! Quần áo, đồ đạc, túi xách… và mọi thứ nơi Cha đều đơn sơ giản dị như thế.

Cũng vì in trí nét giản dị của Cha mà năm ấy, khi là ‘tân binh’ ở Huế, con đã mắc lừa bởi một anh bạn tinh nghịch. Chuyện như vầy: Lớp Thần IV chúng con ở tầng ba, nhà A, nơi có phòng của Cha ở cuối dãy. Hôm ấy Cha mới từ Saigon ra. Sau giờ chơi thể thao buổi chiều, anh chàng nọ ập đến chỗ con, nghiêm giọng: “Nè anh Đ., Cha Nhân nhắn mượn cái quần đùi của anh để tắm. Ngài quên đem quần đùi. Anh mang lại phòng ngài nhé!” Thế là không chút nghi ngờ, con lon ton cầm cái quần đùi đi đến phòng Cha, may mà chưa kịp gõ cửa thì hắn ta đã phá lên cười ngặt nghẽo phía sau lưng mình. (Cha thấy đó, đúng là nhất quỉ nhì ma…!)

Đức khó nghèo theo Tin Mừng là một cái gì ngày càng xa xỉ, Cha à. Cha ra đi, lỗ hổng Cha để lại to lắm đó! 

Cũng lấp lánh không kém trong ‘tinh anh’ của Cha, đó là thái độ cần mẫn, tận tụy hết mực với công việc của mình, và với những người mà mình phục vụ. Chấm bài cho học trò, Cha không chỉ lướt qua nội dung, mà soi đến từng dấu chấm, dấu phẩy, cú pháp, cách dùng từ, soi đến cả nét chữ nữa. Và để bảo đảm sự công tâm khi cho điểm, Cha chấm một mạch hết câu thứ nhất cho mọi bài, rồi mới trở lại chấm câu thứ hai, rồi câu thứ ba… Cũng chính vì sự nghiêm cẩn nghề nghiệp và tinh thần tận tụy với trách nhiệm người thầy mà – Cha thừa biết – Cha đã là ‘nỗi ám ảnh’ cho đa số những ai từng học với Cha. Con tự hỏi, trong ngót 50 năm dạy học, không biết Cha có sưu tập những bài vè, bài thơ não nùng ai oán kiểu này không: *

Ôn Thánh Vịnh, mắt mờ, miệng mỏi

Tiếng ve sầu inh ỏi, nỉ non

Chưa thi, thân đã gầy còm

Thi rồi chẳng biết hình hài còn không.

Buồn vì nỗi răng nhiều bài rứa

Học xong rồi, mà thấy như không

Ui chao, sách vở chất chồng

Bốn hai Thánh Vịnh Hương Trầm + Phụ trương!

Biết Cha mình có thương không nhỉ

Đoái nghe lời rên rỉ thở than

Mai sau vui hưởng Thiên đàng

Gặp nhau chắc sẽ dễ dàng chào nhau […]

Cha ơi Cha, có thầy bị sốt

Suốt mấy ngày lửa đốt tâm can

Lẽ nào Cha vẫn không màng […]

Cha ra Huế, mấy tuần chớ mấy

Nỡ nào đành nhìn thấy con đau

Vì Cha bắt học thuộc làu

Hương Trầm như nước ngập đầu con thơ…

Đám học trò của Cha, nam nhi chi chí, mà đỏng đảnh nũng nịu vậy đó. Ai bảo trong nỗi ‘ngán’ và ‘sợ’ ấy không có một cái tình rất là mật thiết?

Ngày mai, sẽ là Thánh Lễ cuối cùng. ‘Thể phách’ Cha sẽ được đem đi đốt. Nhưng ‘tinh anh’ của Cha sẽ còn đọng lại dài lâu. Chúng con cầu nguyện cho Cha. Và Cha cũng cầu nguyện cho chúng con, Cha nhé.

THIÊN PHONG

 * xin lỗi tác giả bài thơ vì ở đây có sửa vài từ!

 

Còn đó một bóng hình

Xứ Huế, mùa mưa…

Gió đưa mây che tím trời chiều,

Đem mưa về gội trắng giòng Hương.

Đường Kim Long lác đác người vội vã trốn mưa sa.

Ấy thế mà, bên trong bức tường kia, tiếng hò hét của đám thanh niên lại vang lên đầy khoái trá. Dường như, gió không cản được sức trai Phù Đổng. Mưa không dập tắt được niềm đam mê trái bóng. Ốm đau ư, cảm lạnh ư, để sau hãy tính…

Nhìn trời, nhìn gió, nhìn đám thanh niên trai tráng, lòng ông không yên. Mưa sa, gió lạnh, sao lòng ông vẫn cảm thấy nóng. Cầm vội chiếc ô, đội gió, đội mưa, ông bước vội về phía sân bóng. “Thôi, các thầy ơi, đừng chơi nữa, vào kẻo đau thì khổ”… “Dạ, thưa cố”… Không ai bảo ai, sân mưa dần vắng bóng người…

Kỳ lạ thật! Mưa gió không thể ngăn những đôi chân ngừng bật nhảy, ấy thế mà chỉ một câu nói nhẹ nhàng của ông cũng đủ làm cho những đôi chân ấy dừng lại, những khối óc đang sôi sục ấy phải nguội đi. Sức mạnh nào vậy!… Thưa vì đó là tiếng nói yêu thương của một người cha. Một người cha hiền rất đỗi yêu thương đoàn con, và mong ước những gì tốt đẹp nhất cho chúng. Diệu kỳ thay sức mạnh của tình thương!

Đến đây, có lẽ nhiều độc giả đã đoán ra ông già đội ô dưới mưa ấy là ai rồi. Không ai khác, đó chính là cha cố Antôn kính yêu. Còn đám thanh niên là các thầy Đại chủng viện, những môn sinh của cố.

Thú thực, tôi không phải là một phần tử trong đám thanh niên thuở nào, cũng không phải là kẻ “mục sở thị” biến cố ấy. Tôi chỉ là đàn em hậu sinh nghe đàn anh kể lại. Thế nhưng, hình ảnh người cha già dưới mưa ấy lại lưu dấu đậm nét trong tâm trí tôi lúc tôi mới chập chững bước vào Đại Chủng Viện Huế. Đẹp biết bao hình dáng người thầy – người cha vì đàn con!

Khi tôi vào Chủng viện, cố đã lên chức “thái thái thượng hoàng” và không còn hiện diện thường xuyên nơi mái nhà chủng viện thân thương đong đầy kỷ niệm. Cố đã xa Huế, xa giòng Hương, xa mảnh đất “thần kinh” mưa thúi đất, nắng nẻ đầu này. Tôi không còn được thấy cố làm lễ, không còn được nghe cố giảng, không còn được nghe cố huấn đức, và đặc biệt không còn được học môn Giáo phụ với cố nữa. Môn học vốn không dễ nuốt nhưng ai cũng muốn được học với cố vì cố rất uyên thâm về tư tưởng các thánh giáo phụ, và vì học với cố thì ít người phải thi lại. Nghe đâu, cố rất khoái Augustinô và Irênê, thầy nào “học tủ” hai vị này thì hầu chắc sẽ không sợ bị “tái khám”. Thế là, có biết bao điều hay lẽ phải mà lớp hậu sinh chúng tôi không được lĩnh hội nơi cố.

Tuy vậy, tôi cũng còn may mắn được học với cố môn Tôn giáo học. Ngày trở lại, dù tóc đã bạc, lưng đã còng, bước đi không còn khỏe nhưng đôi mắt cố vẫn rất sáng, giọng nói vẫn còn sang sảng và đôi môi luôn lấp ló nụ nười. Nụ cười đôn hậu, dịu dàng và rất đỗi trìu mến, biểu tỏ một nội lực thâm sâu sau những năm tháng tu luyện trong trường học của Thầy Giêsu chí thánh. Cố vẫn còn rất trẻ trung yêu đời khi tập hát cho chúng tôi bài Inch Allah. Ở tuổi thất thập nhưng cố vẫn xướng âm và tập hát quá chuẩn. Cố còn bảo chúng tôi diễn kịch theo lời bài hát để cố xem. Nhìn chúng tôi diễn, cố ngồi cười một cách thích thú. Và thế là, cứ mỗi cuối giờ tiết Tôn giáo học của cố, bài hát Inch Allah lại vang lên. Cả cố và đoàn con cùng nhau hát khen Thượng Đế.

Nhìn cố vui tươi trong tuổi già y như “ông tiên vui” mà đám trẻ con thường nhắc đến. Thấy cố là thấy niềm vui. Niềm vui sâu xa của một tâm hồn đã gặp được Chúa Giêsu biến đổi và được “niềm vui của Tin mừng đổ đầy”. Quý giá biết bao khi được sống bên những chứng nhân niềm vui như thế!

Giờ đây, cố đã đi xa thật rồi, đi về đàm đạo cùng các thánh giáo phụ, đi về gặp gỡ Niềm Vui Bất Diệt. Thế nhưng, hình ảnh về một người cha đôn hậu, một người thầy tận tụy vẫn còn đọng mãi trong tâm trí của bao thế hệ môn sinh học trò.

Chiều nay, xứ Huế, mưa rơi …

Sóng nước Hương giang vỗ dập dìu.

Bên trong bức tường ấy, đám thanh niên vẫn hò hét.

Đâu đó, thấp thoáng một bóng hình….

 Tiểu Sinh



Nhớ mãi nụ cười của Cố!

 Thứ Tư, 18.6.2014 

Buổi sáng, Thánh Lễ an táng Cha Trần Phúc Nhân tại Chí Hòa, trong số khoảng hai trăm linh mục đồng tế có sự hiện diện của các linh mục Xuân Bích đang có mặt ở Saigon và vùng lân cận: các Cha Hiệp, Đán, Hoan, Thậm, Nhân, Thứ, Thực, và mình. Người quá cố là một người bạn thiết nghĩa của Xuân Bích.

Buổi chiều, trên đường ra sân bay trở về Huế, hai Cha Thứ và Thực gọi cho mình, báo tin: “Cố Hiển đang trên đường về Chu Hải, vì các bác sĩ ở Bệnh viện Thánh Tâm (Hố Nai) cho biết ngày giờ của ngài rất gần rồi…” Khoảng 8 giờ tối, mình nhận được email của Đức Cha Long từ Hưng Hóa: “Cha cố Antôn Trần Minh Hiển đã an nghỉ trong Chúa lúc 6 giờ 30 chiều nay.” Mình bất giác tự hỏi: Chúa có ‘coi ngày’ không đó? Những ngày này là những ‘ngày tốt’ cho Thiên đàng đến vậy sao? 

Cha cố Antôn, niên trưởng Xuân Bích VN, đã ngã bệnh nặng từ ba tháng nay, việc Cố ra đi không làm ai bất ngờ. Nhưng mất Cố vẫn thấy như là ‘mất hồn’. Mất rất nhiều, nhiều lắm!

Xuân Bích Việt Nam và bao lớp học trò của Cố đó đây không còn nữa người anh, người cha, người thầy hiền lành, khiêm tốn, nhỏ nhẹ, ân cần, luôn đầy một tấm lòng như mẹ hiền.  

Nếu phải nói về sự mất mát này bằng một hình tượng, mình chợt nghĩ đến nụ cười của Cố.

Mất Cố Hiển là mất nụ cười rất hồn hậu, dễ thương ấy, nụ cười gần như thường trực trên khuôn mặt cương nghị nhưng hiền lành và phảng phất nét khắc khổ ấy, nụ cười vẫn bất khuất trước những cơn đau rúc rỉa tấm thân tàn tạ ấy của vị linh mục phải chống chọi với đủ thứ bệnh hoạn ở tuổi xế chiều. 

Mười ngày trước, ghé thăm Cố tại giường trong phòng bệnh viện, mình nắm tay Cố và cảm nhận Cố nắm bàn tay mình rõ chặt, trong khi Cố nhìn vào mắt mình, vẫn với nụ cười ấy! Và đó là lần cuối! 

