SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO 2022 : « CÁC CON SẼ LÀ CHỨNG NHÂN CỦA THẦY »
Trong sứ điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2022, được công bố hôm 6/1/2022, với tựa đề « Các con sẽ là chứng nhân của Thầy », Đức Phanxicô đề nghị « dừng lại ở ba cách diễn đạt chủ chốt » để hiểu « ba nền tảng của đời sống và sứ mạng của các môn đệ: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy”, “cho đến tận cùng trái đất” và “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em”. » Và qua Sứ điệp này, Đức Thánh Cha cho biết ngài « tiếp tục ước mơ về một Giáo hội hoàn toàn truyền giáo và một mùa xuân truyền giáo mới nơi các cộng đoàn Kitô hữu. »
Với nền tảng thứ nhất của đời sống và sứ mạng của Giáo hội (« Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy »), Đức Thánh Cha nhắc lại « căn tính của Giáo hội là loan báo Tin Mừng », và « mọi Kitô hữu đều được mời gọi trở nên nhà thừa sai và chứng nhân của Chúa Kitô ». Sứ mạng này có đặc tính « cộng đoàn-giáo hội », chứ không phải sáng kiến cá nhân, và người Kitô hữu luôn « được yêu cầu sống đời sống cá nhân của mình theo nhãn quan sứ mạng » này. Nhất là Đức Thánh Cha nhắc nhớ : « Đối với việc loan truyền đức tin, chứng tá về đời sống Tin Mừng của các Kitô hữu là nền tảng ».
Qua nền tảng thứ hai (“Cho đến tận cùng trái đất”), Đức Thánh Cha khẳng định : « Giáo hội của Chúa Kitô đã, đang và sẽ luôn “đi ra” hướng đến những chân trời địa lý, xã hội và hiện sinh mới, hướng đến những nơi chốn và những hoàn cảnh nhân sinh “giới hạn”, để làm chứng cho Chúa Kitô và tình yêu của Ngài đối với mọi người nam và người nữ của mọi dân tộc, mọi nền văn hóa và mọi địa vị xã hội. Theo nghĩa này, sứ mạng cũng sẽ luôn luôn là “missio ad gentes” (sứ mạng đến với muôn dân) ».
Trên nền tảng thứ ba (“Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em”), Đức Thánh Cha lưu ý : « Mọi môn đệ truyền giáo của Chúa Kitô đều được mời gọi nhận ra tầm quan trọng nền tảng của hoạt động của Chúa Thánh Thần, sống với Ngài trong đời sống thường ngày và không ngừng đón nhận từ Ngài sức mạnh và sự soi dẫn », vì « Chúa Thánh Thần là nhân vật chính đích thực của sứ mạng: chính Ngài mang lại lời đúng đắn, đúng lúc và đúng cách ».
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhắc đến bốn Hội Giáo hoàng Truyền giáo (Hội Truyền bá Đức tin do Pauline Jaricot thành lập ; Hội Nhi đồng Truyền giáo do Đức Giám mục Charles de Forbin-Janson thiết lập ; Hội Truyền giáo thánh Phêrô Tông đồ do Bà Jeanne Bigard thành lập ; và Hội Giáo sĩ Truyền giáo do chân phước Paolo Manna thành lập) trong năm kỷ niệm đặc biệt của họ cũng như nhấn mạnh công lao to lớn mà các Hội này đã góp phần vào công cuộc truyền giáo cua Giáo hội, và qua đó « mong ước rằng các Giáo hội địa phương sẽ tìm thấy nơi các Hội này một công cụ vững chắc để nuôi dưỡng tinh thần truyền giáo trong Dân Thiên Chúa. »
Dưới đây là toàn văn sứ điệp của Đức Thánh Cha :
« Các con sẽ là chứng nhân của Thầy » (Cv 1, 8)
Anh chị em thân mến,
Những lời này nằm trong cuộc nói chuyện cuối cùng của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ của Ngài, trước khi về Trời, như được mô tả trong sách Công vụ Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Và đó cũng là chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2022, giúp chúng ta, như mọi khi, sống sự kiện Giáo hội tự bản chất là thừa sai. Năm nay, nó cho chúng ta cơ hội kỷ niệm một vài ngày kỷ niệm quan trọng đối với đời sống và sứ mạng của Giáo hội: cách đây 400 năm, thành lập Bộ Truyền bá Đức tin – ngày nay là Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc – và, cách đây 200 năm, Hội Truyền bá Đức tin mà, cùng với Hội Nhi đồng Truyền giáo và Hội truyền giáo thánh Phêrô Tông đồ, đã được công nhận là “thuộc Giáo hoàng” cách đây 100 năm.
