TÔNG HUẤN NIỀM VUI YÊU THƯƠNG (AMORIS LAETITIA) – BẢN DỊCH ĐẦY ĐỦ (2)

Written by lcd on Tháng Năm 10th, 2016. Posted in Gia đình, Lm Lê Công Đức, Thiên Phong, Tông huấn, Văn kiện Giáo Hội

Lm. Lê Công Đức dịch

CHƯƠNG 5 – 9

CHƯƠNG NĂM:

LÀM CHO TÌNH YÊU SINH HOA KẾT QUẢ

  1. Tình yêu luôn luôn đem lại sự sống. Tình yêu phu phụ “không kết thúc nơi đôi vợ chồng… Đôi bạn, khi tự hiến cho nhau, không phải chỉ trao ban chính mình mà cả thực tại con cái nữa, con cái là một phản ảnh sống động của tình yêu giữa vợ chồng, một dấu hiệu vĩnh viễn về sự hiệp nhất phu phụ, và là một tổng hợp sống động không thể tách rời của căn tính làm cha làm mẹ nơi đôi bạn”.[1]

ĐÓN NHẬN MỘT SỰ SỐNG MỚI

  1. Gia đình là khung cảnh trong đó một sự sống mới không chỉ được sinh ra mà còn được đón nhận như quà tặng của Thiên Chúa. Mỗi sự sống mới “cho phép chúng ta trân trọng chiều kích hoàn toàn nhưng không của tình yêu, chiều kích mãi còn làm chúng ta ngạc nhiên. Trước hết là vẻ đẹp của tình trạng được yêu: con cái được yêu thương ngay cả trước khi chúng xuất hiện”.[2] Ở đây chúng ta thấy một phản ảnh của tính khởi phát của tình yêu Thiên Chúa, Đấng luôn luôn đi bước trước, vì con cái “được yêu thương trước khi chúng có thể làm bất cứ gì để xứng đáng với tình yêu ấy”.[3] Tuy nhiên, “từ những khoảnh khắc đầu tiên của cuộc đời chúng, nhiều con cái bị loại trừ, bỏ rơi, và bị tước mất tuổi thơ và tương lai của chúng. Có những kẻ dám nói, như để biện minh cho chính mình, rằng thật là sai lầm việc đưa những đứa con này vào đời. Đáng xấu hổ biết bao! … Làm sao chúng ta có thể đưa ra những tuyên bố dõng dạc về nhân quyền và quyền trẻ em, nếu chúng ta trừng phạt trẻ em vì những sai lỗi của người lớn?”[4] Nếu một đứa trẻ xuất hiện trên đời trong những trường hợp ngoài ý muốn, những người cha mẹ và các thành viên khác của gia đình phải làm mọi sự có thể để đón nhận đứa trẻ ấy như một quà tặng của Thiên Chúa và có trách nhiệm đón nhận nó với lòng quảng đại và yêu thương. Vì “khi nói về những đứa con có mặt trên đời, thì không có hy sinh nào của người lớn có thể được xem là quá đắt hay quá lớn, nếu nhờ nó mà đứa trẻ không bao giờ phải cảm thấy rằng mình là một sự sai sót ngoài ý muốn, hay mình hoàn toàn vô giá trị hay bị bỏ mặc cho sự vùi dập của đời và sự ngạo mạn của con người”.[5] Một đứa con mới chào đời như một quà tặng, được Chúa ký thác cho một người cha và một người mẹ, bắt đầu với sự chấp nhận, rồi tiếp tục với sự bảo vệ suốt cả đời, và mục tiêu cuối cùng là đạt đến niềm vui của sự sống vĩnh cửu. Qua việc trầm lắng chiêm ngắm sự hoàn thành cuối cùng của mỗi nhân vị con người, các bậc cha mẹ sẽ ý thức hơn về quà tặng quí giá được ủy trao cho mình. Vì Thiên Chúa cho phép cha mẹ chọn lựa tên gọi mà theo đó chính Ngài sẽ gọi con cái của họ vào đời sống vĩnh cửu.[6]
  1. Những gia đình lớn là niềm vui cho Giáo Hội. Đó là một biểu hiện của hoa trái tình yêu. Đồng thời, Thánh Gioan Phaolô II giải thích rất hay rằng vai trò làm cha mẹ có trách nhiệm không có nghĩa là “sinh sản vô giới hạn hay không ý thức về những gì liên quan đến việc nuôi dạy con cái, nhưng đúng hơn nó thúc đẩy cha mẹ dùng sự tự do bất khả xâm phạm của mình một cách khôn ngoan và có trách nhiệm, biết cân nhắc đến các thực tế về nhân khẩu và xã hội, cũng như hoàn cảnh riêng và những ước vọng chính đáng của mình”.[7]

Tình yêu và việc mang thai

  1. Mang thai là một giai đoạn khó khăn nhưng rất kỳ diệu. Một người mẹ cộng tác với Thiên Chúa trong việc thực hiện cái phép lạ đem lại sự sống mới. Thiên chức làm mẹ là một “tiềm năng sáng tạo riêng của thân thể phụ nữ, được định hướng dẫn đến việc thụ thai và sinh hạ một con người mới”.[8] Mỗi người nữ đều chia sẻ trong “mầu nhiệm sáng tạo, được tái hiện nơi mỗi cuộc sinh hạ”.[9] Tác giả Thánh Vịnh nói: “Ngài dệt con trong dạ mẫu thân con” (Tv 139,13). Mỗi đứa con lớn lên trong cung lòng người mẹ là một phần của kế hoạch yêu thương vĩnh cửu của Chúa Cha: “Trước khi ngươi thành hình trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi chào đời, Ta đã thánh hiến ngươi” (Gr 1,5). Mỗi đứa trẻ có một chỗ trong trái tim của Thiên Chúa từ đời đời; khi đứa trẻ được thụ thai, giấc mơ vĩnh cửu ấy của Đấng Tạo Hóa trở thành hiện thực. Chúng ta hãy nghĩ đến giá trị cao cả của phôi thai ngay từ khoảnh khắc thụ thai. Chúng ta cần nhìn nó với cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn nhìn thấy điều vượt quá những dáng vẻ đơn thuần bề ngoài.
  2. Một phụ nữ mang thai có thể tham dự vào kế hoạch của Thiên Chúa bằng cách dệt ước mơ về đứa con của mình. “Trong chín tháng, mọi người mẹ và người cha đều ước mơ về đứa con của họ… Bạn không thể có một gia đình mà không có những giấc mơ. Một khi gia đình mất khả năng ước mơ, con cái sẽ ngừng lớn lên, tình yêu sẽ ngừng lớn lên, sự sống sẽ héo hắt và tàn lụi”.[10] Đối với các đôi bạn Kitô hữu, Phép Rửa phải nhất thiết hiện ra như một phần của giấc mơ ấy. Với lời cầu nguyện của mình, các bậc cha mẹ chuẩn bị cho Phép Rửa, ký thác đứa trẻ của mình cho Chúa Giêsu ngay cả trước khi nó chào đời.
  1. Những tiến bộ khoa học ngày nay cho phép chúng ta biết trước về màu tóc của đứa trẻ hay những bệnh tật tiềm tàng, vì tất cả những sắc thái thể lý của con người được ghi sẵn trong mã di truyền của người ấy ở giai đoạn còn là phôi thai. Nhưng chỉ có Chúa Cha, Đấng Sáng Tạo, mới biết đầy đủ về đứa trẻ; chỉ mình Ngài biết căn tính và giá trị sâu xa nhất của nó. Những người mẹ đang mang thai cần xin Chúa ban cho mình sự khôn ngoan đủ để hiểu biết con cái mình và đón nhận chúng như sự thật của chúng. Một số cha mẹ nghĩ rằng đứa con mình không xuất hiện đúng vào lúc tốt nhất. Họ nên xin Chúa chữa trị và củng cố mình để biết chấp nhận đứa con cách trọn vẹn với cả tấm lòng. Thật quan trọng việc đứa con phải cảm thấy rằng mình được cha mẹ mong muốn. Nó không phải là một món đồ dùng hay một giải pháp cho một nhu cầu cá nhân nào đó. Đứa con là một con người có giá trị cao cả, và không bao giờ có thể bị sử dụng cho lợi ích riêng của người ta. Vì thế không thành vấn đề chuyện sự sống mới này có thuận tiện cho bạn hay không, nó có những dáng nét mà bạn thích hay không, hoặc nó có phù hợp với các kế hoạch và các mong muốn của bạn hay không. Vì “con cái là một quà tặng. Mỗi đứa con đều độc đáo và không thể thay thế… Chúng ta yêu thương con cái vì chúng là con cái, không phải vì chúng đẹp, hay chúng trông giống chúng ta hoặc suy nghĩ giống chúng ta, hay chúng chứa đựng các giấc mơ của chúng ta. Chúng ta yêu thương chúng vì chúng là con cái. Một đứa con là một đứa con”.[11] Tình yêu của cha mẹ là phương tiện qua đó Thiên Chúa, Cha chúng ta, diễn tả tình yêu của chính Ngài. Ngài chờ đợi cuộc chào đời của mỗi đứa trẻ, Ngài chấp nhận đứa trẻ một cách vô điều kiện, và Ngài chào đón nó một cách quảng đại.
  1. Với đầy thương mến, tôi tha thiết kêu gọi tất cả các người mẹ tương lai: hãy vui mừng và đừng để bất cứ gì tước mất của bạn niềm vui thâm sâu của thiên chức làm mẹ. Đứa con của bạn xứng đáng có được niềm hạnh phúc của bạn. Đừng để những sợ hãi, lo lắng, những bình phẩm của người khác hay những vấn đề nào đó làm giảm đi niềm vui của bạn trong tư cách là phương tiện Thiên Chúa dùng để đem lại một sự sống mới cho thế giới này. Hãy chuẩn bị chính mình cho cuộc chào đời của đứa con, nhưng không quá lo lắng ám ảnh, và hãy kết hợp với lời ca ngợi đầy hân hoan của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ của tôi, vì Ngài đã nhìn đến phận hèn tôi tớ của Ngài” (Lc 1,46-48). Hãy cố gắng cảm nghiệm niềm phấn khích thâm trầm này giữa tất cả bao ưu tư của bạn, và xin Chúa giữ gìn niềm vui của bạn, để bạn có thể chuyển thông niềm vui ấy cho đứa con của mình.

Tình yêu của người mẹ và người cha

  1. “Con cái, khi được chào đời, bắt đầu đón nhận sự nuôi dưỡng và chăm sóc, và đón nhận cả ân ban thiêng liêng của việc biết chắc rằng chúng được yêu thương. Tình yêu này được bày tỏ cho chúng xuyên qua tên gọi riêng được trao cho chúng, việc chia sẻ ngôn ngữ, những ánh nhìn yêu thương và sự tỏa sáng của một nụ cười. Bằng cách này, chúng học biết rằng vẻ đẹp của các mối tương quan con người đụng chạm đến linh hồn chúng ta, tìm kiếm sự tự do của chúng ta, chấp nhận sự khác biệt của người khác, nhìn nhận và kính trọng họ như một thành phần trong đối thoại… Đó là tình yêu, và nó chứa đựng một tia lửa của tình yêu Thiên Chúa!”[12] Mỗi đứa con có quyền nhận được tình yêu từ một người mẹ và một người cha; cả hai đều cần cho sự phát triển có tính hòa điệu và toàn vẹn của đứa trẻ. Như các giám mục Úc châu ghi nhận, mỗi người cha và mẹ “đóng góp bằng một cách thế riêng biệt cho sự lớn lên của đứa con. Tôn trọng phẩm giá của đứa trẻ có nghĩa là khẳng định nhu cầu và quyền tự nhiên của nó cần có một người mẹ và một người cha”.[13] Ở đây chúng ta đang nói đến không chỉ tình yêu của người cha và người mẹ xét như những cá thể, nhưng còn nói đến tình yêu thương nhau giữa họ nữa, được hiểu như là nguồn của sự sống con người và là nền tảng vững chắc của gia đình. Không có tình yêu ấy, một đứa trẻ có thể trở thành một đồ chơi đơn thuần. Chồng và vợ, cha và mẹ, cả hai “cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, và – theo nghĩa nào đó – là những người thông ngôn cho Ngài”.[14] Họ cho con cái thấy khuôn mặt của Chúa như người cha và người mẹ. Cùng với nhau, họ dạy về giá trị của sự tương nhượng, sự kính trọng những khác biệt, và khả năng cho và nhận. Nếu vì lý do nào đó không tránh được mà phải thiếu người cha hay người mẹ, thì thật quan trọng việc phải bù đắp cho sự mất mát này, để đứa trẻ có thể phát triển lành mạnh hướng đến trưởng thành.
  1. Cảm thức về thân phận mồ côi tác động đến nhiều trẻ em và người trẻ ngày nay thì thâm sâu hơn chúng ta tưởng. Ngày nay chúng ta nhìn nhận là hợp lẽ và thực sự đáng ao ước việc phụ nữ muốn học tập, làm việc, phát triển các kỹ năng của mình và có những mục tiêu cá nhân. Đồng thời, chúng ta không thể phớt lơ nhu cầu rằng con cái phải có sự hiện diện của người mẹ, nhất là trong những tháng đầu tiên sau khi chào đời. Thật vậy, “người phụ nữ đứng trước người đàn ông trong tư cách một người mẹ, là chủ thể của sự sống mới được thụ thai và phát triển trong mình và chính từ mình mà sự sống ấy được sinh vào đời”.[15] Việc làm suy yếu sự hiện diện của người mẹ với những phẩm chất phụ nữ của sự hiện diện ấy sẽ đặt ra một nguy cơ lớn cho thế giới chúng ta. Dĩ nhiên tôi trân trọng phong trào nữ quyền, nhưng là một nữ quyền không đòi hỏi sự đồng nhất hay phủ nhận thiên chức làm mẹ. Vì tính cao quí của phụ nữ bao gồm tất cả các quyền rút ra từ phẩm giá con người bất khả nhượng của họ, và cả thiên năng nữ tính của họ nữa, điều rất thiết yếu đối với xã hội. Các khả năng chuyên biệt của phụ nữ – cách riêng thiên chức làm mẹ – đặt ra các bổn phận, vì tính cách phụ nữ cũng gắn liền với một sứ mạng chuyên biệt trên thế giới này, một sứ mạng mà xã hội cần bảo vệ và gìn giữ vì ích lợi của tất cả.[16]
  1. “Những người mẹ là thuốc giải độc mạnh nhất trước sự lan tràn của chủ nghĩa cá nhân đầy ích kỷ… Chính những người mẹ làm chứng cho vẻ đẹp của đời sống”.[17] Chắc chắn, “một xã hội mà không có những người mẹ thì sẽ bị mất tính người, vì các bà mẹ – ngay cả trong những thời khắc tệ hại nhất – luôn luôn là chứng nhân cho sự dịu hiền, đảm đang và cho sức mạnh đạo đức. Những người mẹ thường thông truyền ý nghĩa sâu xa nhất của thực hành tôn giáo trong các kinh nguyện ban đầu và các thực hành mộ đạo mà con cái họ học theo… Nếu không có các bà mẹ, thì chẳng những sẽ không có các tín hữu mới, mà ngay chính đức tin cũng sẽ mất đi phần nhiều sự sốt sắng đơn sơ mà sâu xa của nó… Các người mẹ thân mến, xin cám ơn các chị em! Xin cám ơn các chị em vì vai trò của các chị em trong gia đình, và vì những gì các chị em cống hiến cho Giáo Hội và cho thế giới”.[18]
  1. Người mẹ trông nom đứa con mình với sự sự âu yếm và tình thương sẽ giúp đứa con lớn lên trong niềm tin tưởng, và nó sẽ kinh nghiệm rằng thế giới này là một nơi tốt lành và ấm cúng. Điều này giúp đứa con lớn lên với lòng tự trọng và, đến lượt nó, sẽ phát triển một khả năng mật thiết và thấu cảm. Người cha, về phần mình, giúp đứa con nhận hiểu những giới hạn của đời sống, để biết sẵn sáng đón nhận những thách đố của một thế giới rộng lớn hơn, và để hiểu được nhu cầu phải gắng sức làm việc. Một người cha có được một tính cách đàn ông sáng tỏ và sâu lắng, là người biểu hiện lòng yêu thương và sự quan tâm đối với vợ mình, thì cũng cần thiết như một người mẹ đầy lòng quan tâm. Có thể có một sự linh động nào đó về các vai trò và các trách nhiệm, tùy vào các hoàn cảnh cụ thể của mỗi gia đình. Nhưng sự hiện diện rõ ràng và xác định của cả hai người, nữ và nam, sẽ tạo ra môi trường tốt nhất cho sự phát triển của đứa con.
  1. Chúng ta thường nghe rằng xã hội của chúng ta là “một xã hội không cha”. Trong nền văn hóa Tây phương, người ta nói rằng hình ảnh người cha cách nào đó đang vắng mặt, thất lạc hay biến mất. Chính tính cách đàn ông dường như cũng bị chất vấn. Hệ quả là một sự nhập nhằng có thể hiểu được. “Đầu tiên, điều này được coi như một sự giải phóng: giải phóng khỏi người cha như là ông chủ, như là đại diện của một luật lệ áp đặt từ bên ngoài, như là nhà độc tài đối với hạnh phúc của con cái, và như là một cản trở sự giải phóng và sự tự trị của những người trẻ. Trong một số gia đình, chủ nghĩa độc đoán từng thống trị và, có những lúc, thậm chí là sự đàn áp”.[19] Nhưng, “như vốn thường xảy ra, người ta đi từ thái cực này đến thái cực khác. Trong thời chúng ta, dường như vấn đề không còn là sự hiện diện ngột ngạt của người cha cho bằng là sự vắng mặt của ông, ông không có mặt ở đó. Những người cha thường mải mê với chính mình và công việc của mình, có khi mải mê với sự hoàn thành bản thân, đến nỗi họ phớt lơ gia đình của họ. Họ bỏ mặc con cái còn nhỏ dại”.[20] Sự hiện diện của người cha, và cùng với nó là quyền bính của ông, cũng bị chi phối bởi lượng thời gian dành cho thông tin liên lạc và truyền thông giải trí. Ngày nay quyền bính thường bị xem là đáng ngờ và người lớn thường bị cư xử hỗn láo. Chính họ cũng trở nên bất quyết và do đó không cung cấp được sự hướng dẫn vững chắc cho con cái mình. Đảo ngược vai trò giữa cha mẹ và con cái là một điều không lành mạnh, vì nó làm ách tắc tiến trình phát triển đúng đắn mà con cái cần kinh nghiệm, và nó tước mất khỏi chúng tình yêu và sự hướng dẫn cần thiết cho sự trưởng thành.[21]
  1. Thiên Chúa đặt người cha vào trong gia đình để nhờ những ân ban gắn liền với nam tính của mình, người ấy có thể “gần gũi với vợ mình và chia sẻ mọi sự, niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và khó khăn. Và để gần gũi con cái khi chúng lớn lên – khi chúng chơi hay làm việc, khi chúng vô tư hay lo lắng, khi chúng nói huyên thiên hay thinh lặng, khi chúng gan dạ hay sợ hãi, khi chúng đi lạc và khi chúng phục thiện. Hãy làm một người cha luôn luôn hiện diện. Khi tôi nói ‘hiện diện’, tôi không có ý nói về sự ‘kiểm soát’. Những người cha quá kiểm soát sẽ che mờ con cái mình, không cho chúng phát triển”.[22] Một số người cha cảm thấy mình vô dụng hay không cần thiết, nhưng thực tế là “con cái cần một người cha chờ đợi chúng khi chúng về nhà với những vấn đề của chúng. Chúng có thể cố không nhìn nhận điều đó, không tỏ cho thấy điều đó, nhưng thực sự chúng cần như vậy”.[23] Thật đáng tiếc cho những con cái thiếu một người cha và phải lớn lên một cách dò dẫm.
  2. Một số đôi vợ chồng không thể có con. Chúng ta biết rằng đây có thể là một nguyên nhân đau khổ thực sự cho họ. Đồng thời, chúng ta cũng biết rằng “hôn nhân không được thiết lập chỉ cho việc sinh sản con cái… Ngay cả trong những trường hợp mà dù cho hai vợ chồng ước muốn mãnh liệt, họ vẫn không có con, thì hôn nhân vẫn còn nguyên đặc tính toàn vẹn và hiệp thông sự sống, và bảo tồn giá trị cũng như tính bất khả phân ly của nó”.[24] Cũng vì thế, “thiên chức làm mẹ không phải là một thực tại chỉ có tính sinh học, mà còn được diễn tả bằng nhiều cách thức đa dạng”.[25]
  1. Nhận con nuôi là một một cách rất quảng đại để làm cha mẹ. Tôi khích lệ những ai không thể có con hãy mở rộng tình yêu hôn nhân của mình để đón nhận những đứa con thiếu một hoàn cảnh gia đình thích hợp. Họ sẽ không bao giờ phải hối hận vì mình đã quảng đại như thế. Nhận nuôi một đứa con là một hành động của tình yêu, là trao tặng món quà gia đình cho ai đó không có nó. Thật quan trọng việc nhấn mạnh rằng luật pháp nên tạo điều kiện cho thủ tục nhận con nuôi, nhất là trong trường hợp những đứa con không được mong muốn, để đề phòng việc phá thai hay bỏ rơi chúng. Những người chấp nhận sự thách đố của việc nhận con nuôi và đón nhận một người con như vậy, một cách nhưng không và vô điều kiện, sẽ trở thành kênh chuyển thông tình yêu của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa phán: “Ngay cả dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta vẫn không bao giờ quên con” (Is 49,15).
  1. “Việc quyết định nhận con nuôi và cung cấp sự chăm sóc biểu hiện một loại hoa trái đặc biệt trong kinh nghiệm hôn nhân, và đây không chỉ là trường hợp của những người không có con. Trong ánh sáng của những hoàn cảnh trong đó người ta ao ước có một đứa con bằng mọi giá, như là điều cần thiết để hoàn thành chính mình, thì việc nhận con nuôi và việc cung cấp sự chăm sóc, nếu hiểu đúng, sẽ thể hiện một khía cạnh quan trọng của việc nuôi dạy con cái. Nó làm cho người ta ý thức rằng con cái, dù là con tự nhiên, con nuôi hay con được nhận để chăm sóc, vốn dĩ là những con người cần được chấp nhận, yêu thương và săn sóc, chứ không chỉ cần được đưa vào thế giới này mà thôi. Những quyền lợi thiết yếu nhất của đứa trẻ phải luôn luôn nằm bên trong bất cứ quyết định nào liên quan đến việc nhận con nuôi và nhận chăm sóc”.[26] Đàng khác, “nạn buôn bán trẻ em giữa các quốc gia và các lục địa cần phải được ngăn chặn bởi hành động pháp lý thích đáng và sự kiểm soát của nhà nước”.[27]
  1. Chúng ta cũng ghi nhớ rõ rằng sinh con và nhận con nuôi không phải là những cách duy nhất để kinh nghiệm hoa trái của tình yêu. Ngay cả những gia đình lớn cũng được mời gọi in dấu vào xã hội, tìm ra những cách khác để thể hiện hoa trái mà một cách nào đó sẽ kéo dài tình yêu vốn nâng đỡ họ. Các gia đình Kitô hữu không bao giờ được quên rằng “đức tin không tách chúng ta khỏi thế giới, nhưng đẩy chúng ta vào sâu hơn trong đó… Thật vậy, mỗi chúng ta có một vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa đến trong thế giới này”.[28] Các gia đình không nên coi mình như một nơi tị nạn khỏi xã hội, trái lại nên bước ra khỏi nhà mình trong một tinh thần liên đới với người khác. Bằng cách này, các gia đình trở thành một trung tâm hội nhập người ta vào xã hội, và là một tiếp điểm giữa các cảnh vực công cộng và riêng tư. Các đôi vợ chồng cần ý thức rõ về các bổn phận xã hội của mình. Nhờ đó, tình cảm của họ sẽ không suy giảm nhưng sẽ đầy tràn với ánh sáng mới. Như có nhà thơ nói:

Đôi bàn tay em cho anh sự âu yếm,

sự hòa điệu đổ đầy đời anh.