Mình gặp và biết Cha cố Antôn lần đầu tiên vào đầu thập niên 2000, lúc ấy mình đang làm ‘phòng bộ’ tòa giám mục ĐN và được chỉ định tháp tùng Cố trong chuyến đưa hai Cha XB Mỹ đi thăm Phố Cổ Hội An. Phố Cổ là phố đi bộ – thế là, chủ và khách lội bộ ròng rã qua các con phố, thăm các cửa hiệu, các di tích, các nhà trưng bày, các cảnh quan… Hai vị khách xem chừng thích thú lắm, thích thú cả với những gì được xem lẫn với cái món ‘đi bộ’ này. Mình thì năm ấy còn khá ‘trai trẻ’, nên dẫu thế nào cũng “xa va”. Chỉ có Cố thật tội nghiệp. Cố bị gai cột sống nên phải bước đi lom khom, và trong suốt ba tiếng đồng hồ Cố phải khó nhọc trong mỗi bước như vậy, ráng theo kịp hai ông Mỹ có chân rất dài và sải bước rất nhanh (hai vị, một đương kim tổng quyền và một tổng quyền tương lai của XB, lúc ấy chưa phát hiện ra sự khổ sở của Cố Hiển!) Thế mà, mỗi lần mình hỏi Cố mệt lắm không, Cố chỉ mỉm cười, nhỏ nhẹ: “Không mệt đâu, mình đi được mà!” Cố tận tình hiếu khách như vậy đó!  

Ít lâu sau, mình nhập ĐCV Huế, được gặp lại Cố và được thưởng thức nụ cười ấy của Cố hằng ngày. Là giám đốc chủng viện, nhưng nhìn Cố giống như một bác quản gia hơn. Y phục tuềnh toàng, cũ sờn, đội nón lá, Cố thường lui cui đâu đó trong vườn, chăm sóc ‘cây cá cảnh’, hoặc ở một góc nhà chơi, hì hụi dọn dẹp hay sửa chữa món gì đó, hoặc trò chuyện với nhóm công nhân xây dựng (chủng viện thường có những hạng mục xây dựng, sửa chữa). Và ở đâu cũng vậy, ai gặp Cố, hầu như luôn gặp thấy cùng một nụ cười. 

Cố giảng dạy trên lớp cả Tín lý và Giáo phụ. Giáo trình của Cố biên soạn thật … nặng ký (cả theo nghĩa đen!) Giáo phụ là một trong số các môn mình còn thiếu và cần bổ túc, vì thế mình không chỉ theo học và làm bài trên lớp, mà còn phải làm một số bài riêng với Cố nữa. Mình còn nhớ cảm giác choáng váng khi Cố trao cho mình mấy quyển Giáo phụ học dày cộm kèm với một lô lốc các Phụ trương. Phen này là ‘từ chết tới bị thương’ đây! Mình cắm đầu học như điên suốt mấy tuần, nhưng vẫn không đủ tự tin. Đến ngày hẹn làm bài, buổi sáng, mình tình cờ gặp Cố đang loay hoay chỗ công trình xây dựng phía sau nhà nguyện. “Cố ơi, chiều nay lúc 2 giờ con đến phòng Cố làm bài Giáo phụ nhé!” Cố cười cười, nhìn mình, và nói nho nhỏ như sợ ai nghe thấy: “Ờ … ông nên xem kỹ cách riêng chương về Augustinô nha”. Quả thật, chiều hôm ấy, đề bài Cố đưa cho mình là về… Augustinô! Ôi, con thương Cố nhất trần đời, Cố ơi! 

Sau này, Cố thôi làm giám đốc chủng viện, về nghỉ hưu trong nam, song vẫn tiếp tục ra Huế giảng dạy hằng năm. Còn mình, sau chịu chức ít lâu, đi học về, có chân dạy học ở ĐCV Huế, rồi mình nhập XB, lại đi học lần nữa và về thường trú hẳn ở chủng viện, càng có duyên tiếp tục gặp Cố và tiếp tục gặp nụ cười ấy của Cố, trong những dịp Cố ra chủng viện hay những dịp họp mặt, tĩnh tâm XB hằng năm.  

Hè năm rồi, Cố vẫn lặn lội mang nụ cười ấy lên Đà Lạt tham dự kỳ tĩnh tâm thường niên XBVN. Hình như có linh tính gì đó, nên dịp này Cố đã tặng cho mỗi anh em XB một bản copy luận văn của Cố ngày xưa. Một món quà từ giã? Mới đây hơn, hồi sau Tết âm lịch, Cố vẫn đến được với một số anh em dịp họp mặt đầu năm tại Nhân Hòa, Saigon. Hè năm nay, Vũng Tàu được chọn làm địa điểm tĩnh tâm cũng bởi vì để thuận tiện cho Cố Hiển tham dự. Nhưng Cố không còn đủ sức nữa rồi! Mình nhớ hình như đây là lần đầu tiên Cố vắng mặt trong một dịp như vậy. 

Và Cố sẽ không bao giờ có mặt với mọi người được nữa!

Nụ cười ấy của Cố đã đi về trời, như chính cuộc đời tận tụy của Cố đã trở thành của lễ hiến tế dứt khoát chiều nay.

 

“Con xin làm của lễ hiến dâng trên bàn thờ…

Con xin làm tôi tớ sống cho muôn con người,

đôi tay rộng yêu thương ôm trọn mọi khó nghèo.

Đời con xin là muối, là men cho trần gian,

niềm vui hay khổ đau tháng ngày xin hiến tế.

 

 Vì Ngài đã gọi, thì con đây xin đến hiến dâng đời con.

Vì Ngài đã chọn, thì xin thương đón lấy tấm thân mọn hèn.”

 THIÊN PHONG

 

 

trở về (Kỷ niệm tháng sa mạc)

Tháng sa mạc là khoảng thời gian ý nghĩa nhất mà tôi đã trải qua khi tôi còn ở năm Tu Đức. Nó cho tôi một trải nghiệm thực sự về bản thân mình. Đối với tôi, đó là một cuộc trở về cả thể xác lẫn tâm hồn trong hành trình đi tìm thánh ý Chúa.

Tôi còn nhớ những ngày đầu chân ướt chân ráo bước vào Chủng Viện, nhìn sơ qua lịch tổng quát của cả năm học, tôi thấy mình sẽ phải tham dự một kỳ linh thao dài ngày gọi là Tháng Sa Mạc, lúc ấy trong đầu tôi liên tưởng ngay tới hình ảnh của một vùng đất toàn cát, bụi, nắng và gió. Vốn là một người thích tưởng tượng, tôi hình dung ra những điều mình sẽ làm trong tháng sa mạc này: nào là hy sinh hãm mình khổ chế, ăn uống nghiêm ngặt, ngồi bất động cầu nguyện như những người ngồi thiền và rất nhiều thứ linh tinh khác nữa. Tôi tưởng mình như sắp thành thánh Gio-an Tẩy Giả đến nơi. Nhưng chỉ ít lâu sau, qua dò hỏi, tôi mới vỡ mộng vì sẽ chẳng có một tháng sa mạc nắng gió nào hết, nơi tôi đến sẽ là một một đan viện cũng không xa Chủng Viện cho lắm. Tuy có hơi buồn vì không đúng như mình nghĩ, bởi tôi vẫn luôn mong muốn một lần trong đời được trải nghiệm cảm giác sống và cầu nguyện trong sa mạc như khi xưa chính Chúa Giê-su đã trải qua, nhưng tôi cũng rất háo hức chờ đợi tháng sa mạc này.

Chúng tôi khởi hành vào một buổi chiều đẹp trời, bỏ lại chủng viện sau lưng với những sinh hoạt quen thuộc hằng ngày. Vì đoạn đường cũng khá gần nên lớp chúng tôi đều đi xe đạp cả. Ba mươi mốt con người là ba mươi mốt tâm tình không ai giống ai. Chúng tôi dừng lại trước tấm biển ghi hàng chữ ĐAN VIỆN THIÊN AN. Thiên An, cái tên mới đọc lên đã thấy gần gũi và ấm áp rồi. Đan viện nằm trên đỉnh đồi nên chúng tôi lại lọc cọc đạp xe lên, riêng tôi và một số anh em quyết định dắt bộ, một phần vì mệt, một phần cũng muốn ngắm nhìn cảnh vật chung quanh. Theo nhận định ban đầu của tôi thì đây đúng là một nơi lý tưởng để tu hành theo đúng nghĩa của nó. Khắp nơi chỉ toàn thông là thông và những thảm dương xỉ xanh mát trải rộng khắp ngọn đồi, thêm vào đó là những hoa dại ven đường lại càng làm cho nơi đây tăng thêm vẻ thơ mộng. Tôi nghĩ thầm trong đầu rằng nếu tôi mà được ở đây lâu ngày lâu tháng, chắc tôi sẽ cho ra đời một tác phẩm văn chương để đời chứ chẳng chơi. Ấy là tôi chỉ nghĩ thế thôi chứ tôi cũng biết mình chẳng bao giờ làm được. Càng lúc tôi càng thấy ấn tượng với nơi này. Tôi bỗng nhớ đến một câu trong bài thơ Cảnh Nhàn của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn, người đến chốn lao xao”.

Tôi tự hỏi rằng các thánh ẩn tu ngày xưa chắc phải “dại” lắm nên mới tìm đến những nơi rừng rú vắng vẻ để tu luyện. Tôi cũng đang đi theo “vết xe đổ” của các thánh đây, nhưng chỉ có điều là các thánh là những người đã gặp được Chúa, còn tôi thì … liệu có làm nên trò trống gì không? Sau khi ổn định phòng ốc và ăn bữa cơm chiều, tôi đi dạo loanh quanh Đan Viện, không khí thanh bình và yên lặng quá! Nếu lắng tai để ý, ta có thể nghe được âm thanh của những chiếc lá rơi. Từ trên cao nhìn xuống, quang cảnh mờ nhạt trong ánh hoàng hôn làm cho lòng tôi như cảm thấy chùng xuống. Đây là nơi mà tôi sẽ trải qua một tháng sa mạc ư, khác xa những gì mà tôi có thể tưởng tượng ra. Chỉ riêng cái tĩnh lặng nơi đây cũng đủ làm cho tôi muốn trở về với chính bản thân mình, tôi muốn soi mình trong bóng lặng của dòng đời để nhìn lại chặng đường ơn gọi mà tôi đã đi qua. Giữa một thế giới luôn ồn ào và vội vã, những giây phút được ngồi trầm tư một mình đề suy nghĩ về cuộc đời thật đáng quý biết bao. Bao nhiêu vị thánh đã gặp được mình trong những giờ phút như thế, để rồi gặp được Chúa. Qua những ngày ngắn ngủi ở Đan Viện, tôi mới nghiệm ra một điều là từ trước tới giờ, tôi chưa bao giờ dành thời gian để nhìn lại chính mình. Phần lớn thời gian trong ngày tôi tất bật với mọi công việc bổn phận, đôi lúc rảnh rang thì tôi nghe nhạc hoặc làm vài việc lặt vặt theo sở thích, tôi chẳng để cho tâm trí mình được yên ổn lúc nào, có thể nói tôi thuộc típ người sợ sự im lặng.

Tâm điểm của tháng sa mạc là tuần linh thao tám ngày. Không hiểu sao những ngày này trời mưa nhiều, buổi sáng sương mù giăng đầy trời, không khí lạnh buốt như đang giữa mùa đông. Tám ngày là tám trang sách đặc biệt trong cuốn nhật ký của cuộc đời tôi. Tôi đã không thể ngăn được những giọt nước mắt khi nhìn lại tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho tôi, và nhìn lại sự vô tâm trong thái độ đáp trả của mình. Tôi có cảm tưởng mình như người mộng du, đang bay bổng trong vùng trời ký ức. Trong cuộc du hành ấy, tôi gặp lại tôi của những ngày xưa ấy, tôi nhìn thấy bàn tay yêu thương của Chúa không ngừng che chở tôi.