Chúng ta hãy dừng lại ở ba cách diễn đạt chủ chốt tóm tắt ba nền tảng của đời sống và sứ mạng của các môn đệ: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy”, “cho đến tận cùng trái đất” và “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em”.
- « Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy » – Lời mời gọi tất cả các Kitô hữu làm chứng cho Chúa Kitô
Đó là điểm trọng tâm, đó là trung tâm của giáo huấn của Chúa Giêsu cho các môn đệ về sứ mạng của họ trên thế giới. Tất cả các môn đệ sẽ là chứng nhân của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần mà học sẽ nhận được: họ sẽ được tạo nên như thế bởi ân sủng. Dù họ đi đâu, dù họ ở đâu. Cũng như Chúa Kitô là Đấng được sai đi đầu tiên, tức là nhà thừa sai của Chúa Cha (x. Ga 20, 21) và, với tư cách như thế, là “chứng nhân trung thành” của Ngài (x. Kh 1, 5), thì cũng thế, mọi Kitô hữu đều được mời gọi trở nên nhà thừa sai và chứng nhân của Chúa Kitô. Và Giáo hội, cộng đồng môn đệ của Chúa Kitô, không có sứ mạng nào khác là sứ mạng loan báo Tin Mừng cho thế giới bằng cách làm chứng cho Chúa Kitô. Căn tính của Giáo hội là loan báo Tin Mừng.
Việc đọc lại tổng thể cách sâu xa hơn sẽ soi sáng một số khía cạnh luôn thời sự đối với sứ mạng được Chúa Kitô giao phó cho các môn đệ của Ngài: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy”. Hình thức số nhiều nhấn mạnh đặc tính cộng đoàn-giáo hội của lời kêu gọi truyền giáo của các môn đệ. Mọi tín hữu chịu phép rửa đều được mời gọi đến sứ mạng trong Giáo hội và theo sự ủy thác của Giáo hội: vì thế, sứ mạng được thực hiện cùng nhau, chứ không phải cách cá nhân, trong sự hiệp thông với cộng đoàn Giáo hội chứ không phải theo sáng kiến riêng của mình. Và dù có ai đó, trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng một mình, nhưng người ấy thực thi sứ mạng ấy và sẽ luôn phải thực thi sứ mạng đó trong sự hiệp thông với Giáo hội đã sai người ấy. Như thánh Phaolô VI dạy trong Tông huấn Evangelii nuntiandi, một văn kiện rất yêu thích của tôi: “Loan báo Tin Mừng không phải là một hành vi cá nhân và cô độc đối với bất kỳ ai, nhưng đó là một hành vi mang tính giáo hội rất sâu xa. Khi nhà rao giảng âm thầm nhất, giáo lý viên hay mục tử, ở vùng đất xa xôi nhất, rao giảng Tin Mừng, tập hợp cộng đoàn bé nhỏ của mình hay ban một bí tích, dù là một mình, thì người đó làm một hành vi Giáo hội và cử chỉ của người đó chắc chắn được liên kết, qua các mối tương quan thể chế, nhưng cũng bằng những mối liên hệ vô hình và bởi cội nguồn ngầm của trật tự ân sủng, với hoạt động loan báo Tin Mừng của toàn thể Giáo hội” (số 60). Quả thế, không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu đã sai các môn đệ của Ngài đi truyền giáo từng hai người một. Chứng tá của các Kitô hữu đối với Chúa Kitô có một đặc tính chủ yếu là cộng đoàn. Từ đó tầm quan trọng thiết yếu của sự hiện diện của một cộng đồng, dù là nhỏ bé, trong việc thực thi sứ mạng.