Anh yêu em vì đôi bàn tay em

làm việc phụng sự cho công lý.

Anh yêu em, vì em là

tình yêu của anh, bạn đồng hành của anh, và tất cả của anh.

Và trên đường phố, vai chen vai,

chúng ta không chỉ là hai”.[29]

  1. Không gia đình nào có thể sinh hoa trái nếu xem chính mình như quá khác biệt hay “được tách rời ra”. Để tránh nguy cơ này, chúng ta phải nhớ rằng gia đình của Đức Giêsu, đầy ân sủng và khôn ngoan, đã không tỏ ra khác thường hay không giống với những gia đình khác. Đó là lý do tại sao người ta người ta khó nhận ra sự khôn ngoan của Đức Giêsu: “Bởi đâu mà ông này được như vậy? Đây không phải là anh thợ mộc, con của bà Maria sao?” (Mc 6,23). “Đây không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55). Những câu hỏi này cho thấy rõ rằng gia đình của các ngài là một gia đình bình thường, gần gũi với những gia đình khác, là một thành phần bình thường trong cộng đồng. Đức Giêsu đã không lớn lên trong một mối tương quan khép kín ngột ngạt với Đức Maria và Thánh Giuse, nhưng Người sẵn sàng tương tác với gia đình rộng lớn hơn, với bà con và các bạn hữu của cha mẹ Người. Điều này giải thích tại sao trên đường trở về từ Giêrusalem, Đức Maria và Thánh Giuse có thể nghĩ rằng, trong cả ngày ấy, cậu bé Giêsu mười hai tuổi chắc hẳn ở đâu đó trong đoàn người hành hương, lắng nghe những câu chuyện của người ta và chia sẻ những quan tâm của họ: “Sau một ngày đường, ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành” (Lc 2,44). Thế nhưng có một số gia đình Kitô hữu, có thể do ngôn ngữ họ dùng, do cách họ hành động hoặc ứng xử với những người khác, hay do họ cứ thường xuyên lặp đi lặp lại vài ba chuyện gì đó thôi, rốt cục họ bị coi là xa rời và không thực sự là một thành phần của cộng đồng. Ngay cả những người họ hàng của họ cũng cảm thấy bị họ coi thường hay xét đoán.
  1. Một đôi bạn kinh nghiệm về sức mạnh của tình yêu sẽ biết rằng tình yêu ấy được mời gọi để băng bó các vết thương của những người bất hạnh, cổ võ một nền văn hóa gặp gỡ và chiến đấu cho công lý. Thiên Chúa đã trao cho gia đình cái công việc biến thế giới này thành “gia đình”[30] và giúp mỗi người nhìn thấy những người xung quanh mình là anh chị em của mình. “Một cái nhìn đầy lưu tâm đến đời sống hằng ngày của những con người nam nữ thời nay chắc chắn sẽ nhận thấy nhu cầu ở khắp mọi nơi về việc phải làm thấm nhiễm cách lành mạnh một tinh thần gia đình… Không chỉ việc tổ chức đời sống hằng ngày bị ngáng trở ngày càng hơn bởi một thứ quan liêu hoàn toàn xa lạ với những mối quan hệ nhân bản nền tảng, mà ngay cả những tập tục xã hội và chính trị cũng cho thấy những dấu hiệu của sự xuống cấp”.[31] Về phần mình, các gia đình cởi mở và đầy quan tâm sẽ tìm thấy một chỗ cho người nghèo, và xây dựng mối dây thân hữu với những người kém may mắn hơn mình. Trong những cố gắng của họ để sống theo Tin Mừng, họ ý thức về những lời của Đức Giêsu: “Những gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của ta đây, đó là các ngươi làm cho chính ta (Mt 25,40)”. Một cách rất thực tế, đời sống của họ diễn tả những điều vốn đòi hỏi tất cả chúng ta: “Khi ngươi có một bữa ăn hay bữa tiệc, đừng mời bạn hữu, hay anh em, hay bà con, hay những người khá giả, kẻo họ sẽ mời lại ngươi, và ngươi được đáp đền. Nhưng khi đãi tiệc, hãy mời những người nghèo, người tàn tật, người què, người mù, và ngươi sẽ được chúc phúc” (Lc 14,12-14). Ngươi sẽ được chúc phúc! Đây là bí quyết của hạnh phúc gia đình.
  1. Bằng chứng tá và lời nói của mình, các gia đình trình bày với người khác về Đức Giêsu. Họ chuyển thông đức tin, khơi lên khát vọng Thiên Chúa, và họ phản ảnh vẻ đẹp của Tin Mừng và lối sống theo Tin Mừng. Như vậy, hôn nhân Kitô giáo làm sinh động xã hội bằng chứng tá tình huynh đệ của mình, bằng mối quan tâm xã hội và việc lên tiếng thẳng thắn nhân danh những người thấp cổ bé miệng, bằng đức tin sáng ngời và niềm hy vọng năng động của mình. Hoa trái của hôn nhân Kitô giáo mở rộng ra, và bằng vô vàn cách thế nó làm cho tình yêu của Thiên Chúa hiện diện trong xã hội.

Phân định thân thể [của Chúa]

  1. Cũng trong chiều hướng này, chúng ta hãy nghiêm túc xem xét một bản văn Thánh Kinh vốn thường bị diễn dịch ở ngoài văn mạch hay theo một nghĩa chung chung, với nguy cơ là bỏ qua ý nghĩa trực tiếp của nó, một ý nghĩa in đậm dấu xã hội. Tôi đang nói về đoạn văn 1Cr 11,17-34, trong đó Thánh Phaolô đối mặt với một tình huống đáng xấu hổ trong cộng đoàn. Các thành viên khá giả hơn có khuynh hướng kỳ thị những người nghèo, và điều này đã bộc lộ ngay cả tại bữa ăn agape tiếp theo sau cử hành Thánh Thể. Trong khi người giàu hưởng dùng thức ăn riêng của mình, thì người nghèo đứng nhìn và cảm thấy đói: “Kẻ thì đói, người thì say sưa. Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh thị Hội Thánh của Chúa và sỉ nhục những người không có của?” (câu 21-22).
  1. Thánh Lễ đòi hỏi rằng chúng ta là thành viên của một thân thể Hội Thánh. Những ai đến với Mình và Máu Đức Kitô không thể gây thương tích cho chính Thân Thể ấy bằng cách tạo ra những sự phân biệt và chia rẽ đầy tai tiếng giữa các thành viên. Đây là ý nghĩa của việc “phân định” thân thể của Chúa, nhận ra thân thể ấy với đức tin và đức ái, cả trong những dấu hiệu bí tích lẫn trong cộng đoàn; những ai không làm thế thì đang ăn và uống sự lên án chính mình (x. câu 29). Cử hành Thánh Thể, vì thế, trở thành một lời hiệu triệu thường xuyên mời gọi mọi người “khảo sát chính mình” (câu 28), mở cửa gia đình mình để thông hiệp nhiều hơn với những người hèn mọn, và bằng cách này người ta lãnh nhận bí tích tình yêu ấy, bí tích làm cho chúng ta thành một thân thể. Chúng ta không được quên rằng “‘huyền nhiệm’ của bí tích này có một đặc tính xã hội”.[32] Khi những người lãnh nhận bí tích này dửng dưng với người nghèo và người đau khổ, hay hùa theo những hình thức khác nhau của sự chia rẽ, khinh miệt và bất bình đẳng, thì Thánh Thể được lãnh nhận một cách không xứng đáng. Đàng khác, các gia đình chuẩn bị sẵn sàng và lãnh nhận Thánh Thể thường xuyên sẽ củng cố khát vọng tình huynh đệ, ý thức xã hội và sự dấn thân cho những người túng thiếu.

ĐỜI SỐNG TRONG GIA ĐÌNH RỘNG LỚN

  1. Gia đình hạt nhân (gia đình nhỏ) cần tương tác với gia đình rộng lớn hơn, bao gồm cha mẹ, cô dì chú bác, anh chị em họ và ngay cả láng giềng. Gia đình lớn này có thể có những thành viên cần sự giúp đỡ, hay ít nhất cần sự đồng hành và tình cảm, hay sự an ủi trong hoàn cảnh đau khổ.[33] Chủ nghĩa cá nhân quá lan tràn ngày nay có thể dẫn đến việc tạo ra những cái tổ nhỏ an toàn, trong đó những người khác được thấy là sự quấy rầy hay sự đe dọa. Tuy nhiên, tình trạng cô lập như thế không thể đem lại bình an hay hạnh phúc lớn lao được; thay vào đó, nó làm chật hẹp trái tim của một gia đình và làm cho đời sống gia đình trở nên nghèo nàn hơn.

Phận làm con

  1. Trước hết, chúng ta hãy nghĩ đến cha mẹ chúng ta. Đức Giêsu bảo những người Pharisêu rằng bỏ bê cha mẹ là chống lại luật của Thiên Chúa (x. Mc 7,8-13). Chúng ta nhớ rõ rằng mỗi chúng ta là một người con, con trai hay con gái. “Dù người ta đã trưởng thành, hay đã cao niên, ngay cả đã trở thành cha hay mẹ, hay đã đảm nhận những vai trò trách nhiệm, thì đàng sau tất cả những điều ấy vẫn là căn tính của một người con. Tất cả chúng ta là những người con. Và điều này luôn luôn đưa chúng ta trở lại với sự thật rằng không phải chúng ta đã tự trao cho mình sự sống, nhưng là đã nhận lãnh nó. Món quà sự sống vĩ đại là món quà đầu tiên mà chúng ta đã nhận lãnh”.[34]
  1. Vì thế, “điều răn thứ tư yêu cầu con cái… tôn kính cha mẹ mình (x. Xh 20,12). Điều răn này đến liền sau những điều răn liên quan tới chính Thiên Chúa. Thật vậy, nó có liên hệ với một cái gì đó thánh thiêng, một cái gì đó thần linh, một cái gì đó nằm ở nền móng của mọi loại tôn kính khác dành cho con người. Phát biểu của Thánh Kinh về điều răn thứ tư tiếp tục nói: ‘để ngươi được sống lâu trên đất mà Chúa là Thiên Chúa ngươi ban cho ngươi’. Mối ràng buộc đạo đức giữa các thế hệ là sự bảo đảm cho tương lai, và cũng là sự bảo đảm cho một xã hội thực sự nhân văn. Một xã hội trong đó con cái không tôn kính cha mẹ mình là một xã hội không có danh dự… Đó là một xã hội sẽ gồm toàn những người trẻ gắt gỏng và tham lam”.[35]
  1. Tuy nhiên, còn mặt kia của đồng tiền. Như lời Chúa nói với chúng ta: “người đàn ông rời bỏ cha mẹ mình” (St 2,24). Điều này không luôn luôn xảy ra, và cuộc hôn nhân bị vướng mắc bởi người ta không thực hiện được sự hy sinh và từ bỏ cần thiết này. Cha mẹ không thể bị bỏ bê hay thờ ơ, nhưng hôn nhân trong bản chất của nó đòi hỏi rằng cha mẹ phải bị “rời bỏ”, để gia đình mới sẽ thực sự là một tổ ấm, một nơi của sự an toàn, của hy vọng và của các kế hoạch tương lai, và đôi bạn có thể thực sự trở thành “một xương một thịt” (ibid.). Trong một số cuộc hôn nhân, một người phối ngẫu giữ những bí mật không tiết lộ cho người kia, nhưng lại giãi bày cho cha mẹ mình. Kết quả là, quan điểm của cha mẹ trở thành quan trọng hơn những cảm xúc và suy nghĩ của vợ hay chồng mình. Tình trạng này không thể tiếp tục dài lâu được, và ngay cả dù cần nhiều thời gian, cả hai vợ chồng cần cố gắng tăng cường sự tin tưởng và liên lạc với nhau. Hôn nhân thách đố những người chồng và vợ tìm ra các cách thức mới mẻ để làm con của cha mẹ mình.

Những người cao tuổi

  1. “Xin chớ vứt tôi đi, lúc tuổi già, khi sức lực đã tàn, xin chớ bỏ tôi!” (Tv 71,9). Đây là lời cầu xin của người già, họ sợ bị quên lãng và loại bỏ. Cũng như Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trở thành phương tiện của Ngài để lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, thì Ngài cũng muốn chúng ta nghe tiếng kêu của những người già.[36] Đây là một thách đố cho các gia đình và các cộng đồng, vì “Giáo Hội không thể và không muốn nhượng bộ một tâm thức bất nhẫn, chưa nói là dửng dưng hay khinh miệt, đối với người già. Chúng ta phải đánh thức lại cái ý thức tập thể về lòng biết ơn, về sự trân trọng, lòng tử tế, làm cho người già cảm thấy mình là một thành viên sống động của cộng đồng. Những người cao tuổi của chúng ta là những con người nam và nữ, những người cha và những người mẹ, họ đến trước chúng ta trên con đường ta đi, trong ngôi nhà ta ở, trong cuộc chiến đấu hằng ngày của chúng ta để có được một đời sống xứng đáng hơn”.[37] Thật vậy, “tôi mong muốn một Giáo Hội thách thức nền văn hóa vứt bỏ bằng niềm vui tràn ngập của một sự đón nhận mới mẻ giữa người trẻ và người già!”[38]
  1. Thánh Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta lưu ý đến vai trò của những người già trong các gia đình, vì có những nền văn hóa mà – “nhất là theo sau sự phát triển đô thị và công nghiệp lộn xộn – cả trong quá khứ và trong hiện tại, đều đặt người già qua một bên bằng những cách không thể chấp nhận được”.[39] Người già giúp chúng ta trân trọng “tính nối tiếp của các thế hệ”, nhờ “đặc sủng làm cầu nối của họ”.[40] Rất thường, chính các bậc ông bà là người bảo đảm rằng những giá trị quan trọng được chuyển thông cho các cháu của mình, và “nhiều người có thể làm chứng rằng chính nhờ ông bà mình mà mình đã bước những bước khai tâm vào đời sống Kitô giáo”.[41] Lời nói, tình thương yêu, hay đơn thuần sự hiện diện của người già giúp con cái nhận ra rằng lịch sử không bắt đầu với mình, rằng mình hôm nay chỉ tham dự vào một cuộc hành hương từ muôn thuở trước, và rằng mình cần tôn kính tất cả những ai đã đến trước mình. Những ai phá vỡ mọi mối dây ràng buộc với quá khứ chắc chắn sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng những mối tương quan ổn định, và sẽ nhận ra rằng thực tại thì lớn hơn chính mình. “Sự lưu tâm đến người già sẽ làm cho xã hội nên khác biệt. Một xã hội (cụ thể nào đó) có dành quan tâm đến người già không? Nó có dành chỗ cho người già không? Một xã hội như thế sẽ tiến lên nếu nó tôn trọng sự khôn ngoan của những người già”.[42]
  1. Thiếu ký ức lịch sử là một khuyết điểm nghiêm trọng trong xã hội chúng ta. Một não trạng mà chỉ có thể nói “Hồi trước là chuyện hồi trước, còn bây giờ là chuyện bây giờ” thì – nói cho cùng – là một não trạng ấu trĩ. Hiểu biết và thẩm xét những biến cố quá khứ là cách duy nhất để xây dựng một tương lai có ý nghĩa. Ký ức cần để lớn lên: “Hãy nhớ lại những thời xưa cũ” (Dt 10,32). Lắng nghe người già kể chuyện là điều rất tốt cho con cái và những người trẻ; nhờ đó người trẻ cảm thấy mình được nối kết với lịch sử sống động của gia đình mình, làng xóm và đất nước mình. Một gia đình mà không tôn kính và quí yêu ông bà của mình, là ký ức sống động của gia đình, thì gia đình ấy đang suy bại; còn một gia đình biết trân trọng quá khứ thì sẽ có tương lai. “Một xã hội nếu không có chỗ cho người già hoặc loại bỏ họ vì họ tạo ra những vấn đề, thì xã hội ấy đã nhiễm một vi rút chết người”;[43] “nó bị xé nát từ gốc rễ”.[44] Kinh nghiệm thời nay của chúng ta về tình trạng mồ côi như hệ quả của sự gián đoạn văn hóa, sự nhổ rễ và sự sụp đổ của những điều chắc chắn vốn định hình đời sống chúng ta, kinh nghiệm đó thách đố chúng ta làm cho gia đình mình trở thành nơi chốn mà con cái có thể cắm rễ trong mảnh đất màu mỡ của một lịch sử chung.

Là anh chị em

  1. Những mối tương quan giữa anh chị em được đào sâu theo với thời gian, và “mối ràng buộc huynh đệ hình thành trong gia đình giữa các con cái, nếu được củng cố bởi một bầu khí có tính giáo dục thúc đẩy cởi mở với người khác, thì đó là một trường học quan trọng để học biết về tự do và hòa bình. Trong gia đình, chúng ta học cách sống hợp nhất. Có lẽ chúng ta không luôn luôn ý thức điều này, nhưng chính gia đình giới thiệu tình huynh đệ cho thế giới. Từ kinh nghiệm ban đầu này về tình huynh đệ, được nuôi dưỡng bởi tình cảm và sự giáo dục dưới mái nhà, phong cách của tình huynh đệ sẽ phát tỏa như một triển vọng cho toàn xã hội”.[45]
  1. Việc lớn lên với anh chị em đem lại cho người ta một kinh nghiệm rất đẹp về sự quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau. Vì “tình huynh đệ trong gia đình sẽ tỏa sáng đặc biệt khi chúng ta nhìn thấy sự săn sóc, sự nhẫn nại, tình thương mến bao quanh người em trai hay em gái nhỏ đang ốm bệnh hay bị khuyết tật”.[46] Phải nhận ra rằng “có một người anh em hay chị em yêu thương bạn, đó là một kinh nghiệm thâm sâu, quí giá và độc đáo”.[47] Con cái cần được kiên nhẫn dạy cho biết cư xử với nhau như anh chị em. Việc dạy dỗ này, có những lúc rất vất vả, là một trường học thực sự giúp hòa nhập xã hội. Tại một số nước, nơi mà đã trở thành xu hướng chung việc chỉ có một con, thì kinh nghiệm về anh chị em ngày càng hiếm hoi hơn. Khi thực tế gia đình chỉ có một con, thì phải tìm những cách thế để bảo đảm rằng đứa con ấy không lớn lên lẻ loi hay bị cô lập.