Ấy thế mà nhiều khi tôi vẫn sống như chẳng biết gì đến sự hiện diện của Người…

Nhím Xù

TAM BIET  (Kỷ niệm tháng sa mạc) 

Thiên An đồi cao chiều lộng gió                

Ngàn lá thông reo vẫy tay chào   

Người đi trong nắng chiều đang xuống

Vương vấn nghẹn ngào phút chia tay

Cánh hoa ven đường như im lặng                       

Cúi đầu buồn bã những giọt sương

Tiếng gió khẽ đưa hồn se lạnh

Níu bước chân đi chẳng muốn rời

Mỗi sáng chim ngân ríu rít cành

Tưng bừng ca hát ngọn cây xanh

Giờ ta độc bước trên đường vắng

Gửi lại nơi đây một tiếng lòng

Mai đây nếu có ngày gặp lại

Lòng ta có chắc sẽ bồi hồi

Thôi vẫy tay chào Thiên An nhé

Hẹn ngày tai ngộ khúc tri ân.

                      MỘT LÒNG MỘT CHÍ

Một lòng một chí hô to

Anh em ta quyết sống cho bạn bè

Không được kết phái kết bè

Ai mà chia rẽ là “đè wuýnh ngay”

Thương nhau tay nắm bàn tay

Cùng nhau chia sẻ đắng cay ngọt bùi

Mỗi người là một niềm vui

Gần nhau thương mến bùi ngùi chia xa

Dẫu rằng không phải một cha

Nhưng tình thân đã như là anh em

Vinh hoa phú quý chẳng thèm

Đường danh vọng bước cũng xem bụi trần

Về đây từ chốn xa gần

Mỗi người một tính đâu cần giống nhau

Một lòng một chí mai sau

Thiên đường vinh phúc cùng nhau sum vầy.        

thơ Nhím Xù

khúc chia xa

 

Phút giây này làm sao nói hết!

Tháng năm dài ta vui sống bên nhau

Dưới mái trường dệt bài thơ kỷ niệm

Hương thời gian đắp đổi suối ân tình

 

Phút giây này làm sao nói hết!

Nghĩa thầy trò sâu lắng diệu huyền thay

Bao ước mơ cùng vun đắp dựng xây

Mang hy vọng cho mùa xuân Cứu Rỗi

 

Phút giây này làm sao nói hết!

Tình anh em như tiếng sóng êm đềm

Nhẹ nhàng ru cho giấc ngủ nồng thêm

Lời kinh nguyện quyện buồn vui chia sớt

 

Phút giây này làm sao nói hết!

Khóe mắt buồn vương ngấn lệ bờ mi

Mai xa nhau cùng hát khúc chia ly

Niềm thương nhớ gởi vào ô thiêng thánh

 

Phút thân tình dưới trời sao lấp lánh

Nguyện chúc nhau sống hạnh phúc yên hàn

Nẻo đường đời dù lắm lúc gian nan

Cùng sánh bước chẳng ngại gì mưa nắng

 

Mang tin yêu nở khắp miền hoang vắng

Suối an bình ta tắm mát ơn thiêng

Dẫu đường đời muôn vạn nỗi ưu phiền

Tình ta mãi thắm nguồn ơn thanh khiết.

 

                                 Tâm Nhi

 

***

cảm xúc …


Trong cuộc đời mỗi người, thời đèn sách có lẽ là quãng thời gian đẹp nhất, và khi xa rồi hẳn ai cũng bâng khuâng nhớ tiếc.

Đối với tôi, chính quãng thời gian hiện tại này, được sống và được học dưới mái trường chủng viện thật ý nghĩa và tuyệt vời biết bao. Mặc dù tôi mới chỉ là một chủng sinh năm thứ ba, nhưng những dấu ấn và những kỷ niệm về mái trường  chủng viện thật nhiều cung bậc cảm xúc khó tả. Ở nơi đây, tôi cảm nhận được một tình cha con, tình thầy trò thật nồng hậu, một tình anh em, bạn hữu rất thân thương. Thật cảm động nhìn hình bóng của những người cha, người thầy cả một đời hiến dâng cho lớp hậu sinh đang dõi bước. Những lời dạy, lời khuyên, những lời nhắc nhở, đôi khi thật nghiêm nghị, nhưng bao giờ cũng tận tình. Những hình ảnh và những tiếng nói ấy sẽ lắng sâu trong lòng bao thế hệ như hành trang đi vào tương lai cuộc đời.

Gần gũi ấm áp biết bao, những khuôn mặt của anh em. Chúng tôi là những người bạn thật sự của nhau dưới mái trường này. Từng giọng nói, nụ cười của anh em vang lên mỗi buổi chiều ngoài sân thể thao, có thể nào quên được? Tôi sẽ không quên những lúc anh em vào cuộc chơi hết mình, với đầy ắp tiếng cười rộn rã, cả những căng thẳng không tránh được của một trận thi đua.

Tôi yêu quí những Thánh Lễ hằng ngày, những giờ cầu kinh, nguyện ngắm. Đó là những khoảnh khắc thật linh thánh, khi tất cả cộng đoàn cùng chung một lòng hướng lên Chúa trong tiếng hát, lời kinh. Một không gian như ngừng thở, tất cả cảnh vật và con người trở nên hoàn toàn tĩnh lặng cho những giờ phút thần nhiệm nhất của ngày. Ôi! Thật là thánh thiện.

Và những giờ bách bộ, đi dạo với nhau nữa, thật ấm cúng và thật vui. Người đi tới, người đi lui, rồi người đi lui, người đi tới, với những câu chuyện thời sự giật gân, những tranh luận sôi nổi, chen lẫn những tiếng cười. Những khoảng khắc giúp anh em chúng tôi hiểu nhau và cảm thông cho nhau thật nhiều.

Tôi sẽ không quên những lần mình đau ốm, với những lời hỏi thăm, động viên của các cha, của anh em hằng ngày, bên cạnh những cử chỉ quan tâm chăm sóc, những tô cháo anh em mang đến phòng bệnh cho mình… Quả thật, một mái ấm gia đình thật sự đang hiện diện với tôi khi tôi đang xa nhà. Tôi thật sự hạnh phúc trong đời sống này, ở giữa những người anh em, những người bạn chân thành cùng chung chí hướng. Lúc vui hay lúc buồn, khi hăng hái hay khi mệt mỏi, tôi cảm nhận anh em luôn ở bên mình. Những thành công và thất bại, những cảm thông và cả những hiểu nhầm lúc này lúc khác… tất cả trở thành phương thế và khí cụ mài dũa con người tôi nên sắc bén và cứng cáp hơn. Ôi những tháng năm thật đẹp. Tôi tạ ơn Chúa và tự nhủ mình dù mai sau có thế nào, mình cũng sẽ chẳng bao giờ quên.

Gk. Phạm Chiến – Triết 2

KHÔNG ĐỀ      (truyện)

 ‘Ngày xửa ngày xưa’, ở giáo xứ nọ, có một cậu bé ngày ngày chăm chỉ đến trường, tối tối siêng năng đi học giáo lý với những đứa bạn cùng trang lứa. Cậu có tâm hồn đơn sơ yêu thương mọi người. Thấy cậu hay hay, bố mẹ và cha xứ đã ấp ủ giùm cậu một giấc mơ – mà lúc này cậu chưa hiểu. Để cho cậu đến gần với giấc mơ, bố mẹ gợi ý cho cậu vào ở với cha xứ, cậu lấy làm thích thú.

Rồi thời gian trôi, cậu lớn dần lên trong lời cầu nguyện của bố mẹ và mọi người. Là một cậu bé bình thường như bao đứa trẻ khác, cậu có nhiều bạn bè, nhưng trong số đó cậu thân nhất với một nhỏ bạn. Nhỏ rất dễ thương, với tóc bó đuôi gà, đôi mắt đen huyền tròn xoe, miệng chúm chím hay cười… Ngày ngày hai đứa vẫn chung trường, chung lớp, chung đường đi. Thời gian cứ lặng lẽ trôi, cây cỏ hoa lá hai bên đường ngày ngày vẫn chào đón đôi bạn trẻ trên hai chiếc xe đạp. Rồi những nhớ thương vấn vương len lỏi đến với cậu, trong cả những giờ học, hay những khi không gặp nhỏ bạn…

Những ngày tháng thiêng liêng nhất của tuổi học trò đang đến rập rình trước cổng trường, cùng với mùa thi. Trang vở bắt đầu có những nét chữ khác lạ. Ai từng là học trò hẳn biết niềm xao xuyến bồi hồi khi những con ve thức giấc, khi những cánh phượng bừng nở đỏ rực sân trường. Tiếng ve kia inh ỏi là thế mà vẫn được cảm nhận là những bản nhạc du dương; những cánh phượng rực lửa là thế mà vẫn cứ thấy là phượng buồn… Có những điều mà chỉ học trò mới hiểu!

Hôm ấy, cũng như mọi hôm, cậu và nhỏ bạn vẫn song song đến trường. Cảnh vật hai bên đường vẫn vậy, nhưng cậu cảm thấy có gì đó khang khác. Cậu liếc nhìn nhỏ, cái miệng không chí chóe như mọi hôm, đôi mắt hóa đăm chiêu như ẩn chứa điều gì khó nói… Vừa tới trường, dúi chiếc xe đạp vào nhà xe, nhỏ kéo tay áo cậu tới gốc bàng mới lớn ở cuối sân trường. Cậu tự hỏi không biết có chuyện chi mà bữa ni nhỏ điệu đà hơi khác mọi ngày vậy! Nhỏ làm dáng một chút, lắc lắc cái đầu làm đuôi tóc đung đưa thật dễ thương.

Ngập ngừng… Nhỏ hỏi:

– Sau này anh sẽ làm nghề chi?

Thế mà cũng làm ra bộ quan trọng – cậu nghĩ, rồi buột miệng:

– Ờ, đi tu, làm cha xứ!

Nhỏ bần thần một chút rồi lặng thinh quay lưng bỏ chạy, cái bím tóc lắc lư theo bước chân của nhỏ. Cậu thoáng nghĩ ra một điều gì đó và định chạy theo cố để giải thích. Nhưng lúc ấy như có gì vô hình níu lấy chân cậu khiến cậu chỉ ú ớ mà không thể bước đi.

Tiếng trống vang lên, đã đến giờ vào lớp mà không thấy nhỏ đâu cả. Cậu định đi tìm, nhưng ngay lúc đó nhỏ bước vào, với đôi mắt ướt đỏ hoe. Cậu lơ mơ suy nghĩ, chắc nhỏ không thích câu trả lời nhanh nhẩu kia của mình. Cậu thấy nhỏ liếc nhìn mình, một ánh nhìn có màu hờn dỗi, trách móc… Bây giờ thì chính cậu cũng băn khoăn tự hỏi không biết tại sao mình trả lời như thế? Ai đã xui khiến cậu nói như thế? Cậu hoàn toàn không suy nghĩ gì khi trả lời như vậy. Thật là khó hiểu. Cậu thấy ân hận vì đã làm nhỏ buồn. Cậu định sau giờ học sẽ nói với nhỏ một điều gì đó mà ngay cả lúc ấy cậu vẫn chưa nghĩ ra.Tiết học qua đi trong nặng trĩu. Nhỏ vội vã bước ra, như định biến mất một lần nữa, nhưng cậu đã kịp đứng trước mặt nhỏ. Cậu ấp úng mà không nói được lời nào. Cuối cùng, nhỏ bỏ đi, còn cậu vẫn đứng đó như một thằng ngố.

Rồi mùa hè cuối cùng của tuổi học trò đã đến. Trong những mảnh hồn trong trắng của các cô cậu học trò đúng là có một ‘nỗi buồn man mác’ như câu hát nào. Trên con đường quen thuộc ấy không còn thấy đôi bạn ngày hai bận đi về. Cây lá bên đường cũng queo quắt bởi cái nắng hè chói chang và những cơn gió lào khô rốc. Thời gian này cậu ít nói hẳn đi. Cậu cảm thấy vừa trống vắng, hụt hẫng, vừa mong ngóng một cái gì đó mà chỉ mình cậu hiểu. Người ta thấy cậu siêng vào nhà thờ một mình.