Hai là, các môn đệ được yêu cầu sống đời sống cá nhân của mình theo nhãn quan sứ mạng: họ được Chúa Giêsu sai đi vào thế giới để trở nên những chứng nhân của Chúa Kitô. Như thánh Phaolô Tông đồ đã nói bằng những từ ngữ rất cảm động: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình sự chết của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4, 10). Bản chất của sứ mạng là làm chứng cho Chúa Kitô, tức là cho sự sống, cuộc thương khó, sự chết và sự phục sinh của Ngài vì tình yêu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại. Không phải ngẫu nhiên mà các Tông đồ đã tìm các thay thế Giuđa trong số những người, giống như các ngài, đã là “chứng nhân về sự phục sinh của Người” (Cv 1, 22). Chính từ Chúa Kitô, và từ Chúa Kitô phục sinh mà chúng ta phải làm chứng và chúng ta phải chia sẻ sự sống. Các nhà thừa sai của Chúa Kitô không được sai đi để rao truyền chính mình, để cho thấy các phẩm chất và khả năng thuyết phục hay kỹ năng quản trị của mình. Trái lại, họ có vinh dự lớn lao là trao ban Chúa Kitô, bằng lời nói và hành động, bằng cách loan báo cho tất cả mọi người Tin Mừng về ơn cứu độ cách vui tươi và chân thành, như các Tông đồ đầu tiên.
Do đó, suy cho đến cùng, chứng nhân đích thực, đó là “tuẫn đạo”, người trao hiến hiến mạng sống mình vì Chúa Kitô để đổi lấy sự trao hiến chính bản thân Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta. “Động lực đầu tiên để loan báo Tin Mừng là tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta đã lãnh nhận, kinh nghiệm được Ngài cứu độ đã thúc đẩy chúng ta yêu mến Ngài luôn hơn nữa” (Evangelii gaudium, số 264).
Sau cùng, liên quan đến chứng tá Kitô hữu, nhận xét của thánh Phaolô VI vẫn luôn luôn thích đáng: “Con người đương đại sẵn sàng lắng nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy hoặc, nếu họ lắng nghe các thầy dạy, đó là bởi vì các thầy dạy này là những chứng nhân” (Evangelii nuntiandi, số 41). Do đó, đối với việc loan truyền đức tin, chứng tá về đời sống Tin Mừng của các Kitô hữu là nền tảng. Cũng thế, nhiệm vụ rao giảng con người và sứ điệp của Ngài vẫn cần thiết. Quả thế, chính Đức Phaolô VI nói tiếp: “Đúng vậy, luôn luôn cần thiết, việc rao giảng, việc công bố một sứ điệp bằng lời nói này […] Lời nói vẫn luôn thời sự, nhất là khi nó mang sức mạnh của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao tiên đề của thánh Phaolô vẫn còn có tính thời sự: “Có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10, 17): chính Lời được nghe đưa đến lòng tin” (ibid., số 42).
Do đó, gương sống của người Kitô hữu và việc rao giảng Chúa Kitô đi đôi với nhau trong việc loan báo Tin Mừng. Điều này phục vụ điều kia. Đó là hai lá phổi mà toàn thể cộng đoàn phải hít thở để trở thành nhà truyền giáo. Chứng tá trọn vẹn, mạch lạc và vui tươi về Chúa Kitô chắc chắn sẽ là sức mạnh lôi cuốn cho sự phát triển của Giáo hội cả trong thiên niên kỷ thứ ba. Vì thế, tôi khuyến khích mỗi người tìm lại lòng can đảm, sự thẳng thắn, sự gan dạ của các Kitô hữu đầu tiên, để làm chứng cho Chúa Kitô bằng lời nói và hành động, trong mọi lãnh vực của cuộc sống.