Một trái tim lớn

  1. Bên cạnh không gian nhỏ của đôi vợ chồng và con cái của mình, có tồn tại gia đình rộng lớn hơn mà ta không thể bỏ qua. Thật vậy, “tình yêu giữa vợ và chồng và, khái quát hơn, tình yêu giữa các thành viên trong gia đình – giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, bà con, và những người cùng sống dưới mái nhà – được trao cho sự sống và sự nâng đỡ nhờ một năng động liên lỉ bên trong dẫn gia đình tới mối hiệp thông không ngừng đào sâu hơn và mãnh liệt hơn, đó là nền tảng và linh hồn của cộng đồng hôn nhân và gia đình”.[48] Các bạn hữu và những gia đình khác là một phần của gia đình rộng lớn này, cũng như các nhóm gia đình nâng đỡ nhau trong các hoàn cảnh khó khăn, trong những dấn thân xã hội, và trong đức tin.
  2. Gia đình rộng lớn này cần cung ứng tình yêu và sự hỗ trợ cho các người mẹ còn non tuổi, các trẻ em không cha mẹ, các bà mẹ đơn thân phải nuôi con, những người khuyết tật cần tình thương và sự gần gũi đặc biệt, những người trẻ vật lộn với chứng nghiện ngập, những người độc thân, ly thân hay góa bụa neo đơn, và những người già yếu thiếu sự nâng đỡ của con cái mình. Cũng cần bao hàm “cả những người đã sụp đổ trong cuộc đời mình”.[49] Gia đình rộng lớn này có thể giúp bù đắp những thiếu sót của cha mẹ, phát hiện và cho biết những hoàn cảnh trong đó con cái có nguy cơ chịu bạo lực và thậm chí bị lạm dụng, và cung ứng tình yêu thương lành mạnh cũng như sự ổn định của gia đình trong những trường hợp mà cha mẹ được thấy là không có khả năng cung ứng.
  1. Cuối cùng, chúng ta không được quên rằng gia đình lớn này bao gồm bố vợ, bố chồng, mẹ vợ, mẹ chồng, và tất cả những người bà con của hai vợ chồng. Một khía cạnh tế nhị cách riêng của tình yêu, đó là học biết để không nhìn những người thân này như thể là những đối thủ cạnh tranh, những mối đe dọa hay những vật cản của mình. Mối kết hợp vợ chồng đòi sự tôn trọng các truyền thống và các tập tục của những người đó, một cố gắng để hiểu ngôn ngữ của họ và biết kiềm chế để không phê bình, biết chăm sóc và trân trọng họ trong khi vẫn giữ tính riêng tư và sự độc lập chính đáng của hai vợ chồng. Việc sẵn lòng như vậy cũng là một diễn tả tinh tế tình yêu quảng đại của mình đối với vợ hay chồng mình.

CHƯƠNG SÁU:

MỘT SỐ NHÃN GIỚI MỤC VỤ

  1. Cuộc đối thoại diễn ra tại Thượng Hội Đồng đã nêu nhu cầu phải có những phương pháp mục vụ mới. Tôi sẽ cố gắng đề cập một số phương pháp như vậy một cách rất khái quát. Các cộng đoàn khác nhau sẽ phải nghĩ ra những sáng kiến hữu hiệu và thực tiễn hơn, vừa tôn trọng giáo huấn của Giáo Hội vừa tính đến những vấn đề và những nhu cầu địa phương. Không có ý trình bày một kế hoạch mục vụ cho gia đình, giờ đây tôi muốn suy tư về một số thách đố mục vụ có tầm quan trọng hơn.

LOAN BÁO TIN MỪNG VỀ GIA ĐÌNH HÔM NAY

  1. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng các gia đình Kitô hữu, nhờ ân sủng của Bí tích Hôn Phối, là những tác nhân chính của công cuộc tông đồ gia đình, trước hết xuyên qua “chứng tá đầy niềm vui của họ trong tư cách là những Giáo Hội tại gia”.[50] Như vậy, “thật quan trọng việc người ta kinh nghiệm Tin Mừng về gia đình như một niềm vui ‘đong đầy trái tim và đời sống’, bởi vì trong Đức Kitô, chúng ta đã được ‘giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn’ (Evangelii Gaudium, 1). Như trong dụ ngôn về người gieo giống (x. Mt 13,3-9), chúng ta được gọi để giúp gieo vãi các hạt giống; phần còn lại là công việc của Thiên Chúa. Chúng ta cũng không được quên rằng, trong giáo huấn của mình về gia đình, thì Giáo Hội là một dấu mâu thuẫn”.[51] Các đôi vợ chồng vui mừng biết ơn vì các mục tử của mình gìn giữ lý tưởng cao cả về một tình yêu mạnh mẽ, chắc chắn, bền vững và có thể nâng đỡ họ vượt qua bất cứ thử thách nào mà họ có thể phải đối mặt. Giáo Hội ao ước, trong khiêm nhường và thương cảm, hướng đến các gia đình và “giúp mỗi gia đình khám phá ra cách tốt nhất để vượt qua bất cứ trở ngại nào gặp phải”.[52] Sẽ là bất cập việc bày tỏ sự quan tâm chung chung đối với các gia đình trong kế hoạch mục vụ. Việc giúp các gia đình có khả năng đảm nhận vai trò của mình như những tác nhân chủ động của công cuộc tông đồ gia đình là một việc đòi hỏi “nỗ lực Phúc Âm hóa và dạy giáo lý bên trong gia đình”.[53]
  1. “Nỗ lực này yêu cầu mọi người trong Giáo Hội phải có sự hoán cải trong sứ mạng, nghĩa là, không còn hài lòng với việc rao giảng một sứ điệp duy chỉ có tính lý thuyết mà không nối kết gì với các vấn đề thực của người ta”.[54] Việc săn sóc mục vụ cho các gia đình “cần cho thấy sáng tỏ rằng Tin Mừng về gia đình đáp ứng những kỳ vọng sâu xa nhất của nhân vị: một sự đáp trả cho phẩm giá và sự hoàn thành của mỗi người trong sự tương nhượng, hiệp thông, và sinh hoa trái. Điều này hệ tại không chỉ ở việc trình bày một bộ qui tắc, nhưng là ở việc nêu ra những giá trị rõ ràng cần thiết hôm nay, ngay cả tại những quốc gia thế tục hóa nhiều nhất”.[55] Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng “nêu bật rằng việc Phúc Âm hóa dứt khoát cần tố giác những yếu tố văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế – chẳng hạn tầm quan trọng thái quá được gán cho qui luật thị trường – vốn ngăn trở đời sống gia đình đích thực và dẫn tới sự phân biệt đối xử, tình trạng nghèo đói, sự loại trừ và bạo lực. Do đó, cần thúc đẩy sự đối thoại và hợp tác, với những cơ cấu xã hội và sự khích lệ phải được trao cho những người giáo dân vốn dấn thân – trong tư cách là Kitô hữu – vào các lãnh vực văn hóa và chính trị xã hội”.[56]
  1. Sự đóng góp chủ yếu cho việc săn sóc mục vụ các gia đình được cung ứng bởi giáo xứ, là gia đình của các gia đình, nơi mà những cộng đoàn nhỏ, những phong trào Giáo Hội và các hiệp hội sống hòa điệu với nhau”.[57] Cùng với việc mục vụ vươn ra nhắm đặc biệt đến các gia đình, điều nói trên cho thấy nhu cầu phải có “một nền đào tạo thích hợp hơn cho các … linh mục, phó tế, nam nữ tu sĩ, giảng viên giáo lý và các nhân viên mục vụ khác”.[58] Trong các câu trả lời cho cuộc tham vấn trên toàn thế giới, người ta thấy rõ rằng các thừa tác viên chức thánh thường thiếu sự đào tạo cần thiết để xử lý những vấn đề phức tạp mà ngày nay các gia đình đang đối mặt. Kinh nghiệm của truyền thống Đông phương phổ quát về một hàng giáo sĩ kết hôn cũng có thể được tham khảo.
  1. Các chủng sinh cần nhận được một nền đào tạo liên ngành bao quát hơn, chứ không chỉ về giáo thuyết, trong các lãnh vực tiền hôn nhân và hôn nhân. Việc đào tạo của họ không luôn luôn giúp họ khám phá bối cảnh cũng như những kinh nghiệm tâm lý và tâm cảm của chính mình. Một số đến từ những gia đình lộn xộn, vắng mặt cha mẹ và thiếu sự ổn định tâm cảm. Cần phải bảo đảm sao cho tiến trình huấn luyện có thể giúp họ đạt được sự trưởng thành và quân bình tâm lý cần thiết cho sứ vụ của họ trong tương lai. Những mối ràng buộc gia đình thật thiết yếu cho việc củng cố lòng tự trọng lành mạnh. Thật quan trọng việc các gia đình có giữ vai trò trong tiến trình chủng viện và đời sống linh mục, vì các gia đình giúp xác nhận lại những điều này và giữ cho chúng cắm rễ trong thực tế. Sẽ hữu ích việc các chủng sinh kết hợp thời gian trong chủng viện và thời gian ở giáo xứ. Ở đó họ có thể có sự tiếp xúc tốt hơn với các thực tế cụ thể của đời sống gia đình, vì trong sứ vụ tương lai, nói chung, họ sẽ làm việc với các gia đình. “Sự hiện diện của những người giáo dân, các gia đình, và nhất là sự hiện diện của các phụ nữ trong việc đào tạo linh mục sẽ thúc đẩy một sự trân trọng đối với tính đa dạng và tính bổ sung của các ơn gọi khác nhau trong Giáo Hội”.[59]
  1. Những phúc đáp cho cuộc tham vấn cũng nhấn mạnh nhu cầu đào tạo các cán bộ giáo dân có thể hỗ trợ trong việc săn sóc mục vụ các gia đình, với sự giúp đỡ của các giảng viên và các nhà tư vấn, các ý sĩ của gia đình và của cộng đồng, các nhân viên xã hội, các luật sư của thanh thiếu niên và gia đình, và việc vận dụng những đóng góp của tâm lý học, xã hội học, trị liệu và tư vấn hôn nhân. Các chuyên gia, đặc biệt những người có kinh nghiệm thực tiễn, giúp cho những sáng kiến mục vụ được cắm rễ trong các hoàn cảnh thực và các mối quan tâm cụ thể của gia đình. “Các khóa học và các chương trình, được hoạch định đặc biệt cho những người làm công tác mục vụ, có thể hỗ trợ bằng cách hội nhập chương trình chuẩn bị hôn nhân vào trong động lực rộng lớn hơn của đời sống Giáo Hội”.[60] Việc đào tạo mục vụ tốt có tầm quan trọng “đặc biệt đối với những hoàn cảnh khẩn trương cách riêng do những vụ bạo lực gia đình và làm dụng tình dục”.[61] Tất cả những điều này không hề làm suy giảm, nhưng sẽ củng cố giá trị nền tảng của việc linh hướng, của các kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, và Bí tích Hòa Giải.

CHUẨN BỊ HÔN NHÂN

CHO CÁC ĐÔI BẠN ĐÍNH HÔN

  1. Bằng nhiều cách khác nhau, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng chúng ta cần giúp các bạn trẻ khám phá phẩm giá và vẻ đẹp của hôn nhân.[62] Các bạn trẻ cần được giúp đỡ để nhận thức được sự hấp dẫn của một mối kết hợp trọn vẹn có sức thăng hoa và làm hoàn thiện chiều kích xã hội của hiện sinh, trao cho tính dục ý nghĩa sâu xa nhất, và đem lại ích lợi cho con cái qua việc cung cấp bối cảnh tốt nhất để chúng lớn lên và phát triển.
  1. “Tính phức tạp của xã hội hôm nay và những thách đố mà các gia đình đối mặt đòi hỏi một nỗ lực lớn hơn nơi toàn thể cộng đoàn Kitô hữu trong việc chuẩn bị cho những người sắp kết hôn. Tầm quan trọng của các nhân đức cần phải được bao gồm. Trong số đó, đức khiết tịnh là vô giá, giúp cho sự trưởng thành đích thực của tình yêu giữa hai người. Về phương diện này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhất trí về nhu cầu huy động toàn thể cộng đoàn một cách rộng rãi hơn, bằng cách nhấn mạnh chứng tá của chính các gia đình, và bằng việc đặt nền cho việc chuẩn bị hôn nhân dựa trên tiến trình khai tâm Kitô giáo, qua việc nêu bật mối nối kết giữa Hôn Phối, Phép Rửa và các bí tích khác. Các Nghị Phụ cũng nói về sự cần thiết phải có những chương trình chuyên biệt chuẩn bị hôn nhân nhắm đến việc giúp cho các đôi bạn kinh nghiệm thực sự về việc tham dự vào đời sống Giáo Hội, và một sự giới thiệu đầy đủ về những khía cạnh đa dạng của đời sống gia đình”.[63]
  1. Tôi khích lệ các cộng đoàn Kitô hữu nhận biết ích lợi lớn lao mà chính họ nhận được từ việc nâng đỡ các đôi bạn đính hôn khi các đôi bạn ấy lớn lên trong tình yêu. Như các giám mục Ý ghi nhận, những đôi bạn này là “một nguồn vô giá, vì khi họ chân thành dấn thân lớn lên trong tình yêu và sự tự hiến, họ có thể giúp canh tân toàn bộ cơ cấu Giáo Hội. Hình thức tình bạn đặc biệt của họ có thể có sức lan tỏa và thúc đẩy sự triển nở của tình bạn và tình huynh đệ trong cộng đoàn Kitô hữu”.[64] Có nhiều cách thích đáng để kết cấu các chương trình chuẩn bị hôn nhân, và mỗi Giáo Hội địa phương sẽ cân nhắc xem cách nào tốt nhất để cung cấp một sự đào tạo phù hợp mà không làm cho người trẻ xa lạ với bí tích ấy. Họ không cần phải được dạy toàn bộ giáo lý hoặc được nhồi nhét quá nhiều thông tin. Ở đây cũng vậy, “không phải nhiều kiến thức, mà chính là khả năng cảm thụ sự vật trong sâu xa mới làm cho linh hồn vui thỏa”.[65] Phẩm tính quan trọng hơn lượng tính, và cùng với việc công bố lại lời rao giảng tiên khởi, mối ưu tiên nên dành cho việc trình bày hữu hiệu và hấp dẫn những thông tin có thể giúp các đôi bạn sống trọn đời với nhau “với tất cả can đảm và quảng đại”.[66] Chuẩn bị hôn nhân phải là một loại “khai tâm” vào Bí tích Hôn Phối, cung cấp cho các đôi bạn sự giúp đỡ họ cần để nhận lãnh bí tích này cách xứng đáng, và để có một sự khởi đầu vững chắc trong việc xây dựng đời sống gia đình.
  1. Với sự giúp đỡ của các gia đình thừa sai, các gia đình riêng của đôi bạn, và những nhân sự mục vụ khác nhau, cũng phải tìm ra cách thế để cung ứng một sự chuẩn bị từ xa, bằng gương sáng và lời khuyên lành mạnh, để giúp tình yêu của đôi bạn triển nở và trưởng thành. Các nhóm thảo luận và những buổi nói chuyện với giới trẻ về các chuyên đề được thực sự quan tâm cũng có thể rất hữu ích. Cũng vậy, một số cuộc gặp gỡ cá nhân vẫn là điều thiết yếu, vì mục tiêu hàng đầu là giúp mỗi người biết cách yêu thương con người rất cụ thể này mà mình có dự định chia sẻ đời sống suốt đời. Việc học biết yêu thương một người nào đó không xảy ra cách tự động, nó cũng không thể được dạy trong một cuộc hội thảo chỉ diễn ra ngay trước việc cử hành hôn lễ. Đối với mỗi đôi bạn, việc chuẩn bị hôn nhân bắt đầu từ lúc chào đời. Những gì họ nhận được từ gia đình mình cần phải chuẩn bị để họ biết chính mình, và để thực hiện một cam kết trọn vẹn và dứt khoát. Những người được chuẩn bị tốt nhất cho hôn nhân hầu chắc là những người học biết về hôn nhân Kitô giáo từ chính cha mẹ mình, nơi việc cha mẹ họ chọn nhau một cách vô điều kiện và vẫn làm mới lại quyết định này hằng ngày. Theo nghĩa này, những sáng kiến mục vụ được nhắm giúp các đôi bạn lớn lên trong tình yêu và trong Tin Mừng về gia đình cũng giúp cả con cái họ nữa, bằng việc chuẩn bị chúng cho đời sống hôn nhân trong tương lai. Chúng ta cũng không được đánh giá thấp giá trị mục vụ của các thực hành đạo đức truyền thống. Chỉ cần lấy một ví dụ: tôi nghĩ đến Ngày Saint Valentine; tại một số nước, những quan tâm thương mại tỏ ra nhanh nhạy hơn Giáo Hội trong khả năng nhìn thấy những tiềm năng của lễ mừng này.
  1. Việc cộng đoàn giáo xứ chuẩn bị kịp thời cho các đôi bạn đính hôn cũng cần phải giúp họ nhận ra những vấn đề và những nguy cơ có thể xảy ra. Nhờ đó, họ có thể hiểu được lẽ khôn của việc cắt đứt một mối quan hệ mà sự thất bại và hậu quả nhức nhối của nó có thể được thấy trước. Trong giai đoạn say mê nhau lúc ban đầu, các đôi bạn có thể cố che giấu hay tương đối hóa một số điều, và họ cố tránh những bất đồng; chỉ về sau thì các vấn đề mới nổi lên. Vì thế, họ phải được khích lệ mạnh mẽ để thảo luận về những gì mà mỗi người trong họ kỳ vọng từ hôn nhân, về cách họ hiểu tình yêu và cam kết như thế nào, về những gì mà người này muốn ở người kia, và về đời sống mà họ muốn cùng nhau xây dựng. Những thảo luận như thế sẽ giúp họ nhận ra phải chăng trong thực tế họ không có mấy điểm chung, và nhận ra rằng chỉ sự hấp dẫn lẫn nhau mà thôi thì không đủ để giữ họ với nhau. Không có gì hời hợt, mong manh và bất quyết cho bằng sự khao khát. Đừng bao giờ khích lệ quyết định kết hôn trừ phi đôi bạn đã phân định những lý do sâu xa có thể bảo đảm cho một sự dấn thân đích thực và ổn định.
  1. Trong bất luận tình huống nào, nếu người này nhận thấy những điểm yếu của người kia, thì cần phải có một sự tin tưởng thực tiễn vào khả năng giúp phát triển những điểm mạnh để tạo cân bằng, và bằng cách này giúp thúc đẩy sự trưởng thành nhân bản. Điều này đòi hỏi một thái độ sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, những vấn đề và những tình huống xung đột có thể xảy ra; cần có một quyết tâm mạnh mẽ để sẵn sàng như thế. Các đôi bạn cần có khả năng phát hiện những dấu hiệu nguy hiểm trong mối tương quan của mình và tìm ra, trước khi kết hôn, những cách thế hữu hiệu để ứng phó với các nguy hiểm ấy. Thật đáng tiếc là nhiều đôi bạn kết hôn mà không thực sự hiểu biết về nhau. Họ vui vẻ quấn quít nhau và làm các việc cùng với nhau, nhưng không đối mặt với sự thách đố bộc lộ chính mình và nhận hiểu người kia thực sự là ai.
  1. Việc chuẩn bị hôn nhân, cả ngắn hạn lẫn dài hạn, đều cần phải bảo đảm sao cho đôi bạn không nhìn lễ cưới như kết thúc của con đường, mà trái lại đó là sự khởi đầu của hôn nhân như một tiếng gọi suốt đời, đặt nền trên một quyết định vững chắc và thực tiễn, sẵn sàng cùng với nhau đương đầu với mọi thử thách và mọi thời khắc khó khăn. Việc săn sóc mục vụ các đôi vợ chồng và các đôi bạn đính hôn phải tập trung vào mối dây hôn phối, giúp các đôi bạn không chỉ đào sâu tình yêu của họ mà còn vượt qua những vấn đề và những khó khăn. Điều nay bao gồm không chỉ việc giúp họ đón nhận giáo huấn của Giáo Hội và biết tìm đến những nguồn trợ giúp quí giá của Giáo Hội, mà còn bao gồm việc cung ứng những chương trình thiết thực, những lời khuyên phù hợp, những bài bản hữu hiệu và sự hướng dẫn về tâm lý. Tất cả những điều này cần đến một khoa sư phạm yêu thương, thích hợp với những cảm nghĩ và những nhu cầu của người trẻ và có khả năng giúp họ trưởng thành nội tâm. Việc chuẩn bị hôn nhân cũng phải cung cấp thông tin cho các đôi bạn về những nơi, những người, và những dịch vụ để họ có thể tìm sự giúp đỡ khi các vấn đề xuất hiện. Cũng quan trọng việc nhắc họ nhớ rằng Bí tích Hòa Giải luôn sẵn sàng cho họ, cho phép họ mang đến trước mặt Chúa những tội lỗi và các sai lầm trong quá khứ, và chính mối quan hệ của họ nữa, để nhận lãnh ơn tha thứ đầy lòng thương xót và sức mạnh chữa trị của Ngài.