***

Và mùa thi đến, những kỳ thi quyết định số phận của đám học trò. Kẻ ở người đi. Những kỷ niệm muôn màu, cả những tình cảm vô tư bột phát của tuổi mới lớn dần dần cũng bị phủ lấp bởi những lớp bụi thời gian. Cậu bé ngày nào giờ đây trở thành chàng sinh viên của một ngành sư phạm. Cậu cũng biết rõ hơn mình đang hướng tương lai của mình đi theo con đường nào. Ước muốn của bố mẹ, của cha xứ ngày trước giờ cũng là ước muốn của cậu. Hình ảnh chiếc áo chùng thâm thường lởn vởn trong giấc mơ. Cậu vốn thương người nghèo và luôn sẵn lòng chia sẻ cho những người đói rách bất cứ khi nào có thể. Có lẽ đây là một động lực trong ước muốn đi tu của cậu chăng?

Thời gian trôi thật nhanh, có những lúc ta phải giật mình bởi có những điều ta chưa kịp làm, hay những khoảnh khắc ta chưa kịp sống thì đã bị thời gian cuốn phăng mất rồi. Đã lâu lắm rồi cậu không liên lạc với nhỏ bạn, cũng không biết tình hình nhỏ bạn lúc này thế nào, chỉ biết nhỏ cũng đang học năm cuối tại một trường đại học ở thủ đô.

Bất ngờ, một hôm cậu nhận được tin nhắn: “Em đang trên đường về quê, anh đón em ở ga tàu nhé, vào lúc…”  Cậu đọc đi đọc lại tin nhắn ấy, và nhắn lại: “Umh”! Cậu thấy mình bối rối, hồi hộp, thường xuyên liếc nhìn đồng hồ. Cậu luống cuống với mấy bộ quần áo, rồi bơm thêm hơi cho chiếc xe đạp – chiếc xe đạp thân thương từ thời trung học. Cậu vừa đạp xe đến nhà ga vừa huýt sáo, và hát vu vơ… Con đường hôm nay sao đẹp thế, cậu thấy thứ gì cũng thật dễ thương … Cậu dừng lại khi nhìn thấy một thiếu nữ với chiếc ba lô con cóc đang đứng dưới gốc bàng ở bên đường. Đó chính là nhỏ bạn của cậu. Nhỏ không thay đổi nhiều, vấn tóc bím đuôi gà, vẫn bộ áo quần chân quê nhưng có vẻ được trau chuốt hơn… Nhỏ vẫy tay chào trong khi cậu vẫn còn ú ớ ngơ ngác nhìn. Những kỷ niệm bắt đầu ùa về, những hình ảnh thời xưa ấy trào dâng. Hình như nhỏ đang rưng rưng. Không ai nói với ai điều gì cho đến khi tiếng còi tàu chuyển bánh đưa đôi bạn về với thực tại.

Chiếc xe đạp lặng lẽ đưa hai người qua những con phố dịu êm. Nhiều lúc nó không hiểu ý chủ nên cứ vòng vo hay lắc lư cái đầu. Nó không chỉ chở hai người, mà còn đang chở hàng núi những kỷ niệm theo nhau ùa về với họ nữa. Nhưng nó rất vui, vì hôm nay cậu chủ của nó thật vui và hạnh phúc. Đã lâu rồi nó không thấy cậu rộn rã như vậy.

Chiều buông. Chiếc xe đạp dừng lại ở gần cuối con đường ven sông. Ánh hoàng hôn làm cho mặt sông trở nên như một dải lụa đỏ nhạt lấp lánh đổi màu. Con sông nằm sát bên hông thành phố này xưa nay đã từng chứng kiến bao lời thề hẹn lứa đôi. Có những lời thề cập bến bờ hạnh phúc, nhưng cũng có những lời hẹn ước mãi mãi theo dòng nước hòa vào đại dương mà không biết đâu là bến bờ.

Nhiều lúc ta cứ nghĩ thời gian sẽ xóa nhòa đi tất cả, nhưng chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng đủ thổi bay lớp bụi mờ và làm cho ký ức sống dậy như còn nóng hổi. Cậu miên man nhìn mặt sông gợn sóng lăn tăn, tâm hồn cậu tràn ngập niềm vui rất lạ… Và tất cả sẽ thật êm đềm nếu như nhỏ bạn không chăm chú nhìn cậu và lên tiếng hỏi: “Mai mốt khi tốt nghiệp rồi anh làm việc ở mô?” Dòng sông như ngừng chảy. Mọi sự như ngưng đọng. Một thoáng lúng túng trước câu hỏi bất ngờ và ánh nhìn tha thiết của nhỏ. Cậu ngập ngừng, nhìn lảng phía xa mà không dám nhìn vào đôi mắt ấy. Cậu trả lời nhẹ nhàng nhưng cũng rõ ràng: “Anh đi tu làm linh mục!”

Nhỏ đứng lặng bên cậu một chốc rồi cúi mặt, khẽ nói: “Em biết! Hãy sống thật tốt với tình yêu và lý tưởng của mình anh nhé!” Nói thế rồi nhỏ bảo cậu đưa nhỏ trở lại nhà ga. Chiếc xe đạp cọc cạch lại đưa hai người ngược hướng hồi chiều. Hai người đến nhà ga vừa kịp chuyến tàu cuối của ngày hôm đó. Cậu nhìn nhỏ với chiếc ba lô con cóc mất hút trong đám đông hành khách. Đoàn tàu lăn bánh, một nỗi trống trải chiếm lấy tâm hồn cậu, cậu cảm thấy như vừa vuột mất gì đó rất quí giá mà mình sẽ không tìm lại được. Cậu muốn chạy theo để níu kéo, nhưng đoàn tàu đã rời đi, để lại bóng đêm lờ mờ. Cậu vẫn đứng đó, ngẩn ngơ nhìn hồi lâu…

Mấy bữa nay, cậu vẫn còn thẩn thờ. Chính câu trả lời của cậu với nhỏ một lần nữa làm cậu đau khổ. Dẫu biết rằng sẽ là như thế nhưng cậu không thể trả lời khác được. Cậu muốn về nhà, nhưng mọi người ở nhà không ai hiểu cậu. Cậu đến với cha xứ, nhưng cha cũng chẳng hiểu chi về cậu lúc này, cậu cảm thấy những lời ngài khuyên lúc này sao mà sáo rỗng, lý thuyết xa vời đâu đâu… Buồn quá cậu vào nhà thờ, hỏi Chúa: Con phải làm sao đây? Chúa chẳng nói gì, hình như Người cũng chẳng quan tâm đến cậu… Rồi cậu nhìn lên Thánh Giá:

 Con cứ khóc cho mối tình dang dở,

 Chúa vẫn buồn trên Thánh Giá cô đơn!

Cậu bắt đầu cảm thấy Chúa hiểu cậu, Chúa cũng đang buồn, đang đau khổ với cậu. Khi cậu buồn Chúa không làm cho cậu vui nhưng Người buồn với cậu. Thế là cậu được an ủi rồi.

Cậu cầu nguyện thật nhiều. Trong lời cầu nguyện, bao giờ cậu cũng dành phần cho nhỏ, cậu cầu cho nhỏ được hạnh phúc, cầu cho nhỏ có được một tình yêu thật lớn, lớn hơn những gì nhỏ đã từng chờ đợi…

***

Thế là đã gần một năm kể từ lần gặp lại ấy, vết thương lòng dần dần cũng liền da, những cảm xúc và những kỷ niệm về nhỏ cũng nguôi ngoai, nhường chỗ cho một tình yêu, một lý tưởng mà cậu ấp ủ từ lâu được hiện lộ rõ dần. Cuối năm ấy cậu được gọi vào đại chủng viện. Bố mẹ, cha xứ, và mọi người đều rất vui mừng. Nhưng trong đáy sâu lòng mình, cậu cảm thấy chưa thật sẵn sàng, như có điều gì đó còn dang dở mà có lẽ chỉ Chúa mới hiểu thôi. Cậu mang ba lô vào chủng viện mà lòng vẫn còn nghe âm vang tiếng còi tàu nào đó xa xôi. Lại một giai đoạn khó khăn đối với cậu, cậu chia sẻ với cha linh hướng. Những gì ngài dạy quả hợp tình hợp lý, nhưng sao vẫn không khai thông được mớ rối bòng bong trong tâm trạng cậu lúc này. Cậu không nghe được rõ tiếng Chúa trong lúc cầu nguyện. Có một cái gì đó lợn cợn làm cho cậu không thể nhập cuộc trọn vẹn vào đời sống với mọi người.

Đêm trước ngày lễ mặc tu phục, cậu cầu nguyện suốt đêm, và cậu cảm thấy Chúa muốn cậu tự đưa ra quyết định. Lúc nhận tu phục từ tay bề trên, cậu run lên, trong lòng cảm thấy sợ hãi. Nhất là khi mặc vào, cậu cảm thấy chiếc áo đen ngòm bịt kín mọi lối ra, khiến cậu như ngộp thở. Trong khi anh em hớn hở chụp hình lưu niệm, cậu lặng lẽ mang nỗi băn khoăn của mình đến với Đức Mẹ ở Diễm Tụ Đài. Cậu nhìn lên hình ảnh Mẹ đang nâng Giêsu bé nhỏ trên vai, đầy âu yếm. Cậu thầm cầu nguyện với Mẹ: “Mẹ ơi xin Mẹ hãy vác giùm những băn khoăn lo lắng của con…” Bỗng nhiên, cậu thấy lòng mình nhẹ nhõm đi nhiều, chiếc áo chùng thâm trên người như trở nên mềm mại, nhẹ nhàng hơn. Cậu bắt đầu vui lên từ đó…

***

No-en năm ấy, cậu về nhà cùng với chiếc áo chùng thâm. Cậu gặp nhỏ tay trong tay với một người mà sau đó được nhỏ giới thiệu là chồng sắp cưới. Cậu chân thành chúc mừng nhỏ, và cảm thấy trong lòng mình một niềm vui rất thanh cao, rất lạ.

Kỳ nghỉ ấy trôi qua thật êm đềm. Hôm chuẩn bị trở lại chủng viện, cậu đi quanh nhà như tìm kiếm một cái gì. Mẹ hỏi:

– Con tìm chi rứa?

– Con tìm chiếc xe đạp đưa vào chủng viện để đi – Cậu trả lời, nghĩ đến chiếc xe đạp thân thương của mình từ thời trung học.

Mẹ bảo:

– Mẹ đã cho thằng bé nhà bên rồi!

Cậu chưng hửng một chút, rồi nhìn mẹ, mỉm cười.

                        aphan

***


…… gió

Gió thu nhẹ cuốn lá rơi,

hồn ai lạc bước chơi vơi cuối trời.

Lại gần Gió khẽ ngỏ lời,

hỡi người tựa cửa trông trời làm chi ?

Phải chăng người muốn ra đi,

về nơi người nhớ mỗi khi người buồn ?

 

Gió ơi có biết Suối Nguồn ?

Gió ơi có biết Người luôn vì người ?

Ai, Người giọt máu hồng tươi,

hiến dâng làm giá chuộc người tội nhơ ?

Bao ngày người vẫn mong chờ,

cùng Người sánh bước, Bến Mơ cùng Người.

 

Thì thào Gió khẽ mỉm cười,

cuốn người tựa cửa vút mười tầng mây.

Gió đắm say, Gió ngất ngây,

kết người cùng Đấng trên cây thập hình.

Hòa mình trong Đấng Tác  Sinh,

Vầng Dương dậy ánh bình minh vĩnh hằng.