- “Cho đến tận cùng trái đất” – Tính thời sự luôn mãi của một sứ mạng phổ quát loan báo Tin Mừng
Khi khuyến khích các môn đệ trở thành chứng nhân của Ngài, Chúa phục sinh đã nói với họ nơi nào họ được sai đi: “Tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Đặc tính phổ quát của sứ mạng của các môn đệ xuất hiện rõ ràng ở đây. Chuyển động địa lý “ly tâm” được làm nổi bật, gần như theo vòng tròn đồng tâm, từ Giêrusalem vốn được truyền thống Do Thái coi như là trung tâm của thế giới, đến Giuđê và Samaria, và cho đến “tận cùng trái đất”. Họ không được sai đi để chiêu dụ tín đồ nhưng để rao giảng. Kitô hữu không được chiêu dụ tín đồ. Sách Công vụ Tông đồ kể lại cho chúng ta chuyển động truyền giáo này: nó mang lại cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp về Giáo hội “đi ra” để thực hiện ơn gọi làm chứng cho Chúa Kitô của mình, được hướng dẫn bởi sự quan phòng của Thiên Chúa trong các hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống. Quả thế, các Kitô hữu đầu tiên đã bị bách hại ở Giêrusalem và đó là lý do tại sao họ bị phân tán đến Giuđê và Samari và đã làm chứng cho Chúa Kitô ở khắp nơi (x. Cv 8, 1.4).
Điều gì đó tương tự vẫn đang xảy ra vào thời đại của chúng ta. Do những cuộc bách hại tôn giáo và những hoàn cảnh chiến tranh và bạo lực, nhiều Kitô hữu bó buộc phải chạy trốn khỏi vùng đất của họ để đến những nước khác. Chúng ta biết ơn đối với các anh chị em này đã không nhốt mình trong nỗi đau khổ, nhưng làm chứng cho Chúa Kitô và tình yêu của Thiên Chúa nơi những đất nước đón tiếp họ. Đó là điều mà thánh Phaolô VI đã khuyến khích làm khi ngài cân nhắc “trách nhiệm của người di cư tại các nước đón tiếp họ” (Evangelii nuntiandi, số 21). Quả thế, chúng ta ngày càng cảm nghiệm được làm thế nào sự hiện diện của các tín hữu thuộc nhiều quốc tịch khác nhau đang làm phong phú thêm khuôn mặt của các giáo xứ và làm cho chúng trở nên phổ quát hơn, công giáo hơn. Do đó, việc mục vụ di dân là một hoạt động truyền giáo không được chểnh mảng, nó cũng có thể giúp đỡ các tín hữu địa phương tái khám phá niềm vui của đức tin Kitô giáo mà họ đã nhận được.
Chỉ dẫn “cho đến tận cùng trái đất” sẽ chất vấn các môn đệ của Chúa Giêsu ở mọi thời đại và sẽ thúc đẩy họ vượt ra khỏi những nơi chốn thông thường để làm chứng cho Ngài. Bất chấp mọi điều kiện dễ dàng do sự tiến bộ của thời hiện đại, ngày nay vẫn còn những khu vực địa lý mà các nhà thừa sai chứng nhân của Chúa Kitô vẫn chưa đến được với Tin Mừng về tình yêu của Ngài. Mặt khác, không một thực tại nhân loại nào phải xa lạ với sự quan tâm của các môn đệ của Chúa Kitô trong sứ mạng của họ. Giáo hội của Chúa Kitô đã, đang và sẽ luôn “đi ra” hướng đến những chân trời địa lý, xã hội và hiện sinh mới, hướng đến những nơi chốn và những hoàn cảnh nhân sinh “giới hạn”, để làm chứng cho Chúa Kitô và tình yêu của Ngài đối với mọi người nam và người nữ của mọi dân tộc, mọi nền văn hóa và mọi địa vị xã hội. Theo nghĩa này, sứ mạng cũng sẽ luôn luôn là “missio ad gentes” (sứ mạng đến với muôn dân), như Công đồng Vatican II đã dạy chúng ta, vì Giáo hội sẽ luôn phải vượt lên trên, lên trên những giới hạn của chính mình, để làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô đối với mọi người. Về phương diện này, tôi muốn nhắc lại kỷ niệm và cảm ơn nhiều nhà thừa sai đã tiêu hao đời mình để vượt “lên trên”, bằng cách thể hiện đức ái của Chúa Kitô đối với nhiều anh chị em mà họ đã gặp gỡ.