Chuẩn bị cử hành hôn lễ

  1. Những sự chuẩn bị ngắn hạn cho hôn nhân thường tập trung vào vấn đề thiệp mời, trang phục, tiệc mừng, và vô số những chi tiết dễ làm cạn kiệt không chỉ túi tiền mà cả sức lực và niềm vui nữa. Các đôi bạn đến với cuộc cử hành lễ cưới trong tình trạng kiệt sức và đầy ắp nỗi lo, thay vì lắng đọng và sẵn sàng cho bước quyết định mà họ sắp thực hiện. Cũng chính mối bận tâm về một hôn lễ hoành tráng đã dẫn đến một số cuộc kết hợp de facto; vì ngại những chi phí cao, đôi bạn thay vì tập trung trước hết vào tình yêu của mình và cử hành tình yêu ấy trong sự hiện diện của những người khác, lại quyết định không bao giờ cử hành hôn lễ. Cho phép tôi nói một lời ở đây với các đôi bạn chưa cưới. Các bạn hãy có can đảm để dám khác biệt. Đừng để mình bị nuốt chửng bởi một xã hội tiêu thụ và những phô trương rỗng tuếch. Điều quan trọng là tình yêu mà các bạn chia sẻ, được củng cố và được thánh hóa bởi ân sủng. Các bạn có thể chọn lựa tổ chức một đám cưới đơn sơ bình dị hơn, trong đó tình yêu được ưu tiên hơn bất cứ gì khác. Những người làm công tác mục vụ và toàn thể cộng đoàn có thể giúp làm cho mối ưu tiên này trở thành một tiêu chuẩn thay vì một ngoại lệ.
  1. Trong việc chuẩn bị hôn nhân của mình, đôi bạn cần được khích lệ để làm cho cử hành phụng vụ này trở thành một kinh nghiệm cá nhân thâm sâu và trân trọng ý nghĩa của mỗi dấu hiệu trong đó. Trong trường hợp hai người đã lãnh Phép Rửa, sự cam kết được diễn tả bằng lời nói ưng thuận – và sự kết hợp thân xác có ý nghĩa hoàn hợp cuộc hôn phối – nhất thiết phải được nhìn như những dấu hiệu của tình yêu và sự kết hợp có tính giao ước giữa Con Thiên Chúa Nhập thể và Hội Thánh của Người. Nơi những người đã lãnh Phép Rửa, các lời nói và dấu hiệu trở thành một ngôn ngữ hùng hồn của đức tin. Thân xác, được dựng nên với một ý nghĩa do Thiên Chúa ban, “trở thành ngôn ngữ của các thừa tác viên của bí tích này, ý thức rằng trong khế ước vợ chồng ấy, mầu nhiệm vốn bắt nguồn từ chính Thiên Chúa được diễn tả và được thực hiện”.[67]
  1. Nhiều khi đôi bạn không nắm bắt được hàm ý thiêng liêng và thần học của những lời ưng thuận, điều soi sáng ý nghĩa cho mọi dấu chỉ tiếp sau đó. Cần nhấn mạnh rằng những lời này không thể bị giảm trừ đến chỉ còn hiện tại mà thôi; chúng liên quan đến một toàn thể tính bao gồm cả tương lai: “cho đến mọi ngày suốt đời”. Nội dung của những lời ưng thuận cho thấy rõ rằng “tự do và trung thành không đối ngược nhau; đúng hơn, chúng hỗ trợ nhau, cả trong các tương quan liên vị lẫn các tương quan xã hội. Thật vậy, trong nền văn hóa thông tin toàn cầu của mình, chúng ta hãy xem xét sự tổn hại gây ra bởi sự leo thang của những trường hợp phản bội lời hứa… Tôn trọng lời nói của mình, trung thành với những gì mình hứa: đây là những điều không thể mua hay bán. Chúng không thể bị ép buộc bằng sức mạnh, cũng không thể đạt được mà không có hy sinh”.[68]
  1. Các giám mục Kenya ghi nhận rằng “nhiều [người trẻ] tập trung vào ngày cưới và quên mất sự cam kết suốt đời mà họ sắp bước vào”.[69] Họ cần được thúc đẩy để nhìn bí tích này không như chỉ một khoảnh khắc để rồi lùi vào quá khứ và thuộc về ký ức, đúng hơn đó là một thực tại mãi mãi còn ảnh hưởng đến toàn thể đời sống hôn nhân.[70] Ý nghĩa sinh sản của tình dục, ngôn ngữ của thân xác, và những dấu hiệu của tình yêu được bày tỏ trong suốt đời sống vợ chồng, tất cả trở thành một “sự nối tiếp không gián đoạn của ngôn ngữ phụng vụ” và “theo một nghĩa nào đó, đời sống vợ chồng trở thành phụng vụ”.[71]
  1. Đôi bạn cũng có thể suy niệm các bài đọc Thánh Kinh và ý nghĩa của những chiếc nhẫn mà hai người trao cho nhau, cũng như những dấu hiệu khác trong nghi thức. Thật không tốt chút nào khi hai người đi đến lễ cưới mà chưa hề cầu nguyện với nhau và cho nhau, để xin Chúa giúp mình giữ trung thành và quảng đại, để cùng nhau xin Chúa cho biết Người muốn gì nơi mình, và để dâng hiến tình yêu của mình cho Đức Trinh Nữ Maria. Những ai giúp đôi bạn chuẩn bị hôn nhân nên giúp họ kinh nghiệm những khoảnh khắc cầu nguyện này, là những khoảnh khắc rất hữu ích. “Phụng vụ lễ cưới là một sự kiện độc đáo, đó là một cử hành vừa của gia đình vừa của cộng đoàn. Những dấu chỉ đầu tiên của Đức Giêsu được thực hiện tại tiệc cưới Cana. Rượu ngon, đến từ phép lạ của Chúa và đem lại niềm vui cho sự bắt đầu của một gia đình mới, là rượu mới của giao ước Đức Kitô với con người nam nữ thuộc mọi thời đại… Rất thường, người cử hành nói với một cộng đoàn bao gồm những người ít khi tham dự vào đời sống Giáo Hội, hay những người là thành viên của các tổ chức Kitô giáo hay các cộng đoàn tôn giáo khác. Vì thế đây là một cơ hội quí báu để công bố Tin Mừng của Đức Kitô”.[72]

ĐỒNG HÀNH VỚI NHỮNG NĂM ĐẦU

CỦA ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN

  1. Cần phải xem hôn nhân như chuyện của tình yêu, nghĩa là chỉ những ai tự do chọn lựa và yêu nhau thì mới có thể kết hôn. Khi tình yêu chỉ hệ tại ở nét hấp dẫn thể lý hay ở tình cảm mơ hồ, đôi bạn sẽ trở nên rất chênh vênh một khi tình cảm ấy suy giảm hay nét hấp dẫn thể lý ấy tàn lụi. Trong thực tế điều này rất thường xảy ra, nên càng thiết yếu việc các đôi bạn phải được giúp đỡ trong suốt những năm đầu đời sống hôn nhân, để làm phong phú và đào sâu cái quyết định tự do và đầy ý thức của họ, trong đó họ chọn có nhau, giữ nhau và yêu nhau suốt đời. Thường giai đoạn đính hôn không đủ dài, và quyết định ấy hơi vội vàng vì nhiều lý do, và đáng ngại hơn nữa, chính đôi bạn không đủ chín chắn. Vì thế đôi vợ chồng mới cưới cần phải hoàn thành cái tiến trình đáng lẽ đã diễn ra trong thời gian đính hôn của họ.
  1. Một thách đố lớn khác nữa cho việc chuẩn bị hôn nhân, đó là việc giúp các đôi bạn nhận ra rằng hôn phối không phải là một cái gì đó xảy ra một lần thay cho tất cả. Sự kết hợp của họ là thực và không thể hủy bỏ, được củng cố và được thánh hiến nhờ Bí tích Hôn Phối. Và khi kết hợp đời sống với nhau, đôi bạn đảm nhận một vai trò chủ động và sáng tạo trong một dự án suốt đời. Cái nhìn của họ giờ đây phải hướng về tương lai mà hằng ngày họ được mời gọi xây dựng với sự trợ giúp của ân sủng Thiên Chúa. Vì chính lý do này, không ai trong đôi bạn có thể kỳ vọng người kia phải hoàn hảo. Mỗi người phải gạt qua một bên những ảo tưởng và chấp nhận người kia như sự thực của người ấy: đó là một sản phẩm chưa hoàn thành, cần triển nở, một công trình còn đang tiếp diễn. Một thái độ khư khư phê bình người bạn đời của mình là một dấu hiệu cho thấy cuộc hôn nhân đã không được khởi đi như một dự án phải xúc tiến cùng nhau, với lòng kiên nhẫn, cảm thông, chịu đựng và quảng đại. Một cách từ từ nhưng chắc chắn, tình yêu sẽ nhường bước cho sự chất vấn và chỉ trích nhau thường xuyên, day đi day lại cái tốt và cái xấu của nhau, đưa ra những tối hậu thư, vướng vào sự tranh chấp hơn thua, và bào chữa cho chính mình. Như vậy đôi bạn cho thấy không có khả năng giúp nhau xây dựng một sự kết hợp trưởng thành. Thực tế này cần được trình bày thẳng thắn cho các đôi vợ chồng mới cưới ngay từ đầu, để họ có thể nắm hiểu rằng đám cưới “chỉ là sự bắt đầu”. Qua việc nói lên lời ưng thuận, họ bắt đầu một hành trình đòi hỏi họ phải vượt qua tất cả mọi chướng ngại trên đường đi, để đạt được mục tiêu của mình. Đôi tân hôn nhận lãnh sự chúc lành, đó là nhận lãnh một ơn huệ và một sự thúc đẩy cho hành trình này. Họ phải tận dụng bằng cách ngồi xuống và nói với nhau về cách thế cụ thể mà họ hoạch định để đạt được mục tiêu của mình.
  1. Tôi nhớ lại một câu nói xưa: nước đứng yên là nước tù đọng và không tốt cho cái gì cả. Nếu trong những năm đầu đời sống hôn nhân, kinh nghiệm yêu thương của một đôi bạn trở thành tù đọng lại, nó sẽ mất đi sự phấn khích đáng lẽ phải có để làm lực đẩy cho nó. Tình yêu non trẻ cần phải tiếp tục điệu nhảy về tương lai với niềm hy vọng ngập tràn. Hy vọng là thứ men mà trong những năm đầu của tiến trình đính hôn và kết hôn nó giúp người ta nhìn quá những tranh cãi, những xung đột và những vấn đề, và biết nhìn mọi sự trong một viễn tượng rộng lớn hơn. Nó kiểm soát những bất quyết và lo lắng của chúng ta để chúng ta có thể lớn lên. Hy vọng cũng giúp chúng ta sống hết mình trong hiện tại, dành mọi quan tâm cho đời sống của gia đình, vì cách thức tốt nhất để chuẩn bị một tương lai vững chắc là sống tận lực trong chính hiện tại này.
  1. Tiến trình này xảy ra ở những giai đoạn khác nhau và cần đến sự quảng đại và lòng hy sinh. Những cảm xúc mãnh liệt ban đầu về sự hấp dẫn nhường chỗ cho việc nhận ra rằng người kia bây giờ là một phần đời sống của tôi. Niềm hoan lạc thuộc về nhau dẫn đến việc nhìn đời sống như một dự án chung, đặt hạnh phúc của người kia ưu tiên hơn hạnh phúc của chính mình, và vui mừng nhận ra rằng cuộc hôn nhân của mình làm phong phú cho xã hội. Khi tình yêu trưởng thành hơn, nó cũng học biết “thương lượng”. Hoàn toàn không phải là một cái gì ích kỷ hay tính toán, sự thương lượng như thế là một thực hành của tình yêu thương nhau, một tương tác của cho và nhận, vì ích lợi của gia đình. Ở mỗi giai đoạn mới của đời sống hôn nhân, có một nhu cầu phải ngồi xuống và trao đổi lại về những sự đồng thuận, để bảo đảm không có người thắng kẻ thua, nhưng đúng hơn cả hai đều thắng. Trong gia đình, các quyết định không thể được đưa ra một cách đơn phương, vì mỗi người, vợ và chồng, đều chia sẻ trách nhiệm trong gia đình; tuy nhiên, mỗi tổ ấm đều độc đáo và mỗi cuộc hôn nhân sẽ tìm thấy sự sắp xếp tốt nhất cho mình.
  1. 221. Trong số những nguyên nhân hôn nhân đổ vỡ, có những kỳ vọng cao quá mức về đời sống vợ chồng. Một khi đã rõ rằng thực tế thì giới hạn và thách đố hơn mình tưởng, thì giải pháp là đừng vội nghĩ quá nhanh và quá vô trách nhiệm về sự chia tay, nhưng hãy bình tĩnh nhận ra rằng đời sống hôn nhân là một tiến trình lớn lên, trong đó mỗi người là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp người kia trưởng thành. Sự thay đổi, sự cải thiện, sự bừng nở những tố chất có trong mỗi người – tất cả những điều này đều có thể. Mỗi cuộc hôn nhân là một loại “lịch sử cứu độ”, trong đó, từ những bước đầu chập chững – nhờ ơn Chúa và nhờ sự đáp trả quảng đại và đầy sáng tạo về phần chúng ta – nó sẽ lớn lên qua thời gian, trở thành một cái gì đó quí giá và bền vững. Phải chăng chúng ta có thể nói rằng sứ mạng lớn nhất của hai người yêu nhau là giúp nhau trở thành người đàn ông hay người phụ nữ đích thực hơn? Thúc đẩy sự lớn lên có nghĩa là giúp một người định hình căn tính của người ấy. Vì thế, tình yêu là một loại tay nghề tinh xảo. Khi chúng ta đọc trong Thánh Kinh về sự sáng tạo người nam và người nữ, chúng ta thấy Thiên Chúa trước hết làm ra Ađam (x. St 2,7); Ngài nhận ra rằng có gì đó rất thiết yếu nhưng bị thiếu, và vì thế Ngài tạo ra Eva, và Ngài nghe người đàn ông ngạc nhiên thốt lên: “Vâng, người này xứng hợp với tôi!” Dường như chúng ta có thể nghe cuộc đối thoại đầy ngạc nhiên ấy, cuộc đối thoại chắc hẳn xảy ra khi người nam và người nữ lần đầu tiên gặp nhau. Trong đời sống của các đôi vợ chồng, ngay cả vào những thời khắc khó khăn, người này có thể luôn luôn làm người kia ngạc nhiên, và những cánh cửa mới có thể mở ra cho mối tương quan giữa họ, như thể họ đang gặp nhau lần đầu. Ở mỗi giai đoạn mới, họ có thể tiếp tục “hình thành” nhau. Tình yêu làm cho người này chờ đợi người kia với sự kiên nhẫn của một người thợ thủ công tinh xảo, đó là một sự kiên nhẫn đến từ Thiên Chúa.
  1. Săn sóc mục vụ các đôi vợ chồng mới cưới cũng phải bao gồm việc khích lệ họ quảng đại trao ban sự sống. “Phù hợp với đặc tính riêng và hoàn toàn con người của tình yêu vợ chồng, việc kế hoạch hóa gia đình xảy ra cách thích hợp như kết quả của cuộc đối thoại đồng thuận giữa hai vợ chồng, tôn trọng nhịp độ thời gian và lưu tâm đến phẩm giá của người phối ngẫu. Trong ý nghĩa này, giáo huấn của Thông điệp Humanae Vitae (x. 1014) và Tông huấn Familiaris Consortio (x. 14; 2835) phải được đón nhận, để chống lại một não trạng thường thù địch với sự sống… Những quyết định liên quan đến việc sinh sản có trách nhiệm giả thiết sự đào tạo lương tâm, vốn là ‘tâm điểm bí mật nhất và là cung thánh của một con người. Ở đó, mỗi người chỉ một mình với Thiên Chúa, với tiếng nói của Thiên Chúa vang vọng trong sâu thẳm tâm hồn’ (Gaudium et Spes, 16). Đôi bạn càng cố gắng lắng nghe tiếng Chúa trong lương tâm mình, thì quyết định của họ sẽ càng tự do cách thâm sâu hơn, tự do khỏi tính thất thường chủ quan và khỏi sự lôi kéo của những lề thói lan tràn trong xã hội”.[73] Giáo huấn của Công đồng Vatican II rất rõ: “[Đôi bạn] sẽ đưa ra quyết định bằng việc bàn bạc và cố gắng chung. Họ hãy lưu tâm xét đến cả thiện ích của mình lẫn của con cái, những đưa con đã sinh ra đời và những đứa con mà tương lai có thể đem đến. Về phương diện này họ cần cân nhắc những điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần của thời điểm cũng như hoàn cảnh sống của mình. Cuối cùng, họ nên tìm hiểu những quan tâm của nhóm gia đình, của xã hội bên ngoài và của chính Giáo Hội. Các bậc cha mẹ chứ không ai khác sẽ cuối cùng đưa ra phán quyết trước mặt Chúa”.[74] Hơn nữa, “việc sử dụng các phương pháp dựa trên ‘luật tự nhiên và chu kỳ rụng trứng’ (Humanae Vitae, 11) phải được cổ võ, vì ‘những phương pháp này tôn trọng thân xác của người phối ngẫu, khích lệ sự dịu dàng âu yếm giữa họ và hỗ trợ cho việc giáo dục một sự tự do đích thực’ (Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 2370). Cần phải nhấn mạnh hơn nữa sự thật rằng con cái là món quà kỳ diệu của Thiên Chúa và là niềm vui cho cha mẹ và cho Giáo Hội. Xuyên qua chúng, Chúa đổi mới thế giới này”.[75]