Jamor (ĐCV Hà Nội)

 

NHÌN NGƯỜI RỒI NGẪM ĐẾN TA: TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT NHẬT–VIỆT

Bài chia s này đã xuất hiện hơn một năm nay trong nhiều môi trường khác nhau: chủng viện, dòng tu, cộng đoàn giáo xứ, các du sinh… Nó cũng đã được chia s với các thầy tại Đại Chủng Viện Huế trong một lần trình bày về khía cạnh “giáo dục nhân bản”; và xem ra được các thầy hưởng ứng tích cực qua việc phản hồi sau đó. Xin được đăng lại trong tập “Như Một Kỷ Niệm” như một đóng góp nho nhỏ.

Từ 15 năm nay, số các linh mục, chủng sinh, tu sĩ, đặc biệt các nữ tu Việt Nam đến sống và làm việc mục vụ tại Nhật ngày càng tăng. Sự b ngỡ và khó khăn về ngôn ngữ và thích nghi văn hóa không phải là nhỏ. Bên cạnh đó, số sinh viên người Việt đi du học tại Nhật cũng ngày càng rất đông. Trong năm nay, sự hiện diện đông đảo của các bạn sinh viên Việt Nam tại Nhật, ngay cả vùng Fukuoka, thủ phủ của vùng Kyushu, miền Nam Nhật, nơi tôi cư ngụ và làm việc bán thời gian, làm tôi ngạc nhiên. Hàng rào ngôn ngữ, văn hóa và những cách ứng xử vẫn là những vấn đề khó khắc phục và nhiều khi gây khó chịu cho cả hai bên. Trong số các sinh viên Việt Nam đó số người công giáo không phải là ít.

Những chia sẻ trong bài viết này phát xuất từ những lần đối thoại, trao đổi với những người có trách nhiệm trong việc đào tạo, người Việt và người Nhật, cũng như với những tu sinh và du học sinh người Việt tại Nhật. Công việc của người viết bài này chỉ là sắp xếp và ghi xuống những gì đã nghe những người này quan sát và nhận xét. Các bạn đọc nói chung, qua bài chia sẻ này, có thể thêm vào kiến thức của mình một vài chi tiết nhỏ nào đó về sự tương đồng / dị biệt của hai nền văn hóa cũng như những cách ứng xử Việt – Nhật.

Tuy nhiên, mục đích chính của bài viết là giới thiệu đến các tu sinh và du học sinh mới qua Nhật một số điểm khác biệt giữa hai đất nước, những khác biệt tìm thấy trong những tiếp xúc hằng ngày, để ứng xử cách xứng hợp. Đối với các tu sinh, những chia sẻ nhỏ bé nhưng cụ thể này có thể giúp thêm vào việc đào tạo nhân bản để thích nghi với môi trường mới. Đối với các du học sinh, những người đã bỏ ra rất nhiều tiền của và công sức để có thể đi du học tại Nhật, tôi hy vọng những chia sẻ của những người đi trước giúp các bạn phần nào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Mỗi khi chia sẻ với các bạn sinh viên đó đây, qua bài giảng hay qua những cuộc nói chuyện, tôi ao ước và cầu chúc cho các bạn hãy nắm lấy cơ hội để làm giàu kiến thức, không phải chỉ trên sách vở, nhưng chính bằng kinh nghiệm của cuộc sống để một ngày nào đó, với vốn liếng thu nhặt đó đây, các bạn có thể phục vụ đồng bào của mình và đưa quê hương mình trở nên tốt đẹp hơn. Cha ông mình vẫn nói: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” là thế.

Đất nước nào cũng có những điều tốt đẹp và những điều không tốt đẹp: từ con người, thiên nhiên, văn hóa, văn minh – kỹ thuật, đến lối diễn đạt niềm tin tôn giáo…Biết cái tốt của người khác để học hỏi và thăng tiến cuộc sống vật chất, văn hóa, cũng như tinh thần. Biết cái tốt của mình để bảo tồn và phát triển; đồng thời cần biết cái không tốt của mình để loại bỏ và sửa đổi. Có như thế, chúng ta mới hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn cho chính mình, cho tha nhân, và cho quê hương. Đây cũng là một trong những lý do mà người Nhật thường được khuyến khích đi du lịch.

Những điểm được nhắc đến trong bài này mang tính cách chung chứ không đi sâu vào những trường hợp riêng biệt. Những chia sẻ này, qua hình thức đặt hai văn hóa liền nhau, mang tính cách trình bày giúp dễ nhận ra sự khác biệt chứ không có mục đích phê bình, chỉ trích. Việc phán đoán một điểm nào đó tốt hay không tốt trong một văn hóa hay lối ứng xử nào đó xin nhường lại cho độc giả. Những chia sẻ ở đây, như vừa nói ở trên, được ghi lại từ những quan sát và nhận xét qua cảm nghiệm va chạm thực tế của một số cá nhân người Việt đang sống tại Nhật; chứ không phải là kết quả của sự khảo cứu trên sách vở. Do đó, những chia sẻ này có thể không mang tính cách “hàn lâm” cho lắm …và vì đó, có thể không hoàn toàn khách quan. Nhưng thế nào là khách quan? Đó lại là vấn đề khác. Không một cái nhìn nào là hoàn toàn khách quan vì mỗi người đứng từ góc độ khác nhau để nhìn và trình bày vấn đề. Ở đây, xin gởi vào bài chia sẻ này tấm chân tình của những người đã tạo nên nó với mục đích xây dựng. Xin cám ơn các vị đó.

Về địa lý: Việt Nam và Nhật đều nằm ở Á Châu; nhưng trong khi Việt Nam ở miền Đông Nam thì Nhật lại ở Đông Bắc. Việt Nam nằm trong một dãy đất liền với một ít biển đảo, và dân số gần 90 triệu tập trung ở đồng bằng đất liền; trái lại, Nhật có đến 6,852 hòn đảo với 4 hòn đảo chính có dân số chiếm 98% trên tổng số gần 130 triệu. Nhật được bao quanh bởi biển, nhiều núi non, ít đồng bằng và nằm trên vị trí thường xảy ra nhiều tai ương thiên nhiên hơn như núi lửa, động đất, sóng thần, bão tố…Và vì thế, điều kiện thiên nhiên không thuận lợi bằng Việt Nam, nơi mà chúng ta thường nghe là “rừng vàng biển bạc”! Vì thiên nhiên xem ra không ưu đãi lắm nên người Nhật, bù lại, đã phải học biết tiết kiệm, chắt chiu, chịu khó, kiên trì, siêng năng làm việc. Có thể nói được rằng đối với người Nhật “sống để làm việc”; còn đối với người Việt “làm việc để mưu sinh”.

Sự tương đồng và dị biệt về địa lý cũng tạo nên những tương đồng và dị biệt về tâm tính và cách ứng xử của hai dân tộc.

Về văn hóa: Có thể nói được là văn hóa của cả hai dân tộc đều bắt nguồn, hay ít nhất, nhậnảnh hưởng rất nhiều từ văn hóa Trung Hoa. Cả hai dân tộc, cho đến hôm nay, vẫn còn mang những nét văn hóa Á Đông; ví dụ: nền tảng gia đình, lòng tôn sư trọng đạo, coi trọng danh dự cá nhân và gia đình, quan hệ làng xóm, chủ nghĩa dân tộc mạnh, nhiều khi quá mạnh đưa đến quá khích,… Nhưng đến một thời điểm nào đó trong quá khứ, mỗi dân tộc có những sắc thái riêng của mình được sáng tạo và triển khai. Ví dụ về ngôn ngữ,chữ viết của người Việt đã được chuyển đổi từ Hán qua Nôm rồi đến chữ Quốc Ngữ hiện nay; còn tiếng Nhật, cho dù họ còn giữ lại gốc Hán, nhưng một hệ thống ngôn ngữ viết của Nhật đã được sáng chế, sử dụng và phát triển cho đến hôm nay.

Chiếc áo truyền thống của phụ nữ không còn là xường xám của Tàu, nhưng là chiếc áo dài của Việt Nam hay chiếc kimono của người Nhật… Người Nhật có truyền thống ăn cá sống (sashimi), sushi, natto (một loại đậu nành làm cho nên men), và tắm “onsen” (tắm nước nóng); trong khi người Việt lại ăn thịt chó, trứng lộn, các loài vật bò sát, và tắm…nước lạnh!

Hơn một thế kỷ, cả hai dân tộc, Việt và Nhật, đã tiếp cận và thích nghi, tùy theo mức độ của mỗi nước, với văn hóa và văn minh Âu Mỹ. Ngày nay, cho dù nằm tại châu Á, nhưng rất nhiều người Nhật xem ra cho mình gần gũi với văn minh Âu Mỹ hơn; và những người này hãnh diện vì sự thành tựu của đất nước họ qua việc tiếp thu và phát huy văn minh Âu Mỹ để dân họ có một cuộc sống kể là tốt đẹp như ngày hôm nay. Cho dù người Nhật tìm cách thích nghi với văn minh châu Âu nhưng quan trọng là họ vẫn cố gắng giữ những gì làm nên văn hóa truyền thống của họ.

Ví dụ: tinh thần Samurai, trà đạo, võ thuật, cắm hoa, phong cách ăn uống, lối chào hỏi giữa người Nhật với nhau…được giữ gìn nơi số đông các gia đình; và còn đưa vào trường học có giáo trình hẳn hoi nhằm giúp thế hệ trẻ bảo lưu nét đẹp văn hóa của dân tộc. Điều làm nhiều người ngoại quốc ngạc nhiên là sự hài hòa của người Nhật giữa văn hóa truyền thống của họ và sự thích nghi với văn minh hiện đại… Đối với người Việt, nhất là trong chế độ cộng sản hiện tại, việc bảo lưu văn hóa truyền thống trở nên một vấn đề lớn. Với tâm lý “chuộng ngoại” của người Việt nói chung; sự áp đặt lên đất nước chủ thuyết Mác-Lênin cộng sản với chủ trương “thế giới đại đồng”, và do đó “tam vô”: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo; nhu cầu làm giàu bất chấp tất cả của một số đông; thiếu hệ thống giáo dục tốt, hiệu quả; thêm vào đó là ảnh hưởng của sự hoàn cầu hóa…nên việc bảo lưu và phát huy văn hóa Việt là một thách đố lớn.

Về giáo dục: Người Nhật chú trọng và rất đề cao nền giáo dục; đặc biệt về giáo dục nhân bản. Trước khi trang bị cho dân mình kiến thức, hệ thống giáo dục học đường của Nhật đặt ưu tiên vào việc đào tạo đạo đức con người. Hằng năm Nhật dành cho giáo dục 7% ngân sách của quốc gia. Từ lâu, tại các trường mầm non, nhiều trường tại Nhật đã áp dụng chương trình được thế giới biết đến bởi cái tên của người sáng lập người Ý, bà Maria Montessori. Chương trình này đã rất thành công với hơn 4000 lớp đã do bà sáng lập trên thế giới khi bà còn sống. Chương trình dựa trên khoa tâm lý trẻ em để đào tạo chúng ngay từ tấm bé. Ngoài ra, có nhiều trường học tại Nhật lấy tinh thần “yêu tha nhân hơn chính mình” làm nền tảng cho phương châm giáo dục. Trường học đào luyện cho học sinh của họ tinh thần kỷ luật, lòng tự trọng, tôn trọng tha nhân, biết tự mình vươn lên trong mọi hoàn cảnh, tinh thần trách nhiệm, không sợ thất bại, không đổ thừa trách nhiệm, làm việc mang tính cộng đồng…

Trong khi đó, nền giáo dục hiện tại của các trường học Việt Nam vẫn còn lấy thuyết Mác-Lê làm chủ đạo và chú trọng nhiều đến “thành tích” cá nhân. Bệnh chạy đua theo “thành tích láo” đang đè nặng trên tâm lý của chính những người nắm quyền hành, nhiều nhà giáo, cũng như phụ huynh, học sinh đang là mối lo ngại lớn cho tương lai của đất nước. Nhân cách không được dạy và cũng chưa được học tại học đường, nhưng phải lo đi tìm bằng cấp mà phần nhiều là giả tạo! Vì vậy hay đưa đến việc thiếu thật thà trong thi cử, quay cóp, bán mua đề thi, và ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống sau này trong xã hội…Việc học ở trường mang tính cách nhồi nhét, thuộc lòng, từ chương, trả bài cho xong chuyện. Châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mới được tái lập trong trường tiểu học; nhưng khi mà những người có trách nhiệm trong xã hội, trong giáo dục cũng chưa được huấn luyện đủ về nhân bản, sống thiếu nhân cách, sống vô lễ nghĩa thì thử hỏi đường hướng đào tạo cho giới trẻ sẽ như thế nào?