- “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” – Luôn để bản thân được củng cố và hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần
Khi loan báo cho các môn đệ sứ mạng trở thành chứng nhân của Ngài, Chúa Kitô phục sinh cũng hứa ban ân sủng cho một trách nhiệm lớn lao như thế: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em; bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1, 8). Quả thế, theo trình thuật của sách Công vụ Tông đồ, chính sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ của Chúa Giêsu mà hành động đầu tiên làm chứng cho Chúa Ktiô chết và phục sinh đã diễn ra, với lời rao giảng Kerygma, bài giảng truyền giáo của thánh Phêrô cho cư dân của Giêrusalem. Kỷ nguyên Phúc Âm hóa thế giới bởi các môn đệ của Chúa Giêsu đã bắt đầu như thế, những người mà trước đó yếu đuối, sợ hãi và khép kín. Chúa Thánh Thần đã củng cố họ, ban cho họ ơn can đảm và khôn ngoan để làm chứng cho Chúa Kitô trước mặt mọi người.
Cũng như “không ai có thể nói: “Đức Giêsu là Chúa” nếu không ở trong Chúa Thánh Thần” (1Cr 12, 3), thì cũng thế, không một Kitô hữu nào có thể làm chứng trọn vẹn và đích thực cho Chúa Kitô nếu không có sự soi dẫn và giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Do đó, mọi môn đệ truyền giáo của Chúa Kitô đều được mời gọi nhận ra tầm quan trọng nền tảng của hoạt động của Chúa Thánh Thần, sống với Ngài trong đời sống thường ngày và không ngừng đón nhận từ Ngài sức mạnh và sự soi dẫn. Hơn nữa, khi cảm thấy mệt mỏi, nản lòng, lạc lõng, chúng ta hãy nhớ hướng về Chúa Thánh Thần trong lời cầu nguyện, Đấng – tôi muốn nhân mạnh một lần nữa – có một vai trò nền tảng trong đời sống sứ mạng, để cho Ngài phục hồi và củng cố chúng ta, Ngài vốn là nguồn năng lượng mới vô tận của Thiên Chúa và nguồn vui chia sẻ sự sống của Chúa Kitô với người khác. “Lãnh nhận niềm vui của Chúa Thánh Thần là một ân sủng. Đó là sức mạnh duy nhát mà chúng ta có thể có để rao giảng Tin Mừng, để tuyên xưng đức tin vào Chúa” (Sứ điệp cho các Hội Giáo hoàng Truyền Giáo, 21/5/2020). Vì thế, Chúa Thánh Thần là nhân vật chính đích thực của sứ mạng: chính Ngài mang lại lời đúng đắn, đúng lúc và đúng cách.
Chính dưới ánh sáng của hoạt động của Chúa Thánh Thần mà chúng ta cũng muốn đọc những ngày kỷ niệm truyền giáo của năm 2022. Việc thiết lập Thánh Bộ Truyền bá Đức tin , vào năm 1622, đã được thúc đẩy bởi ước muốn cổ võ mệnh lệnh truyền giáo ở các vùng lãnh thổ mới. Một trực giác quan phòng! Bộ đã tỏ rõ tầm quan trọng trong việc làm cho sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội thực sự như thế, tức là không phụ thuộc vào sự can thiệp của các quyền lực trên thế giới, để thiết lập các Giáo hội địa phương vốn đang chứng tỏ sức sống mạnh mẽ như thế ngày nay. Chúng ta hy vọng rằng, như trong bốn thế kỷ qua, Bộ, với ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, sẽ tiếp tục và tăng cường công việc phối hợp, tổ chức và thúc đẩy các hoạt động truyền giáo của Giáo hội.