Các phương thế

  1. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “những năm đầu đời hôn nhân là một giai đoạn nhạy cảm và quan trọng, trong đó các đôi vợ chồng trở nên ý thức hơn về những thách đố và về ý nghĩa của đời sống hôn nhân. Do đó, sự đồng hành mục vụ cần phải đi xa hơn việc cử hành bí tích (Familiaris Consortio, Phần III). Về phương diện này, những đôi vợ chồng có kinh nghiệm sẽ đóng một vai trò quan trọng. Giáo xứ là một nơi mà những vợ chồng có kinh nghiệm như thế có thể giúp đỡ các vợ chồng trẻ, có thể với sự cộng tác của các đoàn thể, các phong trào Giáo Hội và các cộng đoàn mới. Các đôi vợ chồng trẻ cần được khích lệ để cởi mở một cách căn bản sẵn sàng đón nhận quà tặng lớn lao là con cái. Sự nhấn mạnh cũng phải gán cho tầm quan trọng của linh đạo gia đình, việc cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, và các đôi bạn được khích lệ gặp gỡ đều đặn để thúc đẩy sự lớn lên trong đời sống thiêng liêng, và liên đới trong những đòi hỏi cụ thể của đời sống. Phụng vụ, các thực hành đạo đức và Thánh Lễ được cử hành cho các gia đình, nhất là vào dịp kỷ niệm hôn phối, được đề cập như là những yếu tố sống động trong việc thúc đẩy Phúc Âm hóa xuyên qua gia đình”.[76]
  1. Tiến trình này cần có thời gian. Tình yêu luôn cần thời gian và không gian; mọi cái khác chỉ là phụ thuộc. Cần thời gian để trao đổi mọi chuyện, để ôm nhau một cách ung dung thong thả, để chia sẻ các kế hoạch, để lắng nghe nhau và nhìn vào mắt nhau, để trân trọng nhau và thắt chặt hơn nữa mối tương quan. Đôi khi nhịp sống cuồng nhiệt của xã hội chúng ta và những áp lực của nơi làm việc sẽ tạo ra các vấn đề. Những trường hợp khác, vấn đề nằm ở chỗ thiếu thời gian chất lượng cho nhau, hai người ở chung phòng mà thậm chí người này không chú ý đến người kia. Những người làm công tác mục vụ và những nhóm vợ chồng nên tìm ra cách để giúp các đôi bạn trẻ trong tình trạng chênh vênh biết tận dụng các khoảnh khắc ấy, để hiện diện với nhau, ngay cả bằng cách chia sẻ những khoảnh khắc thinh lặng đầy ý nghĩa.
  1. Các đôi bạn đã học biết cách làm tốt điều nói trên có thể chia sẻ một số đề nghị thực tiễn mà họ thấy là hữu ích: lên kế hoạch thời gian rảnh với nhau, những lúc giải trí với con cái, những cách thức khác nhau để mừng các sự kiện quan trọng, việc chia sẻ những phương thế để trưởng thành tâm linh. Họ cũng có thể cung cấp các phương thế giúp các đôi vợ chồng trẻ làm cho những khoảnh khắc ấy trở nên đầy ý nghĩa và đầy yêu thương, và nhờ đó cải thiện sự liên lạc của mình. Điều này vô cùng quan trọng khi đến giai đoạn mà tính mới lạ của hôn nhân đã mòn mỏi đi. Khi mà đôi vợ chồng không còn biết dành thời gian cho nhau nữa, thì một hoặc cả hai người sẽ tị nạn trong các thứ thiết bị điện tử, hoặc chỉ tìm cách để tránh sự gần gũi vốn đã trở thành khó chịu.
  1. Các đôi vợ chồng mới cưới cần được khích lệ để phát triển một thói quen đem lại ý nghĩa lành mạnh cho sự gần gũi và sự ổn định, xuyên qua việc chia sẻ những nghi tiết hằng ngày. Đó có thể là một nụ hôn buổi sáng, một chúc lành buổi tối, sự chờ đón ở cửa để chào nhau khi về nhà, việc có những chuyến đi cùng với nhau, và sự chia sẻ với nhau trong công việc nhà. Nhưng cũng hữu ích việc phá sự đơn điệu bằng một bữa tiệc, và tổ chức các lễ mừng của gia đình vào các dịp kỷ niệm và các biến cố đặc biệt. Chúng ta cần những khoảnh khắc ấy để nâng niu những quà tặng của Thiên Chúa và làm mới lại niềm vui sống của mình. Bao lâu chúng ta còn có thể ăn mừng, thì chúng ta còn có thể thắp lại tình yêu của mình, giải phóng nó khỏi sự đơn điệu, và làm sinh động nhịp sống hằng ngày của chúng ta với niềm hy vọng.
  1. Các mục tử chúng ta phải thúc đẩy các gia đình lớn lên trong đức tin. Điều này bao hàm sự khích lệ việc thường xuyên xưng tội, việc thực hành linh hướng, và thỉnh thoảng có những kỳ tĩnh tâm. Nó cũng có nghĩa là khích lệ thực hành kinh nguyện gia đình trong tuần, vì “gia đình cùng nhau cầu nguyện sẽ gắn bó với nhau”. Khi thăm nhà dân chúng, chúng ta nên qui tụ mọi thành viên gia đình lại và cầu nguyện vắn tắt với nhau, dâng gia đình trong tay Chúa. Cũng rất hữu ích việc khích lệ người vợ, người chồng tìm thời giờ cầu nguyện một mình với Chúa, vì mỗi người có những thập giá riêng phải vác. Tại sao chúng ta không nói với Chúa về những lo lắng của mình, xin Ngài ban sự chữa trị và sự giúp đỡ mình cần để có thể trung thành? Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “lời Chúa là nguồn sự sống và linh đạo của gia đình. Tất cả các công việc mục vụ nhân danh gia đình phải giúp đào tạo nội tâm người ta trong tư cách là thành viên của Giáo Hội tại gia, xuyên qua việc đọc Thánh Kinh trong bầu khí cầu nguyện. Lời Thiên Chúa không chỉ là tin vui trong đời sống riêng tư của người ta, mà còn là tiêu chuẩn đánh giá và là ánh sáng giúp phân định những thách đố khác nhau mà các đôi vợ chồng và các gia đình đối mặt”.[77]
  2. Trong một số trường hợp, người vợ hay người chồng chưa lãnh Phép Rửa hay không muốn thực hành đức tin. Điều này có thể làm cho khát vọng của người kia muốn sống và triển nở trong đời sống Kitô hữu trở thành khó khăn và đôi khi rất khổ sở. Tuy nhiên, có thể tìm ra một số giá trị chung để chia sẻ và cảm nhận với nhau. Trong bất luận trường hợp nào, việc bày tỏ yêu thương cho người bạn đời không phải là tín hữu, việc ban tặng niềm vui, xoa dịu những nỗi đau và chia sẻ đời sống với nhau, đó là biểu hiện một con đường thánh hóa đích thực. Tình yêu luôn luôn là một quà tặng của Thiên Chúa. Bất cứ nơi đâu tình yêu tuôn chảy, nó sẽ làm cho người ta cảm nhận được sự có mặt đầy sức biến đổi của nó, thường là bằng những cách kỳ diệu, thậm chí đến mức “một người chồng ngoại đạo được thánh hóa nhờ vợ, và một người vợ ngoại đạo được thánh hóa nhờ chồng” (1Cr 7,14).
  1. Các giáo xứ, các phong trào, trường học và những cơ chế khác của Giáo Hội có thể hỗ trợ giúp bằng nhiều cách, để nâng đỡ và giúp các gia đình phát triển. Những điều này có thể bao gồm: các cuộc họp mặt của các đôi vợ chồng sống trong cùng một khu vực, những cuộc tĩnh tâm ngắn cho các vợ chồng; những bài nói chuyện của các chuyên viên về những vấn đề cụ thể mà các gia đình đối mặt, việc tư vấn hôn nhân, các thừa sai gia đình giúp các đôi bạn thảo luận những khó khăn và những khát vọng, các dịch vụ xã hội xử lý những vấn đề gia đình như nghiện ngập, bất trung và bạo lực trong gia đình, các chương trình trưởng thành tâm linh, các cuộc hội thảo dành cho cha mẹ có con cái bị rối loạn, và những cuộc họp mặt gia đình. Văn phòng giáo xứ phải được chuẩn bị để tiếp cận một cách nhạy bén và hữu hiệu những nhu cầu của gia đình, và có thể làm trung gian để giới thiệu, khi cần, đến những ai có thể giúp đỡ. Cũng có sự đóng góp do các nhóm vợ chồng cung cấp sự trợ giúp xét như một phần của việc họ dấn thân phục vụ, cầu nguyện, đào tạo và nâng đỡ nhau. Những nhóm như thế thúc đẩy các đôi vợ chồng quảng đại trợ giúp các gia đình khác và chia sẻ đức tin; đồng thời họ củng cố và giúp các cuộc hôn nhân triển nở.
  1. Trong thực tế có nhiều đôi bạn sau khi cưới nhau thì cũng xa rời cộng đoàn Kitô hữu. Thế nhưng chúng ta thường không tận dụng những dịp họ quay trở lại để nhắc nhở họ về lý tưởng đẹp của hôn nhân Kitô giáo, và về sự nâng đỡ mà các giáo xứ chúng ta có thể cung ứng cho họ. Chẳng hạn, tôi nghĩ đến dịp Rửa Tội và Rước Lễ Lần Đầu của con cái họ, hay lễ tang hoặc lễ cưới của bà con hay thân hữu của họ. Hầu như tất cả các đôi vợ chồng đều tái xuất hiện vào những dịp này, và chúng ta có thể sử dụng cơ hội rất tốt ấy. Một cách khác để tiếp cận gần hơn, đó là những dịp làm phép nhà hay những dịp kiệu ảnh tượng Đức Mẹ đến từng nhà trong khu xóm; đây là một cơ hội để trao đổi mục vụ về hoàn cảnh của gia đình. Cũng có thể rất hữu ích việc mời gọi các đôi vợ chồng lớn tuổi giúp đỡ các đôi bạn trẻ trong khu xóm qua việc thăm viếng họ và cung cấp sự hướng dẫn trong những năm đầu của đời sống hôn nhân. Do nhịp sống gấp rút ngày nay, đa số các đôi bạn không thể tham dự những cuộc gặp gỡ thường xuyên; tuy nhiên, chúng ta không thể thu hẹp phạm vi mục vụ của mình chỉ nơi những nhóm nhỏ có tính tuyển chọn. Ngày nay, việc săn sóc mục vụ cho các gia đình phải có tính thừa sai một cách căn bản, tức là đi ra gặp gỡ người ta. Chúng ta không còn có thể làm như một nhà máy, sản xuất ra các khóa học mà nói chung chẳng mấy ai đến dự.

SOI SÁNG NHỮNG KHỦNG HOẢNG, LO LẮNG

VÀ KHÓ KHĂN

  1. Cũng cần đề cập đến những người mà tình yêu của họ, giống như một thứ rượu ngon, đã trở nên đậm đà. Cũng như rượu ngon bắt đầu “đạt hương vị” qua thời gian, thì kinh nghiệm trung tín qua đời sống hằng ngày cũng làm cho hôn nhân phong phú và có “hình hài” cụ thể. Trung tín có liên hệ với kiên nhẫn và mong đợi. Những niềm vui và những hy sinh của nó trổ sinh hoa trái khi trải qua năm tháng, và đôi vợ chồng vui mừng nhìn thấy con cháu của mình. Tình yêu có mặt ngay từ đầu trở thành rõ hơn, được ổn định và chín muồi khi đôi vợ chồng khám phá lại nhau ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Thánh Gioan Thánh Giá nói với chúng ta rằng “những người yêu lâu năm được thử luyện và, do đó, là những người yêu đích thực”. Họ “không còn cháy bừng cảm xúc và xung năng mãnh liệt ở mặt ngoài nữa, nhưng bây giờ họ cảm nếm được vị ngọt ngào của rượu tình yêu, thứ rượu ủ lâu năm và được giữ trong đáy sâu tâm hồn họ”.[78] Những đôi vợ chồng như thế đã thành công vượt qua bao khủng hoảng và khó khăn, mà không tránh né các thử thách hay che lấp các vấn đề.

Thách đố của khủng hoảng

  1. Đời sống của gia đình nào cũng được đánh dấu bởi đủ loại khủng hoảng, nhưng cũng không thiếu vẻ đẹp đầy cảm kích của nó. Các đôi vợ chồng cần được giúp đỡ để nhận ra rằng việc thắng vượt một khủng hoảng không nhất thiết làm suy yếu mối tương quan của mình; thay vào đó, nó có thể cải thiện, làm ổn định và làm cho đậm đà mối kết hợp của họ. Đời sống với nhau không nên làm suy giảm mà cần phải gia tăng niềm vui thỏa của mình; mỗi bước mới trên con đường có thể giúp đôi bạn tìm ra những cách thức mới để đạt hạnh phúc. Mỗi khủng hoảng trở thành một cuộc thực tập để gia tăng sự gần gũi nhau hay hiểu thêm về ý nghĩa của hôn nhân. Các đôi vợ chồng không nên cam chịu một sự từ từ buông xuôi không tránh được, hay chấp nhận một tình trạng tầm thường xoàng xĩnh. Trái lại, khi hôn nhân được xem như một thách đố có bao gồm việc vượt qua các trở ngại, thì mỗi khủng hoảng trở thành một cơ hội để cho phép rượu của mối tương quan trở thành thâm niên hơn và đậm đà hơn. Các đôi vợ chồng sẽ vượt thắng nhờ nhận được sự giúp đỡ khi đương đầu với các khủng hoảng, đáp trả các thách đố và hiểu ra rằng chúng là một phần của đời sống gia đình. Những người có nhiều kinh nghiệm và từng trải nên sẵn sàng cung ứng sự hướng dẫn, để các đôi bạn không bị mất bình tĩnh trước những khủng hoảng ấy, hoặc bị cám dỗ để có những quyết định nông nổi. Mỗi khủng hoảng là một bài học cho chúng ta; chúng ta cần học biết lắng nghe nó với lỗ tai của tâm hồn.
  1. Đứng trước một khủng hoảng, trước hết chúng ta có xu hướng phản ứng tự vệ, vì ta nghĩ rằng mình đang mất quyền kiểm soát, hay cách nào đó mình đang mất hướng, và điều này làm chúng ta không dễ chịu. Chúng ta thường phủ nhận vấn đề, che giấu hay giảm nhẹ nó, và hy vọng rằng nó sẽ trôi qua. Nhưng điều đó không kiến hiệu; nó chỉ làm cho tình hình nên tệ hại hơn, làm phung phí sức lực và làm chậm trễ việc giải quyết. Vợ chồng trở nên xa rời nhau và mất khả năng liên lạc. Khi các vấn đề không được giải quyết, thì sự liên lạc là cái đầu tiên sẽ ra đi. Dần dần, “người tôi yêu” sẽ trở thành “bạn tôi”, rồi tiến tới chỉ còn là “bố hay mẹ lũ trẻ”, cuối cùng thì trở thành một người lạ.
  1. Cần phải cùng nhau đương đầu các khủng hoảng. Điều này khó, vì người ta thường thoái lui để tránh nói ra điều mình cảm nghĩ; họ nấp vào trong một sự im lặng hèn nhát. Những lúc như vậy, càng quan trọng việc tạo ra những cơ hội để trải lòng với nhau. Nếu một đôi bạn không học biết cách làm thế, họ sẽ nhận thấy điều đó ngày càng khó hơn nữa theo với thời gian trôi qua. Giao tiếp là một nghệ thuật được học khi hòa thuận để áp dụng vào những lúc khó khăn. Vợ chồng cần sự giúp đỡ để khám phá những cảm nghĩ sâu xa nhất của mình và biểu đạt chúng. Giống như sự sinh đẻ, đây là một tiến trình đau đớn nhưng đem lại một kho tàng mới. Những phúc đáp cho cuộc tham vấn tiền Thượng Hội Đồng cho thấy rằng phần đông người ta khi gặp khó khăn hay các trường hợp khủng hoảng đã không tìm kiếm sự trợ giúp mục vụ, vì họ không gặp thấy ở đó sự đồng cảm, tính thực tiễn hay sự quan tâm đến các trường hợp cá nhân. Điều này nên thúc đẩy chúng ta cố gắng tiếp cận những khủng hoảng trong hôn nhân với sự nhạy cảm nhiều hơn đối với gánh nặng do sự tổn thương và lo lắng của họ.
  1. Một số cuộc khủng hoảng là đặc trưng của hầu như mọi cuộc hôn nhân. Các vợ chồng trẻ cần học biết cách chấp nhận những khác biệt của mình và biết tách ra khỏi sự ràng buộc với cha mẹ. Sự xuất hiện của một đứa con sẽ kéo theo những thách đố mới về mặt cảm xúc. Việc nuôi dạy con cái còn nhỏ đòi người ta phải thay đổi trong lối sống, trong khi giai đoạn con cái bước vào tuổi thanh niên sẽ gây ra áp lực, mệt mỏi và thậm chí căng thẳng giữa cha mẹ. Một “tổ trống trơn” buộc đôi vợ chồng phải xác định lại mối tương quan của mình, trong khi nhu cầu săn sóc các cha mẹ già đòi phải có những quyết định khó khăn liên quan tới các vị. Đây là những hoàn cảnh gay go có thể gây ra lo sợ, mặc cảm tội lỗi, suy sụp tinh thần và mệt mỏi, với những ảnh hưởng nghiêm trọng trên một cuộc hôn nhân.
  1. Rồi có những khủng hoảng cá nhân ảnh hưởng đến đời sống vợ chồng, thường liên quan đến tiền bạc, các vấn đề ở sở làm, những khó khăn về tâm cảm, xã hội và tâm linh. Những tình huống bất ngờ xảy ra, phá vỡ đời sống gia đình và đòi một tiến trình tha thứ và hòa giải. Trong khi người này quyết tâm chân thành tha thứ cho người kia, thì đương sự phải trầm lắng và khiêm tốn tự vấn rằng phải chăng, cách nào đó, mình đã không tạo ra các tình huống dẫn đến những lỗi lầm của người kia. Một số gia đình sụp đổ khi vợ chồng mải mê buộc tội nhau, nhưng “kinh nghiệm cho thấy rằng với sự trợ giúp đúng đắn và với những hành động hòa giải, nhờ ơn sủng, rất nhiều cuộc hôn nhân chao đảo đã tìm thấy cách giải quyết thỏa đáng. Biết cách tha thứ và cảm nhận mình được tha thứ, đó là một kinh nghiệm căn bản trong đời sống gia đình”.[79] “Nghệ thuật kiên trì hòa giải, vốn cần sự nâng đỡ của ân sủng, cũng đòi sự cộng tác quảng đại của bà con và bạn bè, và đôi khi ngay cả sự giúp đỡ từ bên ngoài và những hỗ trợ chuyên môn”.[80]
  1. Càng ngày người ta càng có xu hướng nghĩ rằng khi một hay cả hai người phối ngẫu không còn cảm thấy thỏa mãn, hay khi mọi sự không diễn ra như mình mong muốn, thì như thế là có đủ lý do để chấm dứt cuộc hôn nhân. Nếu vậy, thì chẳng có hôn nhân nào có thể bền vững. Nhiều khi, tất cả lý do đưa đến quyết định rằng mọi sự đã chấm dứt chỉ là vì một chuyện bất mãn nào đó, vì người kia đã vắng mặt khi cần phải có mặt nhất, vì lòng tự hào bị tổn thương, hay vì một nỗi sợ mơ hồ. Rõ ràng, các hoàn cảnh sẽ hiện lộ ra liên quan đến sự yếu đuối của con người, và có thể thấy rõ đó là những sự bộc phát của cảm xúc. Người vợ hay người chồng có thể cảm thấy mình không được trân trọng đầy đủ, hay có thể bị lôi cuốn bởi một người nào đó khác. Sự ghen tuông và những căng thẳng có thể nổi lên, hay những quan tâm mới chiếm lấy thời gian và sự chú ý của người kia. Những thay đổi thể lý xảy ra cách tự nhiên nơi mọi người. Những điều này, và rất nhiều điều khác nữa, thay vì đe dọa tình yêu, thì chúng là vô số cơ hội để đổi mới và làm sống hoạt tình yêu.
  1. Trong những trường hợp như thế, một số người có sự trưởng thành cần thiết để xác nhận lại sự chọn lựa của mình, đó là chọn người kia như người bạn đời mãi mãi, bất chấp những giới hạn của mối tương quan. Họ chấp nhận cách thực tiễn rằng người kia không thể lấp đầy mọi giấc mơ mà mình ôm ấp. Những người như thế sẽ tránh nghĩ về mình như những kẻ tuẫn đạo; họ sẽ tận dụng mọi khả năng mà đời sống gia đình trao cho, và họ kiên nhẫn tìm cách củng cố mối dây hôn nhân. Nói cho cùng, họ nhận ra rằng mọi khủng hoảng đều có thể là một “lời ưng thuận” mới, làm cho tình yêu được đổi mới, được đào sâu và được củng cố từ bên trong. Khi các khủng hoảng đến, họ không sợ truy tìm gốc rễ của chúng, bàn thảo lại những điều căn bản, đạt được một sự cân bằng mới, và cùng nhau tiến về phía trước. Với thái độ cởi mở thường xuyên này, họ có thể đối mặt với mọi trường hợp khó khăn. Bất luận hoàn cảnh nào, trong khi nhận thức rằng hòa giải là một khả năng, chúng ta cũng thấy rằng “điều khẩn thiết cần hôm nay là một sứ vụ săn sóc những người đã bị đổ vỡ mối tương quan vợ chồng”.[81]

Những vết thương cũ

  1. Dễ hiểu, các gia đình thường gặp các vấn đề khi một thành viên không trưởng thành về tâm cảm, bởi vì đương sự vẫn mang những vết thẹo của các kinh nghiệm trước đây. Một tuổi thơ hay tuổi thanh niên bất hạnh có thể sinh ra những khủng hoảng cá nhân, gây ảnh hưởng đến hôn nhân của đương sự. Nếu mọi người đều trưởng thành bình thường, khủng hoảng sẽ ít xảy ra hơn và ít gây đau đớn hơn. Nhưng thực tế cho thấy, một số người chỉ khi đến tuổi ngoài bốn mươi mới có được mức trưởng thành mà lẽ ra họ đã phải đạt được vào tuổi đôi mươi. Một số người yêu với thứ tình yêu ích kỷ, thất thường, qui hướng về mình, như một đứa trẻ: đó là một tình yêu tham lam, sẽ thét ré lên khi không có được điều mình mong muốn. Những người khác yêu với một tình yêu của tuổi thanh niên, được đánh dấu bằng sự gây hấn, sự phê phán nặng nề và nhu cầu trách móc người khác; bị mắc kẹt trong những cảm xúc và tưởng tượng của mình, những người như thế chờ mong kẻ khác lấp đầy sự trống rỗng và thỏa mãn mọi khao khát của họ.
  2. Nhiều người bước qua thời thơ ấu mà không bao giờ cảm nhận được tình yêu vô điều kiện. Điều này ảnh hưởng đến khả năng của họ trong việc tin tưởng và cởi mở đối với người khác. Một tương quan thảm hại với cha mẹ và anh chị em, nếu không được chữa trị, có thể lại ngoi lên và làm tổn hại một cuộc hôn nhân. Những vấn đề chưa được giải quyết cần phải được xử lý và một tiến trình giải phóng phải diễn ra. Khi các vấn đề nổi lên trong một cuộc hôn nhân, trước khi đưa ra những quyết định quan trọng, cần bảo đảm rằng mỗi người đã nắm hiểu lịch sử đời mình. Điều này bao gồm việc nhìn nhận nhu cầu chữa trị, việc cầu nguyện thâm sâu xin ơn tha thứ và được tha thứ, một thái độ sẵn lòng nhận sự giúp đỡ, và quyết tâm không đầu hàng nhưng sẽ tiếp tục cố gắng. Sự chân thành khảo sát chính mình sẽ giúp người ta nhận ra cách mà những khuyết điểm và sự ấu trĩ của mình ảnh hưởng đến mối tương quan. Ngay cả dù dường như thật rõ rằng người kia sai lỗi, thì một khủng hoảng không bao giờ được vượt qua duy chỉ bằng cách chờ đợi người ấy thay đổi. Chúng ta cũng phải tự hỏi những gì trong đời sống chúng ta cần phát triển hay chữa trị nếu muốn giải quyết được sự xung đột.