Về cách ứng xử: Người Nhật thường khiêm tốn, nhã nhặn, không khoe khoang, vẽ vời. Họ dè chừng về mức độ ngôn từ; ít nói về mình trước đám đông. Họ thường không thêm “mắm muối” trong câu chuyện mà họ thuật lại, nhưng cố gắng giữ mức độ chính xác. Dẫu có giận dỗi, ấm ức trong lòng, người Nhật biết kiềm chế cảm xúc của mình. Người Nhật rất kiên trì, họ có thề chịu đựng một thời gian dài mà không kêu ca. Họ thường đến trước cuộc hẹn và chờ đợi ở đó. Họ có thể chờ đợi cuộc hẹn vài ba giờ mà không buồn bực. Khi cần nói chuyện với một người đang nói chuyện với một người khác, họ kiên nhẫn chờ đợi cho người kia kết thúc câu chuyện hay ít nhất họ phải xin lỗi rối rít. Người Nhật nghĩ đến lợi ích chung hơn là lo thu góp cho cá nhân. Dưới một khía cạnh nào đó họ đã sống “đức ái Kitô giáo” cho dù phần rất lớn không theo tôn giáo này. Ví dụ như: lòng trung thực, không gian tham của người khác, việc giữ thời gian qui định chung, giữ vệ sinh chung, không gian chung…nói chung là “yêu thương tha nhân” và vì thế, đặt tha nhân trên chính mình. Tinh thần làm việc chung là một nét nổi bật nữa của người Nhật. Trước khi làm một việc gì đó người Nhật thường họp ít nhất vài ba lần hay nhiều hơn (tùy theo mức độ quan trọng của sự việc). Họ thường có tầm nhìn xa, đặt kế hoạch, và chuẩn bị rất chu đáo cho công việc sắp tới. Người Nhật có tinh thần trách nhiệm: khi đã đón nhận một công việc, họ dấn thân triệt để và chịu trách nhiệm về việc hoàn thành cũng như hậu quả của công việc đó…

Trái lại, người Việt vui vẻ, cởi mở, dễ thân thiện, cái gì cũng cười…Người Việt thường ăn nói bộc phát, thoải mái trong ngôn từ đến nỗi nhiều lúc trở thành quá phóng đại, khoa trương, “bội ngôn” hay “điêu ngôn”. Khi thuật lại một biến cố hay câu chuyện, người Việt có khuynh hướng thêm “mắm muối” hay “vẽ thêm chân rồng rắn” cho câu chuyện thêm ly kỳ, hấp dẫn; nhưng thường trở nên “tam sao thất bản”, gây nhiều hiểu lầm. Khi tinh thần hưng phấn, người Việt thường cười nói lớn tiếng, không dè dặt quan tâm đến những người chung quanh. Khi lên tiếng với ai, nhất là trong các buổi họp, người Việt thường hay dành nói và không để cho kẻ khác trình bày xong ý kiến của họ; và hay lên giọng để lấn át tiếng người khác. Trong buổi gặp mặt chung, người Việt thường hay xì xào, nói chuyện riêng với một hai người và không lưu ý đến người đang nói với cử tọa chung. Khi cần nói với một ai đó đang nói chuyện với một người khác, người Việt thường cắt ngang cuộc nói chuyện của họ mà không chờ đợi cho họ nói xong câu chuyện của họ hay xin phép người thứ ba.

Người Việt sống nhiều với cảm xúc; vui buồn, giận dỗi thường dễ biểu lộ ra ngoài. Thời gian của người Việt, trên thế giới, có tiếng là “dây thun”; thường theo ý mình hơn là qui ước tập thể. Cho dù được tiếng khen là chịu khó nhưng người Việt có phần dễ nản chí, dễ bỏ cuộc; ví dụ: không chịu nổi 30 phút cho một cuộc hẹn trễ, sinh ra cáu bẩn, chửi bới. Người Việt rất ít ý thức về lợi ích công cộng; ví dụ: việc giữ vệ sinh chung, nhất là ở Việt Nam, thì thật là kém. Người Việt thường lấy không gian chung làm không gian cho riêng cá nhân hay nhóm mình. Ví dụ, gây ồn ào quá độ nơi công cộng là đặc trưng của người Việt, lấn đường làm nơi buôn bán…  Người Việt không có văn hóa “xếp hàng”, nhưng chen lấn, giành giật. Tinh thần làm việc chung của người Việt không lớn vì mỗi người Việt đều tự hào là “một viên ngọc” và là cái “rốn” của vũ trụ! Và do đó, thường có cái nhìn tiêu cực về người khác. Người Việt thường có khả năng biến báo cao, nhiều tài “vặt” nhưng lại thiếu đi sâu vào chuyên môn, không có tầm nhìn xa vì có thói quen “tới đâu hay đấy”; vì thế, thường hay có sơ suất trong công việc lớn và dẫn đến hiệu quả thấp. Người Việt thích “ôm” việc, nhất là khi có lợi cho mình, vật chất cũng như tiếng tăm, nhưng tinh thần trách nhiệm lại không cao, không hoàn toàn dấn thân, thiếu chữ tín trong công việc; khi sai trái thì thường đ lỗi cho người khác hay hoàn cảnh thay vì gánh chịu trách nhiệm.

Trong tương quan với người khác, người Nhật hay khen “quá độ”. Có lẽ nó đã trở thành một đặc điểm văn hóa ứng xử không nhỏ của người Nhật. Vì lời khen có vẻ “quá độ” nên đôi khi khiến người khác, không phải là người Nhật, có cảm giác “không thật lòng”. “ Cám ơn”, “ xin lỗi” là những câu nói nơi cửa miệng của người Nhật. Họ có thể nói đi nói lại năm bảy lần “cám ơn” cho một sự việc với một người. Điều này đôi khi khiến người khác có cảm giác khách sáo, phiền toái; nhưng nó đã ăn sâu vào nhân cách của người Nhật.…

Trong khi đó, người Việt rất nghèo lời khen. Họ có thể cảm phục trong lòng mà không biểu hiện bằng lời nói. Họa hiếm lắm mới nghe người Việt nói lời “ xin lỗi” hay “ cám ơn”. Người Việt xem việc giúp nhau là chuyện thường tình, cần phải làm, nên không cần cám ơn; những lời đó xem ra “xa xỉ”. Người Việt cũng cảm nhận và biết ơn người làm ơn cho mình; nhưng mang ơn thì để đấy…chờ khi có dịp sẽ trả ơn. Nhưng mỗi việc mỗi “cám ơn” thì không phải là cung cách của rất nhiều người Việt. Người lớn tuổi hoặc có địa vị cao hơn lại càng hiếm khi cám ơn hay nói lời xin lỗi những người dưới của mình cho dù mình nhận ơn hay có lỗi. Để nghe được lời “cám ơn” của ai đó, chắc hẳn người này đã mang ơn rất sâu nặng.

 Về ăn uống, người Nhật có thuật ngữ: “Ăn bằng mắt”. Vì thế, cách trang trí bữa ăn của họ rất tỉ mỉ. Thức ăn, có nhiều món nhưng mỗi món một ít, chỉ là một phần của bữa ăn; cách sắp xếp / bố trí mới là quan trọng. Họ cầu kỳ trong đồ dùng cho bữa ăn. Việc sắp xếp chén đũa phải theo qui c. Tư thế tại bàn ăn, người Nhật chỉ có thể dùng hai bàn tay; tuyệt đối không được chống khủy tay lên bàn. Vừa ăn vừa nói là một điều cấm kỵ trong văn hóa ẩm thực Nhật. Họ không ngại khi ăn súp hay uống đồ lỏng mà phát ra tiếng lớn. Đối với người Nhật, đến thăm nhà người nào, nhất là không phải là người trong gia đình, là một điều rất hiếm quí. Người Nhật thường mời nhau đi ăn tại nhà hàng, nhưng ít khi mời dùng bữa tại nhà. Người Nhật không đến nhà ai bất thình lình, không báo trước; việc một người khách đến đúng bữa ăn và được mời dùng bữa thì hầu như không xảy ra.…

Trái lại, bữa ăn hằng ngày của người Việt thường qua loa, đại khái; miễn sao cho no bụng để đi ngh hay làm chuyện khác. Đồ dùng cho bữa ăn thì tiện cái nào dùng cái đó, không cần mất thời gian cho việc chọn lựa chén, dĩa và trang trí thức ăn hay bàn ăn. Người Việt có thể vừa chống cùi chỏ lên bàn vừa ăn. Một số đông nam giới người Việt xem ra thoải mái trong các tư thế thiếu thẩm mỹ khi dùng bữa. Đối với người Việt, thêm khách ở bữa ăn chỉ là việc “thêm chén đũa”. Đây cũng là nét son biểu lộ tính hiếu khách nơi người Việt.

Về lối diễn đạt niềm tin tôn giáo: Cả hai dân tộc đều đa tôn giáo. Ở đây chúng ta không đề cập đến chiều sâu của đức tin, nhưng chỉ nêu ra một vài sự kiện và một số cách diễn đạt niềm tin đó nơi các tín hữu nói chung. Người Nhật không có nhiều lễ hội tôn giáo; không có nhiều cuộc kiệu rước, đón tiếp linh đình; không kinh kệ dài lê thê. Số người tham dự vào các buổi lễ tôn giáo không nhiều và không thường xuyên. Có thể nhiều người Nhật chỉ đến chùa hay đền mỗi năm một lần trong ngày đầu năm hay một dịp đặc biệt nào đó trong năm. Nhiều người âm thầm đến chùa, đền hay nhà thờ khấn nguyện, rồi âm thầm đi…Nói chung, lối diễn tả niềm tin tôn giáo của người Nhật mang tính cách cá nhân và hướng nội nhiều. Điều này cũng tìm thấy nơi lối diễn đạt của người Công Giáo Nhật. Vừa là một tôn giáo rất thiểu số (chỉ có 0.4%), vừa mang chiều hướng nội nên lối diễn tả niềm tin của người Công Giáo thường không ồn ào, náo nhiệt, tổ chức linh đình. Vì số người tham dự ít nên có sự ấm cúng gia đình. Mọi người cùng hát thánh ca, những bản quen thuộc với mọi người. “Thực hành đạo đức bình dân” không nhiều, không có đọc kinh trước hay sau thánh lễ. Tất cả chú ý đều tập trung vào thánh lễ. Ca đoàn mang tính cách trợ giúp, hướng dẫn cộng đoàn chứ không thay thế…Số người trở lại Công Giáo từ những tôn giáo khác rất ít, và hầu hết là đã lớn tuổi, sau nhiều năm tìm hiểu. Thống kê cho thấy số người Công Giáo ở Nhật suy giảm theo chiều thuận với số sinh trong toàn quốc.