Cũng chính Thánh Thần, Đấng hướng dẫn Giáo hội hoàn vũ, cũng soi dẫn những người nam và người nữ đơn sơ đối với những sứ mạng phi thường. Chính như thế mà Pauline Jaricot, một phụ nữ trẻ người Pháp, đã thành lập Hội Truyền bá Đức tin, cách đây đúng 200 năm. Việc phong chân phước cho chị sẽ được cử hành trong năm thánh này. Dù ở trong điều kiện bấp bênh, chị đã chấp nhận sự soi dẫn của Thiên Chúa để thiết lập một mạng lưới cầu nguyện và quyên góp cho các nhà truyền giáo, để các tín hữu có thể tham dự cách chủ động vào sứ mạng “cho đến tận cùng trái đất”. Từ ý tưởng tuyệt vời này đã nảy sinh Ngày Thế Giới Truyền Giáo, mà chúng ta cử hành mỗi năm, và việc quyên góp trong tất cả các cộng đoàn được dành cho quỹ chung mà Đức Giáo hoàng hỗ trợ hoạt động truyền giáo.
Trong khung cảnh này, tôi cũng nhớ đến Đức Giám mục Charles de Forbin-Janson, người Pháp, đã phát động Hội Nhi đồng Truyền Giáo để cổ võ việc truyền giáo nơi các thiếu nhi với phương châm “thiếu nhi loan báo Tin Mừng cho thiếu nhi, thiếu nhi cầu nguyện cho thiếu nhi, thiếu nhi giúp đỡ thiếu nhi trên toàn thế giới”; cũng thế Bà Jeanne Bigard đã thành lập Hội Truyền giáo thánh Phêrô Tông đồ để hỗ trợ các chủng sinh và linh mục nơi các xứ truyền giáo. Ba Hội truyền giáo này đã được công nhân là “thuộc Giáo hoàng” cách đây chỉ một trăm năm. Và cũng chính dưới sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà chân phước Paolo Manna, sinh cách đây 150 năm, đã thành lập Hiệp hội Giáo sĩ Truyền giáo hiện nay để thúc đẩy và khích lệ các linh mục, tu sĩ và toàn dân Thiên Chúa tham gia vào sứ mạng. Chính Đức Phaolô VI từng là thành viên của Hội này và đã công nhận nó thuộc giáo hoàng. Tôi đề cập bốn Hội Giáo hoàng Truyền giáo này vì những công lao lịch sử to lớn của họ và cũng để mời gọi anh chị em vui mừng với họ trong năm đặc biệt này vì những hoạt động của họ nhằm hỗ trợ cho sứ mạng loan báo Tin Mừng trong Giáo hội hoàn vũ và trong các Giáo hội địa phương. Tôi mong ước rằng các Giáo hội địa phương sẽ tìm thấy nơi các Hội này một công cụ vững chắc để nuôi dưỡng tinh thần truyền giáo trong Dân Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, tôi tiếp tục ước mơ về một Giáo hội hoàn toàn truyền giáo và một mùa xuân truyền giáo mới nơi các cộng đoàn Kitô hữu. Và tôi lặp lại mong ước của Môisê đối với dân Thiên Chúa đang lữ hành: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11, 29). Vâng, xin cho tất cả chúng ta, trong Giáo hội, trở nên những gì chúng ta đã là nhờ bí tích Rửa tội: các ngôn sứ, các chứng nhân, các nhà thừa sai của Chúa! Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và cho đến tận cùng trái đất. Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương Truyền Giáo, xin cầu cho chúng con!