Đồng hành sau khi đổ vỡ và ly dị

  1. Trong một số trường hợp, sự tôn trọng phẩm giá của mình và thiện ích của con cái yêu cầu người ta không chịu khuất phục trước những đòi hỏi quá đáng, hay không được bỏ cuộc trong việc ngăn chặn một bất công nghiêm trọng, bạo lực hay tình trạng thường xuyên bị xử tệ. Trong những trường hợp như thế, “ly thân trở thành điều không tránh được. Nhiều khi đó thậm chí là sự cần thiết luân lý, tức khi mà đó là cách để giải thoát người phối ngẫu dễ tổn thương hơn hay những đứa con nhỏ khỏi bị thương tích nghiêm trọng do sự lạm dụng và bạo lực, sự làm nhục và bóc lột, sự thiếu quan tâm và thờ ơ”.[82] Ngay cả trong trường hợp đó, “ly thân phải được coi như là biện pháp cuối cùng, sau khi mọi cố gắng hợp lý khác để hòa giải đã tỏ ra vô hiệu”.[83]
  2. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “thiết yếu phải có sự phân định đặc biệt trong việc săn sóc mục vụ những người ly thân, ly dị hay bị ruồng bỏ. Cần bày tỏ sự lưu tâm đặc biệt đối với những đau khổ của người phải chịu ly thân, ly dị hay bị ruồng bỏ cách bất công, hay người đã bị buộc phải cắt đứt đời sống chung do sự ngược đãi từ chồng hay vợ mình. Tha thứ cho một bất công gây đau khổ như thế là điều không dễ dàng, nhưng ân sủng sẽ làm cho điều đó trở thành có thể. Việc săn sóc mục vụ nhất thiết phải bao gồm những nỗ lực làm trung gian và hòa giải, xuyên qua việc thiết lập những trung tâm tư vấn đặc biệt trong giáo phận”.[84] Đồng thời, “những người ly dị mà không tái hôn, và thường làm chứng cho sự trung tín vợ chồng, phải được khích lệ để tìm thấy trong Thánh Thể sự nuôi dưỡng họ cần để đứng vững trong hoàn cảnh sống hiện tại. Cộng đoàn địa phương và các mục tử phải đồng hành với những người này một cách ân cần, nhất là khi có liên quan đến các con cái hay khi họ gặp khó khăn tài chánh nghiêm trọng”.[85] Sự đổ vỡ gia đình càng chấn động và đau đớn trong trường hợp của người nghèo, vì họ không có bao nhiêu nguồn lực trong tầm tay để bắt đầu một cuộc sống mới. Một người nghèo, khi bị tách ly khỏi môi trường gia đình an ổn, thì càng chênh vênh gấp bội trước nguy cơ trở thành chơ vơ và có thể bị tổn hại.
  1. Thật quan trọng việc những người ly dị đã đi vào một mối kết hợp mới phải được giúp đỡ để họ cảm thấy mình thuộc về Giáo Hội. “Họ không bị tuyệt thông”, và họ không nên bị đối xử như vậy, vì họ vẫn là thành phần của cộng đoàn Giáo Hội.[86] Những hoàn cảnh này “đòi hỏi sự phân định kỹ lưỡng và sự đồng hành đầy tôn trọng. Cần tránh những ngôn ngữ hay hành vi có thể làm họ cảm thấy mình bị kỳ thị, và họ cần được khích lệ tham gia vào đời sống của cộng đoàn. Sự săn sóc của cộng đoàn Kitô hữu cho những người như thế không được coi như là một việc làm suy yếu đức tin và suy yếu chứng từ về tính bất khả phân ly của hôn nhân; đúng hơn, sự săn sóc ấy là một diễn tả đặc biệt của đức ái”.[87]
  1. Nhiều Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng “nhấn mạnh rằng cần phải làm cho thủ tục trong các vụ án tiêu hôn trở nên dễ tiếp cận hơn và bớt tốn thời gian hơn, và nếu có thể, nên miễn phí”.[88] Sự chậm chạp của tiến trình gây nản lòng và ức chế cho những người liên hệ. Hai văn kiện gần đây của tôi đề cập đến vấn đề này[89] đã làm đơn giản hóa các thủ tục tiến tới tuyên bố tiêu hôn. Theo đó, tôi muốn “làm rõ rằng chính vị giám mục, trong Giáo Hội thuộc trách nhiệm mục tử và lãnh đạo của ngài, là người phán quyết về các tín hữu được ủy thác cho sự săn sóc của ngài”.[90] “Việc thực thi những văn kiện này, do đó, là một trách nhiệm lớn đối với các Bản Quyền tại các giáo phận, các vị được mời gọi đích thân thẩm xét một số trường hợp, và trong mọi trường hợp, các vị bảo đảm sao cho người tín hữu đạt được công lý cách dễ dàng hơn. Điều này giả thiết việc chuẩn bị đủ nhân sự, gồm có các giáo sĩ và giáo dân được ủy nhiệm chủ yếu loại công tác này trong Giáo Hội. Các thông tin, các dịch vụ tư vấn và giới thiệu nối kết với việc tông đồ gia đình cũng phải có sẵn cho những ai đã ly thân hay các đôi vợ chồng gặp khủng hoảng. Những công tác này cũng có thể bao gồm việc gặp gỡ các cá nhân nhằm điều tra sơ bộ về một tiến trình liên quan đến hôn phối (x. Mitis Iudex, khoản 2-3)”.[91]
  1. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng lưu ý đến “những hậu quả của sự ly thân hay ly dị trên con cái, trong mọi trường hợp đó là những nạn nhân vô tội của hoàn cảnh”.[92] Bên cạnh mọi xem xét khác, thiện ích của con cái phải là mối quan tâm hàng đầu, và không được bị che lấp bởi bất cứ mối quan tâm hay mục tiêu ẩn giấu nào. Tôi khẩn thiết kêu gọi các cha mẹ đã ly thân: “Đừng, đừng bao giờ dùng đứa con làm con tin! Bạn ly thân vì nhiều vấn đề và nhiều lý do. Đời sống đã trao cho bạn thử thách này, nhưng con cái bạn không nên bị bắt mang lấy gánh nặng của sự ly thân ấy, hay bị dùng như những con tin để chống lại người phối ngẫu kia. Chúng cần được lớn lên trong khi nghe người mẹ nói tốt về người cha, và người cha nói tốt về người mẹ, cho dù hai người không sống với nhau”.[93] Thật là vô trách nhiệm việc nói xấu người kia như một cách để tranh thủ tình cảm của đứa con, hay do hận thù, hay do muốn biện minh cho mình. Làm như thế sẽ ảnh hưởng đến sự yên ổn bên trong của đứa con và gây ra những vết thương khó chữa lành.
  1. Trong khi hiểu rằng các hoàn cảnh xung đột vốn là một phần của hôn nhân, Giáo Hội không thể không lên tiếng nhân danh những con người dễ tổn thương nhất: đó là, những đứa con thường phải âm thầm chịu khổ sở. Ngày nay, “bất chấp những cảm thức có vẻ tiến bộ của chúng ta và tất cả những phân tích tâm lý rất tinh tế của chúng ta, tôi tự hỏi phải chăng chúng ta không đang trở thành trơ lì trước sự tổn thương trong tâm hồn của trẻ em… Chúng ta có cảm nhận được gánh nặng tâm lý to lớn mà các trẻ em phải chịu trong các gia đình nơi mà các thành viên xử tệ và làm tổn thương nhau, đến mức phá vỡ các mối dây trung tín vợ chồng?”[94] Những kinh nghiệm tai hại như thế không giúp cho trẻ em lớn lên với sự trưởng thành cần thiết để có những sự dấn thân dứt khoát. Vì thế, các cộng đoàn Kitô hữu không được bỏ rơi các cha mẹ ly dị và đã đi vào một mối kết hợp mới, nhưng phải bao gồm và hỗ trợ họ trong những cố gắng của họ để nuôi dạy con cái. “Làm sao chúng ta có thể khích lệ những cha mẹ ấy làm mọi sự có thể để nuôi dạy con cái trong đức tin Kitô giáo, để trao cho chúng một gương mẫu về một đức tin thực tiễn và dấn thân, nếu chúng ta hất hủi họ khỏi đời sống cộng đoàn, như thể một cách nào đó họ bị tuyệt thông vậy? Chúng ta phải tránh hành động theo cách càng bồi thêm gánh nặng mà con cái trong những hoàn cảnh này vốn đã phải chịu!”[95] Việc giúp chữa trị các vết thương của cha mẹ và nâng đỡ họ về mặt thiêng liêng cũng thật có ích cho con cái, chúng cần khuôn mặt thân thuộc của Giáo Hội nhìn thấy chúng xuyên qua kinh nghiệm đầy thương tổn này. Ly dị là một sự dữ và con số ly dị ngày càng tăng là điều thật rất đáng ưu tư. Vì thế, công tác mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với các gia đình, đó là giúp củng cố tình yêu của họ, giúp họ chữa lành các thương tích, và cố gắng ngăn chặn sự lan tràn của bi kịch này trong thời đại chúng ta.

Một số hoàn cảnh phức tạp

  1. “Những vấn đề liên quan tới các cuộc hôn nhân hỗn hợp đòi hỏi sự chú ý đặc biệt. Hôn phối giữa những người Công giáo và những người khác cũng đã lãnh Phép Rửa ‘có bản chất riêng của nó, nhưng nó chứa nhiều yếu tố có thể được vận dụng và phát triển, vừa do giá trị nội tại của nó, vừa do sự đóng góp mà nó có thể đem lại cho phong trào đại kết’. Vì mục đích này, ‘cần có một nỗ lực để thiết lập sự cộng tác chân thành giữa các thừa tác viên Công giáo và không Công giáo, từ thời gian bắt đầu chuẩn bị cho hôn nhân và lễ cưới’ (Familiaris Consortio, 78). Liên quan tới việc chia sẻ Thánh Thể, ‘vấn đề phía không Công giáo của cuộc hôn phối có được chấp nhận rước Thánh Thể hay không, sự quyết định sẽ được đưa ra dựa theo những tiêu chuẩn tổng quát hiện hành, cả đối với các Kitô hữu Đông phương lẫn đối với các Kitô hữu khác, có xét đến hoàn cảnh riêng của việc lãnh nhận Bí tích Hôn Phối do hai người Kitô hữu đã chịu Phép Rửa. Mặc dù những người phối ngẫu trong một hôn phối hỗn hợp chia sẻ Bí tích Phép Rửa và Hôn Phối, việc chia sẻ Thánh Thể chỉ có thể là ngoại lệ và trong mỗi trường hợp phải theo các tiêu chuẩn đã được tuyên bố (Hội Đồng Giáo Hoàng về Thăng Tiến Sự Hiệp Nhất Kitô hữu, Huấn thị về việc Áp dụng các Nguyên tắc và các Tiêu chuẩn Đại kết, 25 tháng 3, 1993, 159-160)”.[96]
  2. “Những hôn phối khác đạo thể hiện một nơi đặc biệt cho cuộc đối thoại tôn giáo trong đời sống hằng ngày… Những hôn phối này cũng bao gồm các khó khăn đặc biệt liên quan đến cả căn tính gia đình của Kitô giáo lẫn việc giáo dục tôn giáo cho con cái… Con số gia đình với vợ chồng khác đạo, đang gia tăng trong những vùng đất sứ mạng thừa sai và ngay cả tại những nước có truyền thống Kitô giáo lâu đời, khẩn thiết đòi hỏi sự cung ứng săn sóc mục vụ đặc biệt, phù hợp với các bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau. Tại một số nước nơi mà không có tự do tôn giáo, người Kitô hữu bị buộc phải cải đạo theo tôn giáo khác để kết hôn, và do đó không thể cử hành hôn phối khác đạo theo giáo luật hay rửa tội cho con cái. Do đó chúng ta phải lặp lại điều thiết yếu rằng tự do tôn giáo của mọi người phải được tôn trọng”.[97] “Cần chú ý đến những người đi vào những hôn phối như vậy, không chỉ trong giai đoạn trước lễ cưới. Những thách đố đặc loại đặt ra cho các đôi bạn và các gia đình trong đó một người là Công giáo còn người kia là người không tin. Trong những trường hợp như thế, việc làm chứng cho khả năng Tin Mừng có thể hòa nhập vào những hoàn cảnh này sẽ giúp người ta có thể giáo dục con cái trong đức tin Kitô giáo”.[98]
  1. “Các vấn đề đặc biệt nổi lên khi những người ở trong tình trạng hôn phối phức tạp ước ao lãnh Phép Rửa. Những người này ký kết một hôn ước ổn định vào lúc mà ít nhất một trong hai người đã không biết đức tin Kitô giáo. Trong những trường hợp như thế, các giám mục được mời gọi làm công việc phân định mục vụ thích đáng với ích lợi thiêng liêng của họ”.[99]
  1. Giáo Hội lấy tâm tư của Chúa Giêsu làm của mình, Chúa trao ban tình yêu không giới hạn cho mỗi người không trừ ai.[100] Trong suốt Thượng Hội Đồng, chúng tôi đã thảo luận về hoàn cảnh của các gia đình trong đó các thành viên bao gồm những người kinh nghiệm khuynh hướng đồng giới, một hoàn cảnh không dễ dàng cho cha mẹ hay cho con cái. Chúng tôi muốn trước hết tái khẳng định rằng mọi người, bất kể khuynh hướng tính dục, phải được tôn trọng trong phẩm giá của họ và phải được đối xử với sự trân trọng, trong khi phải lưu ý tránh ‘mọi dấu hiệu kỳ thị bất công’,[101] nhất là mọi hình thức gây hấn và bạo lực. Những gia đình như thế cần được ân cần trao cho sự hướng dẫn mục vụ, để những người bộc lộ khuynh hướng đồng tính có thể nhận được sự hỗ trợ họ cần, hầu có thể hiểu và thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trên cuộc đời mình.[102]
  1. Trong khi thảo luận về phẩm giá và sứ mạng của gia đình, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “về đề nghị đặt những sự kết hợp giữa những người đồng tính trên cùng bình diện như hôn nhân, tuyệt đối không có cơ sở nào để xem những sự kết hợp đồng tính là tương tự hay thậm chí giống một cách xa xa với kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình”. Không thể chấp nhận “rằng các Giáo Hội địa phương phải chịu thua sức ép trong vấn đề này và rằng các cơ chế quốc tế phải trợ giúp tài chánh cho các nước nghèo tùy thuộc vào việc ban hành những luật thiết lập ‘hôn nhân’ giữa những người cùng giới tính”.[103]
  1. Những gia đình có cha hay mẹ đơn thân thường xảy ra từ “trường hợp những người cha hay người mẹ sinh học không sẵn lòng để trở nên thành phần của một gia đình; những hoàn cảnh bạo lực, trong đó người cha hay mẹ bị buộc phải trốn thoát với con cái; cái chết của người cha hay người mẹ; hoặc người cha hay người mẹ bỏ rơi gia đình, và nhiều hoàn cảnh khác nữa. Dù trường hợp nào đi nữa, những người cha hay mẹ đơn thân cần nhận được sự khích lệ và nâng đỡ từ các gia đình khác trong cộng đoàn Kitô hữu, và từ sự quan tâm mục vụ của giáo xứ. Những gia đình này thường phải chịu các truân chuyên khác, như những khó khăn về kinh tế, những viễn ảnh công ăn việc làm không chắc chắn, những vấn đề về chăm sóc con cái, và về nhà ở”.[104]

KHI CÁI CHẾT LÀM CHÚNG TA

CẢM NHẬN NỖI ĐAU

  1. Có những lúc đời sống gia đình bị thách đố bởi cái chết của một người thân. Chúng ta không thể không cung cấp ánh sáng đức tin như một nâng đỡ cho các gia đình nếm trải kinh nghiệm này.[105] Việc dửng dưng với một tang gia đang buồn đau sẽ cho thấy thiếu lòng thương xót, có nghĩa là đánh mất một cơ hội mục vụ, và đóng cánh cửa chặn đứng các nỗ lực khác của việc loan báo Tin Mừng.
  1. Tôi có thể hiểu nỗi đau của những người vừa mất một người rất thân yêu, một người bạn đời mà mình đã chia sẻ bao ngọt bùi. Chính Đức Giêsu đã xúc động sâu sắc và khóc thổn thức trước cái chết của một người bạn (x. Ga 11,33.35). Và làm sao chúng ta có thể thực sự hiểu nỗi đau thương của những người cha mẹ mất đứa con của mình? “Thời gian như thể ngừng lại: một vực thẳm mở ra nhận chìm cả quá khứ và tương lai”, và “nhiều khi chúng ta thậm chí đi xa đến mức oán trách Thiên Chúa. Biết bao người nổi giận với Chúa – và tôi có thể thông cảm với họ”.[106] Mất người bạn đời là một kinh nghiệm đặc biệt khó khăn… Kể từ khoảnh khắc chịu đựng nỗi mất mát, một số cho thấy có khả năng tập trung năng lực của mình vào một sự hiến thân nhiều hơn cho con cháu, họ tìm thấy trong kinh nghiệm yêu thương này một cảm thức sứ mạng mới trong việc nuôi dạy con cái… Những người không có họ hàng để bầu bạn và để nhận được sự cảm thông cần phải được trợ giúp bởi cộng đoàn Kitô hữu, với sự chú ý và quan tâm đặc biệt, nhất là nếu họ là những người nghèo”.[107]
  1.  Thông thường, sự thương tiếc người thân là một tiến trình diễn ra trong một quãng thời gian, và khi người mục tử phải đồng hành với tiến trình ấy, ngài phải thích ứng với những yêu cầu của mỗi chặng trong đó. Toàn thể tiến trình được đong đầy bởi những vấn nạn: về những lý do cái chết của người thân yêu đó, về tất cả những gì lẽ ra đã được làm, về kinh nghiệm của một người tại khoảnh khắc từ trần. Với một tiến trình cầu nguyện chân thành và kiên nhẫn cùng với sự giải phóng bên trong, bình an sẽ trở lại. Có những lúc chúng ta phải giúp người đang thương tiếc ấy nhận ra rằng sau sự mất mát người thân yêu, chúng ta vẫn có một sứ mạng để thi hành, và rằng không ích gì việc kéo dài nỗi đau khổ, như thể đó là một hình thức cống nạp. Những người thân yêu quá cố của chúng ta không muốn chúng ta đau khổ, họ cũng không vui khi chúng ta tàn phá đời sống của mình. Và cách diễn tả tốt nhất của tình yêu cũng không phải là cố bám chặt lấy họ và liên tục nhắc đến tên họ, bởi vì như vậy là lệ thuộc vào quá khứ chứ không phải là tiếp tục yêu thương họ trong hiện tại khi họ đã khuất. Họ không còn có thể hiện diện hữu hình với chúng ta nữa, nhưng dù sự chết mạnh đến mấy thì “tình yêu vẫn mạnh không kém sự chết” (Diễm ca 8,6). Tình yêu có một trực giác giúp chúng ta nghe cái vô thanh và thấy cái vô hình. Điều này không có nghĩa là tưởng tượng người thân yêu quá cố của chúng ta như là họ trước đó, nhưng là khả năng chấp nhận họ đã thay đổi như họ hiện nay. Hãy xem Đức Giêsu phục sinh, khi Maria, bạn Người, muốn ôm lấy Người, Người đã bảo chị ấy đừng cầm giữ Người lại (x. Ga 20,17), để mở ra cho chị ấy một loại gặp gỡ khác.
  1. Chúng ta được an ủi khi biết rằng những người đã chết không hoàn toàn trôi qua mất, và đức tin bảo đảm với chúng ta rằng Chúa Phục sinh sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Vì thế chúng ta có thể “ngăn không cho cái chết làm nhiễm độc sự sống, làm cho tình yêu của ta thành trống rỗng, hay xô đẩy ta xuống vực thẳm tăm tối nhất”.[108] Thánh Kinh bảo rằng Thiên Chúa đã sáng tạo chúng ta do tình yêu, và Ngài đã tạo nên chúng ta theo một cách thức mà sự sống của ta không chấm dứt với cái chết (x. Kn 3,2-3). Thánh Phaolô nói về một cuộc hạnh ngộ với Đức Kitô ngay sau cái chết: “Mong ước của tôi là được ra đi để ở với Đức Kitô” (Pl 1,23). Với Đức Kitô, sau cái chết, điều đón đợi chúng ta là “những gì Thiên Chúa đã sửa soạn cho những ai yêu mến Ngài” (1Cr 2,9). Kinh Tiền Tụng của Phụng vụ Cầu cho các tín hữu đã qua đời diễn tả rất hay: “Dù buồn sầu vì số phận chắc chắn phải chết, chúng con vẫn được ủi an, bởi Chúa đã hứa ban phúc trường sinh bất diệt. Vì lạy Chúa, đối với chúng con là những tín hữu, sự sống thay đổi chứ không mất đi”. Thật vậy, “những người thân yêu của chúng ta không mất hút trong bóng hư không; đức cậy bảo đảm với chúng ta rằng họ ở trong bàn tay tốt lành và mạnh mẽ của Thiên Chúa”.[109]
  1. Một cách để duy trì tình thân với những người thân yêu quá cố, đó là cầu nguyện cho họ.[110] Thánh Kinh dạy rằng “việc cầu nguyện cho người quá cố” là việc “thánh thiện và đạo đức” (2Mcb 12,44-45). “Lời cầu nguyện của chúng ta cho họ không chỉ có sức giúp họ, mà còn làm cho sự chuyển cầu của họ cho chúng ta được hữu hiệu”.[111] Sách Khải Huyền mô tả các vị tuẫn đạo chuyển cầu cho những ai chịu đau khổ vì bất công trên trần gian (x. Kh 6,9-11), trong sự liên đới với thế giới và lịch sử này. Một số vị thánh, trước khi từ trần, đã an ủi những người thân yêu bằng cách hứa với họ rằng các vị sẽ ở gần để trợ giúp họ. Thánh Têrêsa Lisieux ước ao tiếp tục làm những việc tốt lành từ thiên đàng.[112] Thánh Đa-minh tuyên bố rằng “ngài sẽ giúp ích nhiều hơn sau khi qua đời… sẽ có quyền lực hơn để đạt được ân sủng”.[113] Đó là “những mối dây yêu thương” đích thực,[114] vì “sự kết hợp giữa những người còn đang lữ hành với anh chị em đã yên nghỉ trong Chúa chắc chắn không bị cắt đứt… [nhưng] được củng cố bởi một sự trao đổi các thiện ích thiêng liêng”.[115]
  1. Nếu chúng ta chấp nhận cái chết, chúng ta có thể sửa soạn cho nó. Cách sửa soạn là lớn lên trong tình yêu của chúng ta đối với những người đang bước đi bên mình, cho tới ngày mà “không còn sự chết, không còn than khóc và đau khổ nữa” (Kh 21,4). Như thế chúng ta sẽ chuẩn bị để hội ngộ với những người thân của mình đã qua đời. Như Đức Giêsu đã “trao lại cho người mẹ” (x. Lc 7,15) đứa con trước đó đã chết, thì với chúng ta cũng thế. Chúng ta đừng phí sức vào việc cố níu bám cái quá khứ đã qua. Chúng ta càng sống tốt hơn ở đời này, thì càng có thể chia sẻ hạnh phúc lớn lao hơn với những người thân của mình trên thiên quốc. Càng trưởng thành và triển nở trên trần gian này, chúng ta càng có thể mang nhiều món quà hơn vào bữa tiệc trên trời.