Nhiều người công giáo Việt Nam mới qua Nhật cảm thấy buồn, có khi bị sốc khi đến nhà thờ ở Nhật vì bầu khí không sinh động, đông đúc, ồn ào, náo nhiệt…và nhà thờ thì không to lớn, đồ sộ như ở Việt Nam. Ở Việt Nam, số người được rửa tội phần lớn là trẻ nhỏ và những người lớn lập gia đình với người Công Giáo. Thống kê cách đây vài năm cho thấy số tăng tín hữu Công giáo không cùng chiều thuận với số tăng dân số trong nước. Nhưng dù sao, Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam vẫn hãnh diện vì có số lượng giáo dân đông, chiếm gần 7% dân số và số lượng giáo dân đến nhà thờ cũng rất đông. Và vì số người đến nhà thờ đông và thường xuyên, nên nhà thờ phải được xây mới và lớn, rộng đến nỗi nhiều người đi lễ không nhìn thấy vị chủ tế đang làm gì. Vì số người đến nhà thờ rất đông,ở một vài nơi rất nhiều bạn trẻ phải đứng cả ra đường lộ, ngồi trên xe máy để xem lễ! Từ ngữ “xem”, chứ không tham dự, áp dụng rất đúng với số rất đông người đến với thánh lễ. Ca đoàn thường đóng vai chính trong thánh lễ và thường hát riêng những bài khó. Ở Việt Nam có nhiều hội đoàn, rước sách, lễ hội tôn giáo, đình đám sau thánh lễ. “Lòng đạo đức bình dân” được khai triển, dạy dỗ và thực hành đến mức tối đa. Những cuộc đón tiếp các đấng có địa vị trong Giáo Hội thật linh đình như lễ hội. Lối diễn đạt niềm tin tôn giáo ở Việt Nam nói chung, và người Công Giáo nói riêng, mang tính cách hướng ngoại, cộng đồng, nhiều cảm tính và bình dân…

Trên đây chỉ là một số điểm thường thấy trong văn hóa và lối ứng xử của hai dân tộc Nhật-Việt. Riêng về nước Nhật có tiếng là “đẹp”, không chỉ là cái đẹp do thiên nhiên bốn mùa mang lại như “mùa xuân sang có hoa anh đào” khắp mọi ngõ nghách, mùa hè rực rỡ của xứ “mặt trời mọc”, mùa thu của muôn màu sắc do lá cây thay màu, và mùa đông của tuyết phủ tinh trắng… nhưng còn là cái đẹp của cách ứng xử mà người Nhật diễn đạt qua những đức tính nổi bật của họ. Sau thế chiến thứ II, người Nhật đã đứng lên từ một đng tro tàn gây ra do chiến tranh, đặc biệt là hai trái bom nguyên tử được némở Hiroshima và Nagasaki; nhưng sau 20 năm họ đã trở thành một trong vài nước giàu có, văn minh với nhiều sản phẩm các loại máy móc, kỹ thuật…nhất thế giới. Thế giới gọi đó là “thần kì Nhật Bản”.

Sau trận động đất và sóng thần ngày 11 tháng 3 năm 2011, Nhật không chỉ vẫn còn nổi tiếng vì các loại xe hơi, máy móc điện tử, kỹ thuật cao, hoa anh đào…nhưng toàn thế giới biết và trọng nể tinh thần kỷ luật, sự chịu đựng kiên cường, sự trưởng thành nhân bản, tinh thần đoàn kết… của người Nhật mà có thể nói được rằng không một nước nào trên thế giới có thể sánh với họ… Cái đẹp và nét đáng yêu của nước Việt nằm ở đâu? Sau gần 40 năm chiến tranh chấm dứt, Việt Nam đạt được “thần k” gì? Mỗi người Việt hãy tự mình cho câu trả lời…

Những chia sẻ ngắn ngủi trên được viết lên để có dịp “nhìn người mà ngẫm đến ta” trong tinh thần tự trọng, cởi mở, học hỏi, cho đi những gì tốt đẹp của mình và đón nhận những gì là tinh hoa của người khác. Riêng với các tu và du học sinh tại Nhật, những người đang hưởng những nét đẹp, giàu sang, tiện nghi nơi xứ hoa anh đào, đồng thời cũng đang vật lộn với những khó khăn mà cuộc sống tha hương mang lại, xin cầu chúc cho mỗi người biết bắt chước loài ong mật: hút tất cả các loài hoa dù đắng, cay, ngọt hay chua chát…nhưng cuối cùng vẫn cho ra mật ngọt.

Bernard Phạm Hữu Quang, PSS.

Cảm tưởng của bạn trong những ngày đầu ‘lính mới tò te’?

 

Bắt đầu vào Đại chủng viện thường gắn với nhiều cảm nghĩ khó tả. Sau đây là lược trích những chia sẻ của các thành viên lớp Tu Đức, cả các chủng sinh lẫn các tu sĩ:

 -… Chúng tôi vào phòng ăn rất vui vẻ trong sự tiếp đón của các Thầy và các Sơ Phaolô. Chết tội, chúng tôi nghe họ nói thì chỉ biết đứng cười, nhìn nhau. Các Thầy, các Sơ thi nhau hỏi, nhưng chúng tôi cứ cười, gãi gãi đầu. “Xin Thầy nói từ từ và rõ rõ giúp con với, con nghe chưa được từ nào cả!” Cả nhà phá lên cười. (Giuse NNB)

-… Những ngày đầu, chúng tôi lạ lẫm, lại là lớp nhỏ, còn bị dọa ‘cạo gió’ nữa… Khi nghe tiếng kẻng, tôi và anh em cũng đi, nhưng cứ hỏi quanh với nhau “đi đâu?”, nghe trả lời “cứ đi xuống”. Nghĩ lại cũng thật thú vị và vui. (Dom. TBTB)

-… Ấn tượng đầu tiên là hình ảnh các Cha giáo và các anh lớp lớn rất thân thiện… Thứ đến là cảm nhận về đời sống thiêng liêng và trí thức… Chắc hẳn năm Tu Đức này sẽ giúp tôi tẩy não’ nhiều hơn trong quá trình phân định ơn gọi đúng theo ý Chúa. (Antôn TTL)

-… Mọi thứ đều lạ đối với tôi, vì đây là lần đầu đến Huế… Các Cha các Thầy ở đây rất quan tâm và thương mến chúng tôi. Vì biết bọn tôi còn lạ lẫm và nhiều điều không biết, nên các Cha các Thầy chủ động hỏi han và giúp đỡ. Tôi cảm thấy rất an tâm. (Phêrô ĐVT)

-… Những anh em cũ và những anh em mới nhập chủng viện thật tươi tắn trong ánh mắt, nụ cười, lời nói. Họ làm quen nhau thật mau. (Giuse CTV)

-… Theo qui định của chủng viện, khi bước lên cầu thang mọi người phải im lặng, điều này làm cho tôi buồn bã, căng thẳng, và lo lắng hơn nữa! (Phaolô NBT)

-… Những cử chỉ thân thương của anh em làm cho tôi bớt rụt rè, nhút nhát hơn… Bữa ăn nọ, khi tôi đang ăn thì vô tình cắn nhằm một miếng ớt, thế là cố gắng chịu, nhưng không nổi, đành bịt miệng chạy, làm cho mọi người ngỡ ngàng một bữa! (Giuse NSS)

-… Lần đầu tiên tôi tới miền Trung này, tôi hồi hộp, nôn nao… Hai tâm trạng trái ngược nhau: Vui, vì mình trở thành một chủng sinh; lo lắng, vì những khác biệt về văn hóa, về môi trường xa lạ… Sau hai tháng, tôi cảm nhận được tình gia đình nơi đây. (Gioan LĐA)

-… Cái gì cũng mới… Ở đây tôi có thể nghe được tất cả các giọng nói trải dài từ Bắc tới Nam. Đây là một điều rất thú vị. (Giuse NVG)

-… Tôi cảm thấy mình thua sút các đàn anh. (Anrê LVL)

-… Ngày cũng như đêm, thấy buồn ngủ, không được tỉnh táo, dù cố gắng… Giữ luật thinh lặng còn yếu… Quan hệ với các Thầy thì rụt rè… Không có điện thoại (di động). (GB. NVH)

-… Rất vui mừng, vì đây là niềm mong ước đã từ lâu. (Vinh sơn PĐT)

-… Không gian, môi trường của chủng viện tuyệt đẹp… Chúng tôi được Cha Giám đốc và Thầy đoàn trưởng ra ngoài cổng tiếp đón với khuôn mặt niềm nở, vui tươi. (Giuse NVH)

-… Ấn tượng đầu tiên của tôi là sự quan tâm của các Cha các Thầy ở đây… Nhiều khi tôi cảm thấy khó khăn trong việc nghe và hiểu, vì đây là lần đầu tiên đến Huế… Tôi ước mong rằng mình có thể sống hòa hợp với anh em. (Ph.X. AP)

-… Không gian yên tĩnh và thời gian như dừng lại, tôi buồn và nhớ nhà hơn lúc nào hết. (Phêrô TCP)

-… Tôi có một góc học tập và sinh hoạt nho nhỏ, không tách biệt hẳn với mọi người … gần như không có sự riêng tư. Điều này làm cho tôi khó chịu… Nhưng dần dần tôi không thấy khó chịu nữa, và học được bài học bước tôn trọng những người khác xung quanh mình. (Giêr. NHT)

-… Tôi thường lười nhác khi còn thời sinh viên, nhưng vô chủng viện, giờ nào việc nấy, nên tôi nhanh nhẹn hơn. Nghe chuông, nhiều lúc muốn nằm một chút nữa, nhưng tôi vẫn cố gắng vùng dậy để tham dự các giờ. (Matthêu NT)

-… Lạ lẫm, lo lắng… Tôi suy nghĩ nhiều về việc mình phải làm gì, phải như thế nào để thích nghi. (Giuse VDK)

 

-…Tôi lo về giờ giấc… Cứ nghe chuông là lao xuống tầng trệt, mà không biết là giờ gì! (Dom LDL)

-… Đến đây mới thấy còn hơn cả những gì mình nghĩ. Không biết sau này tôi có thay đổi cảm nhận của mình không, còn bây giờ tôi rất yêu quí ngôi nhà này. (NMC)

-… Từ nhà tôi đi đến chủng viện chỉ mất năm phút đạp xe, vì thế việc tựu trường của tôi khá thong thả hơn mọi anh em khác… Tôi thấy chủng viện cũng như ‘sân nhà’ của tôi, vì thế tâm lý của tôi trong những ngày đầu khá ổn định và vui vẻ. (Micae NTA)

-… Khi tôi được nghe hát “Anh em chúng ta có chung một mái nhà…” tôi hiểu tại sao người ta có thể ở đây học tập tới tám năm. (Giuse NPN)

-… Những ngày đầu tôi có rất nhiều cái mới để bỡ ngỡ và học hỏi… Có đôi chút căng thẳng về nội qui, về sự thinh lặng, về các anh lớn, về những điều chưa biết. (Giuse PT)

-… Trong bóng chuyền, những người chơi hay thường chơi theo nhóm với nhau… Trong bóng đá có những pha tranh bóng ‘mạnh mẽ’ hơn mức cần thiết. (Phêrô PTL)

-… Đó thực là những ngày rất đáng nhớ của tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ như in những cảm xúc, những khó khăn đó. (Giuse NHN)

-… Tiếp xúc lần đầu tiên với các Thầy người Huế, tôi nghe rõ nhưng không hiểu họ nói gì, dần dần thì đỡ hơn. (Vinh sơn TDH)

-… Tôi là người dễ hòa đồng nên nhanh chóng có thêm các anh em, bạn bè mới… Tôi hiện đang sống vui và tôi cảm thấy được gắn kết gần gũi với Chúa hơn khi ở trong chủng viện này. (Giuse NNH)

-… Sau hai tháng, tôi đã mạnh dạn hơn khi tham gia các hoạt động chung. (Phaolô LĐC)

-… Các món ăn đạm bạc, ăn mãi cũng thành quen. Tôi nghĩ bàn các giáo sư chắc đồ ăn khác, nhưng khi quan sát mới nhận ra mọi người đều giống nhau! (Phaolô PDĐ)

-… Tôi lo lắng vì tôi không biết mình phải mất bao lâu để làm quen với con người và cách sống ở môi trường mới này. Và theo thói quen, tôi vào nhà nguyện dâng cho Chúa… (GB. ĐHD)

-… Tôi còn nhớ sâu đậm chiều mồng 3 tháng 9, với va ly áo quần và chiếc xe đạp lần đầu tiên tôi đi vào cổng Đại chủng viện. Tôi bỡ ngỡ vì ĐCV quá rộng so với tôi tưởng tượng, và lo lắng vì không biết tôi sống có được không nữa. (NHP)