Rôma, Đền thờ thánh Gioan Latêranô, ngày 6 tháng 1 năm 2022, Lễ Chúa Hiển Linh.
Phanxicô
——————————–
Tý Linh chuyển ngữ
(nguồn: Vatican.va)
Tags: Phanxicô-I
Trackback from your site.
Bài viết cùng chủ đề
- DIỄN VĂN CỦA PHANXICÔ CHO CÁC THAM DỰ VIÊN CUỘC HỌP ĐƯỢC TỔ CHỨC BỞI TÒA THƯỢNG THẨM RÔMA
- THƯ VỀ VIỆC ĐỔI MỚI NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ GIÁO HỘI
- BÀI GIÁO LÝ VỀ CHÚA THÁNH THẦN VÀ HIỀN THÊ – BÀI 14. CÁC ƠN CỦA HIỀN THÊ. CÁC ĐẶC SỦNG, NHỮNG ƠN CỦA CHÚA THÁNH THẦN VÌ ÍCH CHUNG
- ẤN BẢN MỚI CỦA SÁCH BÀI ĐỌC DÀNH CHO TANG LỄ CỦA ĐỨC THÁNH CHA
- CARLO ACUTIS VÀ PIER GIORGIO FRASSATI SẼ ĐƯỢC PHONG THÁNH TRONG NĂM THÁNH
- ĐỨC PHANXICÔ: THIÊN CHÚA SẼ CÓ LỜI CUỐI CÙNG VỀ CUỘC CHIẾN Ở UCRAINA
- SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC PHANXICÔ CHO NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ LẦN THỨ 39 : TÔI XÂY DỰNG CUỘC SỐNG CỦA TÔI TRÊN NHỮNG NIỀM HY VỌNG NÀO ?
- SỰ KHÔNG CHẮC CHẮN TO LỚN VỀ CÁC SỐ LIỆU CỦA CUỘC XUNG ĐỘT
- THƯ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ VỀ VIỆC KÍNH NHỚ CÁC THÁNH, CHÂN PHƯỚC, ĐẤNG ĐÁNG KÍNH VÀ TÔI TỚ CHÚA CỦA CÁC GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
- KINH TRUYỀN TIN CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B: MỌI SỰ ĐỀU QUA ĐI, CHÚA KITÔ VẪN CÒN MÃI
- TÀI LIỆU CHUNG KẾT THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC LẦN THỨ XVI
- HÌNH ẢNH ĐỨC PHANXICÔ ĂN TRƯA VỚI 1300 NGƯỜI NGHÈO
- BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC PHANXICÔ TRONG THÁNH LỄ CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B, NHÂN NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO : XIN ĐỪNG QUÊN NGƯỜI NGHÈO
- “HÃY ĐẾN TẤT CẢ CÁC NHÀ TÙ”
- LAO ĐỘNG: PHÚC LÀNH HAY HÌNH PHẠT THEO THÁNH KINH?
- CÔNG ÍCH THƯỜNG BỊ PHỚT LỜ TRONG HÀNH ĐỘNG
- NICARAGUA: CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC BỊ TRỤC XUẤT ĐẾN GUATEMALA
- NÊN THÁNH, ĐÓ LÀ “ĐỂ MÌNH ĐƯỢC BIẾN ĐỔI BỞI SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU THIÊN CHÚA”
- NGƯỜI CÔNG GIÁO, NHỮNG NHÀ VÔ ĐỊCH HOẠT ĐỘNG TÌNH NGUYỆN Ở PHÁP
- BÀI GIÁO LÝ VỀ CHÚA THÁNH THẦN VÀ HIỀN THÊ – BÀI 13. MỘT BỨC THƯ ĐƯỢC VIẾT BỞI THÁNH THẦN CỦA THIÊN CHÚA HẰNG SỐNG : ĐỨC MARIA VÀ CHÚA THÁNH THẦN