-… Trước tiên, tôi thật là vui. Mới bốn giờ sáng, chúng tôi đã có mặt ở cổng ĐCV. Tôi đang còn ngỡ ngàng thì một số anh em khác cũng đến, đông lắm… Khuôn viên ĐCV rộng mênh mông… (GB. TVC)

-… Tôi có một quyết tâm mạnh mẽ sẽ tận dụng hết sức những cơ hội, những điều kiện, để đào luyện bản thân mình. (Anrê NNT)

-… Là một tu sĩ được hội dòng gửi đi học, tôi cũng mang nhiều thao thức … không biết mình có cố gắng đáp lại sự mong muốn của hội dòng không. (Giuse PXH)

-… Là một đan sĩ, những ngày đầu đi học cũng rất lo, vì không biết có theo kịp quý Thầy ở đây không. (Barnaba NTT)

-… Niềm vui chỉ có khi nghe tin được gửi đi học ĐCV thôi, khi vào rồi thì nỗi lo mới bắt đầu. Tỉ lệ là nỗi lo 70%, niềm vui 30%. (Giuse SAT)

-… Cảm giác đầu tiên cũng là dấu ấn mạnh nhất mà tôi có, đó là tình anh em cùng chung chí hướng phục vụ Chúa và Giáo hội của Ngài, [dù] lớp chúng tôi có ba thành phần: các Thầy chủng sinh, các Thầy Thiên An, và anh em Thánh Tâm chúng tôi. (Phaolô PHV)

-… Là một người miền Bắc vào miền Trung… tôi cảm thấy khó khăn khi nghe họ nói mà cứ ngỡ mình đang nói chuyện với người nước ngoài. (Phêrô NDP)

-… Tôi cảm thấy hạnh phúc và bình an khi các Thầy trong ĐCV rất hòa nhã, tôn trọng và yêu thương nhau. Tôi cảm thấy sự gần gũi giữa anh em với nhau. (Giuse SAL)

-… Bài học đầu tiên đánh động nhất khi học phương pháp học, đó là “học trong tinh thần siêu nhiên”… (PĐH)

-… Tuy học trong ĐCV chưa được nhiều, nhưng tôi luôn cảm thấy được những sự quan tâm, ưu ái và sự nhiệt tâm của quý Cha giáo, thấy được niềm vui, tinh thần cộng đoàn của anh em. (Giuse TSS)

-… Khi nhìn thấy anh em chủng sinh sống vui, hài hước, con cảm nhận được một niềm động viên a đời sống tu trì tận hiến. (Phêrô NTQ)

-… Tôi lo không biết các Cha giáo nghiêm khắc hay dễ tính… Rồi hết lo vì nhận thấy các Cha giáo dễ tính, nhẹ nhàng trong giờ học, các Thầy đi trước rất ân cần, cởi mở. (Giuse GAS).

Phóng viên NMKN


 

KỶ NIỆM 20 NĂM ĐCV HUẾ TÁI HOẠT ĐỘNG

NHÌN THOÁNG MỘT CHẶNG ĐƯỜNG

(1994-2014)

 

mùa xuân 1975, cùng với những thay đổi của thời cuộc, ĐCV Huế bắt đầu ‘giấc ngủ đông’ kéo dài gần 20 năm ………

 

Mùa xuân 1994, Đức Cha Têphanô Nguyễn Như Thể được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa Tổng giáo phận Huế, ngài mời Hội Linh mục Xuân Bích trở lại đảm nhiệm việc đào tạo tại ĐCV Huế được nhà nước cho phép mở cửa tái hoạt động.

Tháng 11.1994, sau khi đã vượt qua nhiều khó khăn vật chất cũng như tinh thần trong việc chuẩn bị cơ sở, Chủng viện bắt đầu hoạt động với khóa I, gồm 40 chủng sinh từ Huế và Đà Nẵng.

Năm 1995, Cha Giám tỉnh Xuân Bích Charles Bonnet ghé thăm ĐCV. Cuối năm, Đức Tổng giám mục Huế trao giáo xứ Kim Long cho chủng viện coi sóc. Thời điểm này, Ban đào tạo gồm các Cha: Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh (Giám đốc), GB. Trần Ngọc Quỳnh, Ph. X. Nguyễn Tiến Cát, Phêrô Nguyễn Lân Mẫn, GB. Nguyễn Văn Đán. Cha Antôn Trần Minh Hiển từ miền nam ra hỗ trợ theo định kỳ.

Ngày 9.3.1996, Cha GB. Trần Ngọc Quỳnh  đột tử. Một mất mát rất lớn trong hoàn cảnh nhân sự Ban đào tạo ĐCV còn khá mỏng! ĐCV tiếp nhận khóa II, cũng từ Huế và Đà Nẵng.

Năm 1997, Cha Pierre Gastine qua đời tại nhà Solitude ở Issy-les-Moulineaux (Pháp). Ngài từng là Bề trên ĐCV Huế thời mới được ủy thác cho Xuân Bích, thập niên 1960.

Năm 1998, ĐCV nhận khóa III. Kể từ khóa này, Giáo phận Kon tum đã có thể gửi các chủng sinh của mình.

Những năm 1999 – 2000, một số việc ‘thuyên chuyển đi và đến’ diễn ra. Cha Giám đốc Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh được bổ nhiệm làm Giám mục phó Đà Nẵng; trước đó, hai Cha Đa minh Trần Thái Hiệp và Antôn Trần Minh Hiển từ Xuân Lộc chuyển ra thường trú tại ĐCV, phục vụ toàn thời gian.

Nhà ăn và thư viện được xây dựng mới. Cũng đáng kể trận lụt ‘thế kỷ’ làm thầy trò điêu đứng! Những chủng sinh đầu tiên của giai đoạn tái lập rục rịch chịu chức linh mục… ĐCV tiếp nhận khóa IV.

Năm 2001, Cha Lawrence B. Terrien, Bề trên Cả Xuân Bích, ghé thăm ĐCV Huế.

Những năm 2002 – 2004, ĐCV đều đặn nhận các khóa mới cứ hai năm  một lần, cho đến khóa IX (2009) thì bắt đầu tuyển sinh hằng năm. Trong khi tiếp tục củng cố nhân sự và thăng tiến phẩm chất đào tạo, ĐCV cũng tiếp tục nâng cấp cơ sở vật chất, đáng kể nhất là việc xây dựng khối nhà D, ba tầng, thay thế dãy nhà trệt cũ. Trong thời gian này, vào tháng 6.2003, Đức cha Bartôlômêô, cựu Bề trên ĐCV Huế (trước 1975), qua đời tại Thanh Hóa.

Năm 2005, Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Tổng trưởng Thánh Bộ Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc, ghé thăm ĐCV Huế trong chuyến viếng thăm Việt Nam của ngài. Một loạt các thành viên tăng cường cho Ban đào tạo, như các Cha An phong Trần Khánh Thành, An phong Nguyễn Hữu Long, Giuse Hồ Thứ, Đa minh Vũ Đình Thái (về từ Pháp), Micae Phaolô Trần Minh Huy (về từ Philippines). 

Những năm 2007 – 2010, Cha An phong Trần Khánh Thành lâm bạo bệnh và qua đời, an táng tại nghĩa trang ĐCV Huế.

Một chuyến viếng thăm nữa của Cha Bề trên Cả Xuân Bích. Các Cha Micae Nguyễn Hữu Đức, Phêrô Võ Xuân Tiến về từ Pháp, Cha Bernard Phạm Hữu Quang đến từ ĐCV Fukuoka, Nhật Bản, tăng cường cho Ban đào tạo và Ban giáo sư. Cha Bernard Pitaud, Giám tỉnh Xuân Bích Pháp, kinh lý ĐCV. Cha Giuse Dương Như Hoan, sau rất nhiều năm ở Pháp mới trở về Việt Nam được ít lâu, cũng bắt đầu tham gia Ban đào tạo tại Chủng viện.

 

Những năm 2011 – 2014, Ban đào tạo tiếp tục có những thay đổi nhân sự. Một số Cha thuyên chuyển hay nghỉ hưu. Cha Phó Giám đốc Ph. X. Nguyễn Tiến Cát qua đời vào mùa hè 2012. Cha An phong Nguyễn Hữu Long được bổ nhiệm Giám mục Phụ tá Hưng Hóa năm 2013.

 Hai Cha Antôn Trần Minh Hiển và Albertô Trần Phúc Nhân qua đời trong mùa hè 2014. Một số Cha lần lượt từ nước ngoài về tăng cường cho Chủng viện: Giuse Hồ Thứ và Phêrô Phan Tấn Khánh về từ Paris, Giuse Lê Công Đức và Vinh sơn Trần Minh Thực về từ Rôma. Mới đây nhất là Cha Ph. X. Trần Anh Duy từ Pháp về. Các Bề trên Xuân Bích Trung ương và Tỉnh Pháp cũng kinh lý ĐCV đều đặn hơn.

 

Đặc biệt, niên khóa 2014-2015 ĐCV Huế nhận khóa XIV, trong đó một số chủng sinh đến từ Giáo phận Hưng Hóa, bên cạnh các chủng sinh của ba giáo phận Huế, Đà Nẵng và Kon tum. Công trình xây dựng hai khối nhà mới (nhà ở, nhà ăn, nhà bếp) được thực hiện để đáp ứng nhu cầu thực tế. Deo gratias!   

Mục lục

– Những sự kiện năm qua (nhật ký) ………………………..      04

– Một linh đạo độc thân theo Thánh Kinh (chuyên đề) …….    08

– Con chiên được nâng cao …………………………………     24

– Ơn gọi của Đức Maria (chuyên đề) ………………………..    28

– Cùng Mẹ Dâng Mình thưa tiếng Xin Vâng ………………..    34

– Hãy đến cùng Giuse ……………………………………….     38

– Đêm nguyện / Chiều thu hắt nắng (thơ) ……………………   42

– Giáo hội và các phương tiện truyền thông mới ……………   43

– Gặp gỡ (truyện) ……………………………………………     49

– Nhớ về hai Cha …………………………………………….    59

– Cha An-be-tô Trần Phúc Nhân và nỗi oan còn đó …………  61

– Nghĩ về Cha Alberto ……………………………………….    65

– Còn đó một bóng hình …………………………………….     69

– Nhớ mãi nụ cười của Cố …………………………………       72

– Trở về ……………………………………………………        76

– Tạm biệt / Một lòng một chí (thơ) ………………………        79

– Khúc chia xa (thơ) ………………………………………        80

– Cảm xúc ………………………………………………….       81

– Không đề (truyện) ………………………………………..       83

– Gió (thơ) ………………………………………………….       90

– Nhìn người rồi ngẫm đến ta (chuyên đề) ………………..       91

– Cảm tưởng của ‘lính mới tò te’ (phỏng vấn) ……………     104

– Nhìn thoáng một chặng đường 20 năm ………………….    110

– Về đây với Mẹ / Tình Cha luôn bước bên con (nhạc) ….114-115

—————-

 [1] R.E. Brown và các tác giả khác, Mary in the New Testament, Claretian Publications (Phil. Edition), Q.C., 1986, tr. 114.

[2] Để có một nghiên cứu chi tiết hơn, x. K. Stock, “Die Berufung Marias (Lk 1:27-38)”, trong Biblica, 61 (1980), tr. 458-461.

[3]La vocación de líder en el antiguo Israel. Morfología de los relatos bíblicos de vocacíon, Salamanca, 1973, tr. 113-132.

[4] E. Jenni, Diccionario teológico manual del Antiguo Testamento, vol. I, Madrid, 1978, col. 397.

[5] R.E. Brown, op.cit., tr. 112.

[6] x. K. Stock, op. cit., tr. 465.

[7] Xem thêm NGỌC LAN, “Ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông trong đời sống nhân loại hôm nay” trong http://hdgmvietnam.org (13/9/2014).

[8] Tài liệu Đạo đức truyền thông, số 27, trích từ hậu chú số 10 trong NGỌC LAN, Ibid…

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Năm 2024
H B T N S B C
« Th4    
  1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31