CHƯƠNG BẢY:

ĐỂ GIÁO DỤC CON CÁI TỐT HƠN

  1. Cha mẹ luôn ảnh hưởng đến sự phát triển luân lý của con cái mình, theo hướng tích cực hay tiêu cực. Vì thế họ phải đảm nhận vai trò thiết yếu và thực thi vai trò đó một cách ý thức, nhiệt thành, có lý và có tình. Vì vai trò giáo dục của các gia đình rất quan trọng, và ngày càng phức tạp hơn, nên tôi muốn đề cập việc này cách chi tiết.

CON CÁI CỦA CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU?

  1. Gia đình chắc chắn là nơi nâng đỡ, hướng dẫn và dạy bảo, dù người ta có thể phải xem xét lại các phương pháp và phải khám phá các nguồn lực mới. Cha mẹ cần suy nghĩ xem mình muốn con cái tiếp cận những gì, và điều này nhất thiết có nghĩa là phải để ý xem ai đang cung cấp sự giải trí cho chúng, ai đang bước vào phòng của chúng xuyên qua ti-vi và các thiết bị điện tử, và chúng đang dùng thời giờ rảnh của mình với ai. Chỉ cần chúng ta dành thời gian cho con cái, nói về những điều quan trọng một cách dễ hiểu và đầy quan tâm, và tìm ra những phương cách lành mạnh để chúng sử dụng thời gian, thì chúng ta sẽ có thể bảo vệ chúng khỏi bị tổn hại. Cảnh giác là điều luôn luôn cần thiết, còn thờ ơ thì không bao giờ là điều hay. Cha mẹ phải giúp chuẩn bị cho con cái, trẻ em và thanh thiếu niên, giáp mặt với những nguy cơ, chẳng hạn, sự xâm hại, lạm dụng hay nạn nghiện ma túy.
  1.  Tuy nhiên, lo lắng đến mức ám ảnh thì không phải là giáo dục. Chúng ta không thể kiểm soát mọi tình huống mà một đứa trẻ có thể trải nghiệm. Ở đây, vẫn ứng dụng đúng nguyên tắc “thời gian quan trọng hơn không gian”.[116] Nói cách khác, khởi sự những tiến trình thì quan trọng hơn là kiểm soát các nơi chốn. Nếu cha mẹ luôn luôn bị ám ảnh với việc muốn biết con cái mình đang ở đâu và muốn kiểm soát mọi động thái của chúng, thì đó là họ chỉ cố kiểm soát về nơi chốn. Nhưng đó không phải là giáo dục, không phải là củng cố và chuẩn bị cho con cái đương đầu với các thách đố. Điều quan trọng nhất là khả năng ân cần giúp chúng lớn lên trong tự do, trưởng thành, trong tinh thần kỷ luật và trong sự tự trị thực sự. Chỉ bằng cách này con cái mới tiến tới sở hữu được vốn liếng cần thiết để lo liệu cho chính mình, và biết hành động một cách thông minh và khôn ngoan bất cứ khi nào chúng gặp phải khó khăn. Câu hỏi thực, vì thế, không phải là con cái mình đang ở đâu theo nghĩa thể lý, hay chúng đang ở với ai vào những lúc nhất định nào đó, nhưng đúng hơn phải tự hỏi chúng đang ở đâu theo nghĩa hiện sinh, tức là chúng đang ở đâu xét về các xác tín của chúng, những mục đích, những khát vọng và những giấc mơ của chúng. Tôi muốn đặt những câu hỏi này cho các bậc cha mẹ: “Chúng ta có tìm hiểu con cái mình thực sự ‘ở đâu’ trong hành trình của chúng hay không? Linh hồn của chúng đang ở đâu, chúng ta có thực sự biết không? Và trên hết, chúng ta có muốn biết không?”.[117]
  1.  Nếu trưởng thành chỉ là sự phát triển một cái gì đó vốn có sẵn rồi trong mã di truyền của chúng ta, thì sẽ không có gì nhiều cần phải làm. Nhưng sự khôn ngoan, sự phán đoán tốt và lương tri thì không tùy thuộc vào duy chỉ những yếu tố phát triển theo lượng tính, mà đúng hơn chúng tùy thuộc vào một toàn thể các yếu tố tập hợp lại ở trong thâm sâu mỗi người, hay nói đúng hơn, ở chính cốt lõi sự tự do của chúng ta. Rõ ràng, mỗi đứa trẻ sẽ làm chúng ta ngạc nhiên với những ý tưởng và những dự án phát sinh từ sự tự do ấy, điều này thách đố chúng ta xem xét lại các ý nghĩ của mình. Đây là một điều tốt. Giáo dục bao gồm sự khích lệ việc sử dụng tự do có trách nhiệm để đương đầu với các vấn đề, với lương tri và trí tuệ. Nó liên quan đến việc đào tạo những con người hiểu rõ rằng đời sống của mình, và đời sống của cộng đoàn, là do mình định đoạt, và rằng sự tự do là một quà tặng tuyệt vời.

DẠY ĐẠO ĐỨC CHO CON CÁI

  1.  Cha mẹ cậy dựa vào học đường để bảo đảm nền giáo dục căn bản cho con cái mình, nhưng không bao giờ có thể phó thác hoàn toàn nơi người khác việc đào tạo đạo đức cho con cái mình. Sự phát triển tâm cảm và đạo đức của một người, nói cho cùng, đặt nền trên một kinh nghiệm riêng, đó là, kinh nghiệm rằng mình có thể tin tưởng cha mẹ mình. Điều này có nghĩa rằng cha mẹ, xét như nhà giáo dục, có trách nhiệm – bằng tình thương và gương sáng – truyền vào trong con cái mình sự tin tưởng và kính mến. Khi đứa con, dù do lỗi lầm của nó, không còn cảm thấy rằng nó rất quan trọng đối với cha mẹ, hoặc nó cảm thấy rằng cha mẹ không chân thành quan tâm đến nó, thì điều này sẽ gây tổn thương sâu sắc và nhiều sự khó khăn trên con đường trưởng thành của nó. Sự vắng mặt về thể lý hay về tâm cảm này tạo ra thương tổn lớn hơn bất cứ sự trách mắng nào mà một đứa trẻ có thể nhận do làm gì đó sai trái.
  1.  Cha mẹ cũng trách nhiệm về việc đào tạo ý chí cho con cái, thúc đẩy những thói quen tốt và sự hướng thiện cách tự nhiên. Điều này giả thiết việc trình bày một số cách nghĩ và cách làm đáng giá và đáng mong ước, như một phần của tiến trình trưởng thành tiệm tiến. Mong ước thích nghi với xã hội, hay thói quen từ khước một thú vui trước mắt để giữ một lối sống tốt và nề nếp hơn chiếu theo cảm thức chung, điều này tự nó là một giá trị, và rồi nó có thể thúc đẩy sự mở ra đón nhận những giá trị lớn hơn. Việc đào tạo đạo đức phải luôn diễn ra với những phương pháp tích cực, và sự đối thoại có sức giáo huấn, nhờ sự nhạy cảm và nhờ sử dụng một ngôn ngữ mà trẻ em có thể hiểu được. Nó cũng phải diễn ra một cách cảm ứng, để trẻ em có thể tự nhận thức về tầm quan trọng của một số giá trị, nguyên tắc và tiêu chuẩn, thay vì tìm cách áp đặt những điều ấy như là những chân lý tuyệt đối và không thể chất vấn.
  1. Làm điều đúng không chỉ có nghĩa là “phán đoán xem cái gì có vẻ là tốt nhất”, hay biết rõ cái gì cần được làm, dù những điều này cũng rất quan trọng. Chúng ta thường tỏ ra không nhất quán trong chính những xác tín của mình, dù chúng vững chắc đến mấy đi nữa; ngay cả khi lương tâm thúc đẩy chúng ta có một quyết định đạo đức rõ ràng, thì những yếu tố khác đôi khi lại được thấy là mạnh mẽ và có sức lôi cuốn hơn. Chúng ta phải đạt tới chỗ mà ở đó sự thiện được trí năng nắm hiểu có thể cắm rễ trong mình như một thiên hướng tình cảm thâm sâu, như một khát vọng hướng thiện mạnh mẽ hơn so với những lôi cuốn khác, và có sức giúp chúng ta nhận ra rằng điều mà mình xem là tốt cách khách quan thì cũng tốt “cho mình” ở đây và lúc này. Một nền giáo dục đạo đức tốt đẹp bao gồm việc giúp một người thấy rằng cần phải hành động đúng. Ngày nay, ngày càng ít hiệu nghiệm việc đề ra một điều gì đó đòi hỏi sự nỗ lực và hy sinh, mà không cho thấy rõ những ích lợi mà nó mang lại.
  1. Các thói quen tốt cần phải được phát triển. Ngay cả các thói quen trong thời thơ ấu cũng có thể giúp chuyển những giá trị quan trọng được nội tâm hóa thành những nếp hành động lành mạnh đúng đắn. Một đứa trẻ có thể hòa đồng và cởi mở với người khác, nhưng nếu qua một thời gian lâu nó không được những người lớn dạy nói “Làm ơn …”, “Cám ơn”, và “Xin lỗi”, thì thái độ tốt lành bên trong của đứa trẻ không dễ được bộc lộ. Sự củng cố ý chí và việc lặp đi lặp lại những hành động đặc biệt nào đó là những viên gạch xây dựng nếp sống đạo đức; không có sự lặp đi lặp lại một cách ý thức, tự do và trân trọng một số mẫu ứng xử tốt đẹp, thì việc giáo dục đạo đức sẽ không xảy ra. Chỉ ước ao suông, hay chỉ với sự hấp dẫn của một giá trị nào đó, chừng ấy không đủ để làm thấm nhuần một nhân đức, nếu không có những hành động được thúc đẩy cách thích hợp.
  1. Tự do là một cái gì rất kỳ vĩ, nhưng nó cũng có thể bị làm tan biến mất. Giáo dục đạo đức phải bao gồm việc vun xới sự tự do qua các ý tưởng, các động cơ, những áp dụng thực tiễn, những khơi gợi, phần thưởng, gương sáng, kiểu mẫu, biểu tượng, nhận xét, khích lệ, đối thoại, và sự xem xét lại thường xuyên về cách làm của chúng ta; tất cả những điều này có thể giúp phát triển các nguyên tắc vững chắc bên trong hướng dẫn chúng ta biết tự nhiên làm điều thiện. Nhân đức là một xác tín đã trở thành một nguyên tắc vững chắc bên trong cho hành động. Như vậy, đời sống nhân đức sẽ xây dựng, củng cố và định hình sự tự do, nhờ đó chúng ta không trở thành nô lệ cho các xu hướng vô nhân đạo và chống lại xã hội. Vì phẩm giá con người tự nó đòi hỏi rằng mỗi chúng ta phải “hành động với sự chọn lựa tự do và ý thức, như được thúc đẩy một cách riêng tư từ bên trong”.[118]

GIÁ TRỊ CỦA SỰ SỬA SAI

NHƯ MỘT CÁCH KHÍCH LỆ

  1.  Cũng rất thiết yếu việc giúp trẻ em và thanh thiếu niên nhận thức rằng những cư xử sai trái có các hậu quả của nó. Chúng cần được khích lệ để đặt mình vào vị trí của người khác và nhận hiểu sự tổn thương mà mình gây ra. Một số hình phạt đối với những hành động hung hăng, chống lại xã hội có thể phần nào phục vụ cho mục đích này. Rất cần dạy trẻ em luôn biết xin lỗi và sửa chữa những thiệt hại gây ra cho người khác. Khi tiến trình giáo dục phát huy kết quả nơi sự trưởng thành của tự do cá nhân, trẻ em sẽ cảm nhận rằng thật quí hóa được lớn lên trong một gia đình, và thậm chí chúng sẽ biết chấp nhận những đòi hỏi mà mọi tiến trình giáo dục đặt ra.
  1.  Sửa sai cũng có ý nghĩa khích lệ, bất cứ khi nào những cố gắng của trẻ được trân trọng và nhìn nhận, và chúng cảm thấy sự tin tưởng mà cha mẹ luôn kiên nhẫn dành cho chúng. Những trẻ được ân cần sửa sai sẽ cảm nhận chúng được săn sóc; chúng cảm nhận rằng chúng là những con người với các tiềm năng của mình được nhìn nhận. Điều này không đòi hỏi cha mẹ phải hoàn hảo, mà chỉ đòi hỏi cha mẹ biết khiêm tốn nhìn nhận các giới hạn của mình và cố gắng cải thiện. Nhưng một trong những điều mà trẻ cần học nơi cha mẹ, đó là không để cho cơn giận cuốn mình đi. Một đứa trẻ làm gì đó sai trái phải được sửa sai, nhưng đừng bao giờ cư xử với trẻ như kẻ thù hay như một đối tượng để mình trút sự thất vọng. Người lớn cũng cần nhận ra rằng một số loại ứng xử sai trái có liên quan với sự non yếu và những giới hạn đặc trưng của tuổi trẻ. Việc thường xuyên lạm dụng hình phạt sẽ có hại, và không giúp trẻ nhận hiểu rằng một số hành động thì nghiêm trọng hơn những hành động khác. Nó sẽ dẫn đến ngã lòng và phẫn uất: “Hỡi các bậc cha mẹ, đừng làm con cái bực tức” (Ep 6,4; x. Cl 3,21).
  1.  Thật quan trọng việc liệu sao để kỷ luật không gây nản lòng, nhưng trái lại đó là một thúc đẩy để tiến bộ nhiều hơn. Làm sao để kỷ luật có thể được nội tâm hóa tốt nhất? Bằng cách nào chúng ta bảo đảm rằng kỷ luật là một sự hạn chế có tính xây dựng, được đặt ra cho các hành động của trẻ, chứ không phải là một tường rào ngăn chặn con đường trưởng thành? Một mức cân bằng phải được tìm ra giữa hai thái cực tai hại ngang nhau. Một thái cực là cố làm cho mọi sự xoay vần xung quanh những ước muốn của trẻ; những đứa trẻ như vậy sẽ lớn lên với cảm thức về quyền của chúng nhưng lại không có cảm thức trách nhiệm. Thái cực kia là tước đi khỏi đứa trẻ ý thức về phẩm giá của nó, về căn tính riêng và các quyền của nó; những đứa trẻ này rốt cục bị ngộp bởi các bổn phận và bởi nhu cầu phải thực hiện các mong muốn của người khác.

THỰC TIỄN MỘT CÁCH KIÊN NHẪN

  1.  Giáo dục đạo đức bao hàm việc yêu cầu một đứa trẻ hay một thanh thiếu niên chỉ những gì không đòi một hy sinh bất tương xứng, và chỉ yêu cầu một mức độ cố gắng sao cho không dẫn tới phẫn uất hay những hành động quá bị áp lực. Thường điều này được làm bằng cách đề ra những bước nhỏ có thể được hiểu, được chấp nhận và trân trọng, trong khi có bao gồm một sự hy sinh hợp lý. Nếu chẳng vậy, chúng ta đòi hỏi quá nhiều, thì sẽ không đạt được gì cả. Một khi đứa trẻ được tự do khỏi quyền bính của chúng ta, nó có thể ngừng làm điều tốt.
  2. Việc đào tạo đạo đức nhiều khi không được hưởng ứng, do bởi những kinh nghiệm về sự thờ ơ, thất vọng, thiếu tình thương hay những cung cách dạy con thiếu mẫu mực. Các giá trị đạo đức được liên kết với những hình ảnh tiêu cực của cha mẹ hay những khuyết điểm của người lớn. Vì vậy, các bạn trẻ cần được giúp đỡ để rút ra những loại suy: nhìn nhận rằng các giá trị được thể hiện tốt nhất nơi một số người mẫu mực, nhưng cũng được thể hiện một cách không hoàn hảo và với những mức độ khác nhau nơi những người khác. Đồng thời, vì sự phân vân của họ có thể do ảnh hưởng từ những kinh nghiệm xấu, họ cần được giúp đỡ trong tiến trình chữa trị nội tâm, và nhờ đó họ lớn lên trong khả năng hiểu và sống hòa hợp với những người khác và với cộng đồng rộng lớn hơn.
  1.  Trong việc đề ra các giá trị, chúng ta phải làm từ từ, có xét đến tuổi và các khả năng của đứa trẻ, mà không bừa bãi áp dụng những phương pháp cứng nhắc và thiếu uyển chuyển. Những đóng góp có giá trị của khoa tâm lý và các khoa giáo dục đã cho thấy rằng việc thay đổi cung cách ứng xử của một đứa trẻ giả thiết một quá trình tiệm tiến, nhưng cũng lưu ý rằng sự tự do cần phải được thông truyền và khơi động, vì tự nó sự tự do không bảo đảm tiến trình phát triển đến trưởng thành. Sự tự do trong bối cảnh, tức sự tự do thực tế, thì giới hạn và bị điều kiện. Nó không đơn thuần là khả năng chọn điều tốt một cách hoàn toàn tự động. Người ta không luôn luôn phân biệt cách thích đáng giữa những hành vi “tự nguyện” và “tự do”. Một người có thể rõ ràng và tự ý ao ước một điều gì đó xấu, nhưng sở dĩ thế vì đó là kết quả của một đam mê bất khả kháng hay một sự giáo dục kém cỏi. Trong những trường hợp như thế, trong khi cái quyết định là tự nguyện, trong chừng mực nó không đi ngược lại xu hướng khao khát của họ, nhưng nó không tự do, vì trong thực tế họ không thể không chọn điều xấu ấy. Chúng ta thấy điều này trong trường hợp những người nghiện ma túy do áp lực. Khi họ muốn điều chỉnh, họ hoàn toàn muốn như vậy, nhưng họ bị điều kiện quá nhiều đến nỗi lúc ấy họ không thể quyết định cách nào khác. Quyết định của họ có tính tự nguyện nhưng không tự do. Thật vô nghĩa việc “cho phép họ tự do lựa chọn”, vì thực tế họ không thể lựa chọn, và việc bỏ mặc họ cho ma túy chỉ làm gia tăng sự nghiện ngập của họ. Họ cần được giúp đỡ bởi những người khác và cần một tiến trình phục hồi.

ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

NHƯ MỘT KHUNG CẢNH GIÁO DỤC

  1.  Gia đình là trường học đầu tiên của các giá trị nhân bản, ở đó chúng ta học biết dùng sự tự do một cách khôn ngoan. Một số xu hướng hình thành ở thời thơ ấu và bám rễ sâu đến nỗi chúng vẫn còn suốt cuộc đời, hoặc như những hấp lực của một giá trị nào đó, hay như sự dị ứng tự nhiên đối với một số cách hành động. Nhiều người suy nghĩ và hành động theo một cách nào đó bởi vì họ cho rằng như vậy là đúng, dựa trên cơ sở những gì họ đã học, dường như bằng cách thẩm thấu, từ những năm đầu đời: “Tôi đã được dạy như thế”. “Đó là điều tôi đã học”. Trong gia đình, chúng ta cũng có thể học biết phê phán một số thông điệp do các phương tiện truyền thông đem lại. Đáng buồn để nói rằng một số chương trình truyền hình hay những hình thức quảng cáo thường gây ảnh hưởng tiêu cực và hạ giá những giá trị được ghi khắc trong đời sống gia đình.
  2. Trong thời chúng ta, bị thống trị bởi sự căng thẳng và những tiến bộ công nghệ nhanh chóng, một trong những công tác quan trọng của các gia đình là dạy cho trẻ biết kiên nhẫn. Điều này không có nghĩa là ngăn chặn không cho trẻ em chơi với những thiết bị điện tử, nhưng đúng hơn đó là tìm những cách thế để giúp chúng phát triển khả năng phê bình của chúng và không nghĩ rằng tốc độ kỹ thuật số có thể áp dụng cho mọi sự trong đời sống. Việc đình hoãn các ước muốn không có nghĩa là phủ nhận chúng nhưng chỉ đơn thuần là hoãn lại việc thực hiện chúng. Khi trẻ em hay thanh thiếu niên không được giúp để nhận ra rằng một số điều phải được chờ đợi, chúng có thể trở nên bị ám ảnh với việc thỏa mãn những nhu cầu trước mắt, và hình thành thói xấu “muốn tất cả ngay lập tức”. Đây là một ảo tưởng lớn, không giúp cho sự tự do mà làm suy yếu nó. Mặt khác, khi chúng ta được dạy hoãn lại một số điều cho tới lúc thích hợp, chúng ta học làm chủ chính mình và thoát khỏi những xung năng của chúng ta. Khi trẻ nhận ra rằng chúng phải có trách nhiệm về bản thân chúng, lòng tự trọng của chúng được phát huy. Điều này, đến lượt nó, sẽ dạy cho chúng biết tôn trọng sự tự do của người khác. Rõ ràng ở đây không có nghĩa là kỳ vọng đứa trẻ hành động như người lớn, nhưng cũng không có nghĩa là đánh giá thấp khả năng của chúng trong việc phát triển sự tự do có trách nhiệm. Trong một gia đình vững mạnh, tiến trình học này diễn ra xuyên qua những đòi hỏi do đời sống chung đặt ra.
  1.  Gia đình là khung cảnh đầu tiên để hội nhập xã hội, vì đó là nơi mà chúng ta lần đầu tiên học liên hệ với người khác, lắng nghe và chia sẻ, kiên nhẫn và bày tỏ sự tôn trọng, giúp đỡ nhau, và sống hiệp nhất. Công việc giáo dục là làm cho người ta cảm thấy rằng thế giới và xã hội cũng là nhà của mình; nó dạy chúng ta cách sống với nhau trong ngôi nhà lớn này. Trong gia đình, chúng ta học sự gần gũi, quan tâm và tôn trọng người khác. Chúng ta bứt ra khỏi thói loay hoay với chính mình đầy tai hại, và đi đến nhận ra rằng chúng ta đang sống cùng với những người khác, đó là những người xứng đáng được ta quan tâm, cư xử tử tế và yêu thương. Sẽ không có mối gắn kết xã hội nếu không có chiều kích đầu tiên này của đời sống hằng ngày, xem ra rất nhỏ: sự kiện sống bên nhau, gần gũi, gặp nhau nhiều lúc trong ngày, quan tâm về mọi sự có ảnh hưởng tới mình, giúp nhau trong những chuyện lặt vặt đời thường. Hằng ngày gia đình phải có những cách thức mới để trân trọng và nhìn nhận các thành viên của mình.
  1. Cũng trong gia đình, chúng ta có thể xem xét lại các thói quen tiêu thụ của mình và hưởng ứng việc chăm sóc môi trường như căn nhà chung của chúng ta. “Gia đình là tác nhân chính của một sinh thái toàn vẹn, vì đó là chủ thể xã hội hàng đầu chứa đựng trong mình hai nguyên lý nền tảng của văn minh con người trên trái đất: nguyên lý hiệp thông và nguyên lý sinh hoa quả”.[119] Cũng vậy, những thời khắc khó khăn và lo lắng trong đời sống gia đình có thể dạy những bài học quan trọng. Điều này xảy ra, chẳng hạn, khi ốm đau bệnh tật, vì “đứng trước bệnh tật, ngay cả trong gia đình, những khó khăn sẽ nổi lên, do sự yếu đuối của con người. Nhưng nói chung, những thời khắc bệnh tật giúp các mối ràng buộc gia đình có thể trở nên chặt chẽ hơn… Một nền giáo dục không khích lệ sự nhạy cảm đối với bệnh tật con người sẽ làm cho trái tim trở nên lạnh lùng; nó làm cho người trẻ ‘mất cảm giác’ trước những đau khổ của người khác, không thể đối mặt với đau khổ và không thể sống cái kinh nghiệm hữu hạn”.[120]
  1. Tiến trình giáo dục xảy ra giữa cha mẹ và con cái có thể được hỗ trợ – hay bị cản trở – bởi tính phức tạp gia tăng của truyền thông và giải trí. Khi được sử dụng đúng đắn, những phương tiện truyền thông này có thể hữu ích cho việc nối kết các thành viên gia đình sống xa cách nhau. Sự liên lạc thường xuyên giúp vượt qua các khó khăn.[121] Song thật rõ rằng những phương tiện truyền thông này không thể thay thế nhu cầu đối thoại có tính trực tiếp và cá vị hơn, là điều đòi hỏi sự hiện diện thực sự hay ít nhất là nghe được tiếng nói của người kia. Chúng ta biết rằng đôi khi những phương tiện này có thể tách biệt người ta thay vì nối kết, như khi ở bàn ăn tối, mọi người loay hoay với điện thoại di động của mình, hay khi người vợ hay chồng đi ngủ nhưng phải chờ người kia mải mê hàng giờ với một thiết bị điện tử. Đây cũng là một điều mà các gia đình phải thảo luận và giải quyết theo hướng khích lệ sự tương tác mà không áp đặt những cấm đoán phi thực tế. Trong bất luận tình huống nào, chúng ta không thể phớt lơ nguy cơ mà những hình thức truyền thông mới này đặt ra cho trẻ em và tuổi thanh thiếu niên; nhiều khi chúng có thể làm gia tăng sự thờ ơ và tách rời khỏi thế giới thực. Sự “ngắt mạch có tính công nghệ” này làm cho trẻ dễ bị dẫn dụ bởi những kẻ xâm lăng vào không gian riêng tư của chúng nhằm đạt được những mối lợi ích kỷ.
  1.  Cũng không tốt nếu cha mẹ tỏ ra độc đoán. Khi con cái bị nhồi sọ rằng chỉ có thể tin tưởng cha mẹ mình mà thôi, thì điều đó sẽ cản trở một tiến trình thích đáng giúp hòa nhập xã hội và lớn lên trong sự trưởng thành tâm cảm. Để giúp mở mối tương quan với cha mẹ tới những thực tại rộng lớn hơn, “các cộng đoàn Kitô hữu được mời gọi cung ứng sự hỗ trợ cho sứ mạng giáo dục của các gia đình”,[122] nhất là xuyên qua hoạt động huấn giáo được liên kết với việc khai tâm Kitô giáo. Để thúc đẩy một nền giáo dục toàn vẹn, chúng ta cần “phục hồi giao ước giữa gia đình và cộng đoàn Kitô hữu”.[123] Thượng Hội Đồng muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của các trường Công giáo vốn “đóng một vai trò sống động trong việc giúp cha mẹ trong bổn phận giáo dục con cái… Các trường Công giáo phải được thúc đẩy trong sứ mạng của mình để giúp các học sinh lớn lên thành những người trưởng thành, có thể nhìn thế giới với tình yêu của Đức Giêsu, và có thể hiểu đời sống như một tiếng gọi phụng sự Thiên Chúa”.[124] Vì vậy, “Giáo Hội mạnh mẽ khẳng định sự tự do của mình trong việc trình bày giáo huấn, và quyền phản đối theo lương tâm của các nhà giáo dục”.[125]

CẦN CÓ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH

  1.  Công đồng Vatican II đề cập đến sự cần thiết phải có “một nền giáo dục giới tính khôn ngoan và tích cực” dành cho trẻ em và thanh thiếu niên “khi chúng lớn lên”, với “sự lưu tâm thích đáng đối với những tiến bộ trong các khoa tâm lý, sư phạm và giáo dục”.[126] Chúng ta có thể tự hỏi phải chăng các cơ chế giáo dục của chúng ta đã trả lời cho thách đố này. Thật không dễ tiếp cận vấn đề giáo dục giới tính trong một thời đại mà tính dục có xu hướng bị tầm thường hóa và bị làm cho khô kiệt ý nghĩa. Nó chỉ có thể được nhìn thấy trong khuôn khổ rộng hơn của một nền giáo dục về tình yêu, về tự hiến cho nhau. Theo cách đó, ngôn ngữ của tính dục sẽ không bị làm nghèo kiệt cách đáng tiếc, nhưng sẽ được chiếu sáng và làm cho phong phú. Bản năng tính dục có thể được dẫn dắt xuyên qua một tiến trình lớn lên trong sự hiểu biết mình và sự kiểm soát chính mình, giúp người ta có thể nuôi dưỡng những khả năng quí giá là vui tươi và gặp gỡ chân tình.
  2. Giáo dục giới tính nên cung cấp thông tin, trong khi lưu ý rằng trẻ em và thanh thiếu niên chưa đạt được sự trưởng thành đầy đủ. Thông tin phải đến đúng lúc và theo cách thế phù hợp với lứa tuổi. Sẽ không ích lợi việc nhồi nhét đầy những dữ liệu mà không đồng thời giúp trẻ phát triển một cảm thức phê bình khi đứng trước sự tràn ngập của những ý tưởng và những đề nghị mới mẻ, của cơn lũ khiêu dâm và sự lan tràn của những kích động có thể làm méo mó tính dục. Người trẻ cần nhận ra rằng họ bị oanh tạc bởi những thông điệp không ích lợi cho sự triển nở hướng đến trưởng thành của họ. Họ phải được giúp đỡ để nhận ra và tìm kiếm những ảnh hưởng tích cực, trong khi biết lảng xa những thứ làm què quặt khả năng yêu thương của mình. Chúng ta cũng phải ý thức rằng cần có “một ngôn ngữ mới và phù hợp hơn” để “giới thiệu chủ đề về tính dục cho trẻ em và thanh thiếu niên”.[127]
  1.  Một nền giáo dục tính dục thúc đẩy một cảm thức lành mạnh về sự chừng mực sẽ có một giá trị lớn lao, cho dù một số người ngày nay xem tính chừng mực như một tàn dư của một thời đại đã qua. Chừng mực là một phương thế tự nhiên nhờ đó chúng ta bảo vệ sự riêng tư cá nhân của mình và phòng tránh sa vào chỗ trở thành đối tượng bị người ta sử dụng. Nếu không có cảm thức chừng mực, tình cảm và tính dục có thể bị giảm trừ đến chỉ còn là một ám ảnh với nhục cảm tình dục và những cách ứng xử không lành mạnh làm méo mó khả năng yêu thương của chúng ta, và với những hình thức bạo lực tình dục dẫn tới sự cư xử phi nhân tính hay gây tổn thương cho người khác.
  1. Rất thường, giáo dục giới tính quan tâm chủ yếu tới việc “bảo vệ” xuyên qua thực hành “tình dục an toàn”. Những diễn tả như thế chứa đựng một thái độ tiêu cực đối với cứu cánh truyền sinh tự nhiên của tình dục, như thể đứa con là một kẻ thù phải bị ngăn chặn. Cách nghĩ này cổ súy tính tự yêu (narcissism) và sự áp chế thay vì chấp nhận. Luôn luôn là vô trách nhiệm việc mời thanh thiếu niên đùa nghịch với thân thể và với những thèm khát của chúng, như thể chúng đã làm chủ được sự trưởng thành, các giá trị, sự cam kết dấn thân cho nhau và các mục đích riêng của hôn nhân. Rốt cục vô tình chúng được khuyến khích sử dụng người khác như một phương tiện để lấp đầy các nhu cầu hay những giới hạn của mình. Điều quan trọng là dạy chúng biết nhạy cảm trước những diễn tả khác nhau của tình yêu, sự quan tâm và săn sóc nhau, sự tôn trọng trong yêu thương và sự liên lạc hàm súc ý nghĩa. Tất cả những điều này giúp chúng chuẩn bị cho một sự dâng hiến chính mình toàn vẹn và quảng đại vốn sẽ được thể hiện, theo sau một cam kết công khai, trong sự trao hiến thân mình. Sự kết hợp tình dục trong hôn nhân như vậy sẽ được thấy như một dấu hiệu của sự cam kết dấn thân toàn diện, được làm phong phú bởi tất cả những gì đi trước nó.
  1.  Không nên làm cho các bạn trẻ bị lộn xộn về hai cấp độ của thực tại: “sự hấp dẫn tình dục tạo ra, trong nhất thời, một ảo tưởng về sự kết hợp, nhưng nếu không có tình yêu, sự ‘kết hợp’ này rốt cục vẫn để lại hai người xa lạ như trước”.[128] Ngôn ngữ của thân xác mời gọi một sự tập tành kiên nhẫn để học biết diễn dịch và thông đạt những khao khát nhắm đến sự tự hiến đích thực. Khi chúng ta tưởng như mình trao hiến tất cả ngay lập tức, thì đó rất có thể là chúng ta không trao hiến gì hết. Hiểu sự mong manh và lúng túng của người trẻ, đó là một chuyện; còn khuyến khích họ kéo dài tình trạng ấu trĩ của họ trong cách diễn tả tình yêu, thì đó hoàn toàn là một chuyện khác. Nhưng ai sẽ nói về những điều này hôm nay? Ai có thể quan tâm thực sự đến các bạn trẻ? Ai sẽ giúp họ chuẩn bị một cách nghiêm túc cho một tình yêu quảng đại và cao thượng? Những nơi mà giáo dục giới tính được trình bày thì lại thường được trình bày cách không đúng đắn.
  2.  Giáo dục giới tính cũng nên bao gồm việc nhận hiểu và tôn trọng sự khác biệt, như một cách giúp người trẻ vượt qua sự mải mê tìm kiếm chính mình và biết mở ra đón nhận người khác. Ngoài những khó khăn có thể hiểu được mà các cá nhân có thể kinh nghiệm, người trẻ cần được giúp đỡ để chấp nhận thân thể của chính mình như nó được tạo nên, vì “việc nghĩ rằng chúng ta có quyền lực tuyệt đối trên thân xác mình sẽ thường vô hình trung chuyển sang cách nghĩ rằng chúng ta có quyền lực tuyệt đối trên công trình sáng tạo… Một sự trân trọng đối với thân xác chúng ta là nam hay nữ cũng cần thiết để chúng ta ý thức về chính mình trong một cuộc hạnh ngộ với những người khác mình. Nhờ đó chúng ta có thể vui tươi chấp nhận một người nam hay nữ khác, là công trình của Thiên Chúa sáng tạo, như quà tặng đặc biệt, và tìm thấy sự phong phú đem lại cho nhau”.[129] Chỉ bằng cách bỏ đi nỗi sợ sự khác biệt, chúng ta mới có thể được giải phóng khỏi việc qui hướng về mình và tìm kiếm chính mình. Giáo dục giới tính phải giúp cho người trẻ chấp nhận thân xác mình, và tránh cái ý muốn “khỏa lấp sự khác biệt giới tính bởi vì không còn biết xử lý làm sao với nó nữa”.[130]
  1.  Chúng ta cũng không thể phớt lơ sự kiện rằng sự hình thành cốt cách làm người của mình, dù là nam hay nữ, thì không đơn thuần là kết quả của những yếu tố sinh học hay di truyền, nhưng là của rất nhiều yếu tố có liên hệ đến tính khí, lịch sử gia đình, văn hóa, kinh nghiệm, giáo dục, ảnh hưởng từ bạn bè, từ các thành viên trong gia đình và những người đáng kính, cũng như những hoàn cảnh đào tạo khác. Quả thực là chúng ta không thể tách rời nam tính và nữ tính khỏi công trình sáng tạo của Thiên Chúa, điều vốn đi trước mọi quyết định và kinh nghiệm của chúng ta, và trong đó có tồn tại rõ ràng các yếu tố sinh học không thể bị bỏ qua. Nhưng cũng đúng rằng nam tính và nữ tính không phải là những phạm trù cứng nhắc. Chẳng hạn, cách thể hiện nam tính của một người chồng có thể được linh động thích nghi với thời biểu làm việc của người vợ. Đảm nhận những công việc trong nhà hay một số phần việc nuôi dạy con cái, điều đó không hề làm cho anh ta bớt nam tính hơn hay là hàm nghĩa thất bại, thiếu trách nhiệm, hay là lý do để xấu hổ. Con cái phải được giúp để chấp nhận là bình thường những “trao đổi” lành mạnh như thế, vốn chẳng hề làm giảm phẩm giá của người cha. Một cách tiếp cận cứng nhắc sẽ hóa thành sự nhấn mạnh quá mức về nam tính hay nữ tính, nó không giúp trẻ em và những người trẻ trân trọng tính tương nhượng đích thực gắn liền với những điều kiện thực tế của hôn nhân. Sự cứng nhắc như vậy, đến lượt nó, có thể cản trở sự phát triển của các khả năng cá nhân, đến mức dẫn người ta đến cách nghĩ rằng – chẳng hạn – tỉ mẩn nghệ thuật hay múa nhảy thì không phải là đàn ông thực, hoặc nắm vai trò lãnh đạo thì không phải là phụ nữ đúng nghĩa lắm. Thật may là điều này đã thay đổi, nhưng tại một số nơi những quan niệm lệch lạc vẫn còn ảnh hưởng đến sự tự do chính đáng, và cản trở sự phát triển đích thực của căn tính và những tiềm năng đặc biệt của trẻ.

CHUYỂN THÔNG ĐỨC TIN

  1. Việc nuôi dạy con cái cần một tiến trình chuyển thông đức tin cách mạch lạc. Điều này trở nên khó khăn do những lối sống đương đại, do thời biểu công việc, và do tính phức tạp của thế giới ngày nay, trong đó nhiều người bị cuốn vào nhịp sống hối hả chỉ để tồn tại.[131] Dù sao, gia đình phải tiếp tục là nơi mà chúng ta học biết trân trọng ý nghĩa và vẻ đẹp của đức tin, biết cầu nguyện và phục vụ người xung quanh mình. Điều này bắt đầu với Phép Rửa, trong đó, như Thánh Augustinô nói, những người mẹ nuôi dạy con cái mình “cộng tác trong cuộc sinh hạ thánh thiêng”.[132] Như thế, hành trình lớn lên trong sự sống mới ấy được bắt đầu. Đức tin là quà tặng của Thiên Chúa, được nhận lãnh trong Phép Rửa, chứ không phải công trình của chúng ta, tuy nhiên cha mẹ là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp đức tin lớn lên và phát triển. Vì thế “thật là tuyệt vời khi người mẹ dạy đứa con nhỏ của mình cử chỉ hôn Chúa Giêsu hay Đức Mẹ. Cử chỉ thật là tình cảm biết bao! Lúc ấy trái tim của đứa trẻ trở thành một nơi cầu nguyện”.[133] Việc chuyển thông đức tin giả định rằng chính cha mẹ thực sự tin tưởng vào Thiên Chúa, tìm kiếm Ngài và cảm thấy cần Ngài, vì chỉ bằng cách này thì mới diễn ra chuyện “đời này tuyên dương cho đời khác công việc của Chúa, và kể lại các hành động đầy quyền năng của Ngài” (Tv 144,4) và “những người cha kể lại cho con cái biết lòng trung thành của Chúa” (Is 38,19). Điều này có nghĩa là chúng ta cần cầu xin Chúa hành động trong tâm hồn của con cái, nơi mà chính chúng ta không thể đạt tới được. Một hạt cải, rất bé nhỏ, trở thành một cây lớn (x. Mt 13,31-32); điều này dạy chúng ta nhận ra sự không tương xứng giữa những việc ta làm và các hiệu quả của những việc ấy. Chúng ta biết rằng mình không phải là chủ nhân của món quà, nhưng chúng ta được ủy thác để săn sóc nó. Nhưng sự dấn thân đầy sáng tạo của chúng ta tự nó là một sự trao hiến có thể giúp chúng ta cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Vì vậy, “các đôi bạn và các cha mẹ phải được nhìn nhận đúng đắn là những tác nhân tích cực trong việc huấn giáo… Việc huấn giáo về gia đình là sự hỗ trợ lớn lao xét như một phương pháp hữu hiệu giúp các cha mẹ trẻ ý thức về sứ mạng của mình trong tư cách là những tác nhân Phúc Âm hóa gia đình mình”.[134]
  1. Giáo dục đức tin phải thích nghi với mỗi đứa trẻ, vì những phương thế và những lề lối cũ không luôn luôn hữu hiệu. Trẻ em cần những biểu tượng, những hành động, và những câu chuyện. Vì thanh thiếu niên thường có những vấn đề với quyền bính và các qui tắc, nên tốt nhất là khích lệ kinh nghiệm đức tin của chính các em và cung cấp cho các em những chứng từ có sức lôi cuốn, các em sẽ được chinh phục bởi vẻ đẹp của các chứng từ ấy. Các cha mẹ mong ước nuôi dưỡng đức tin của con cái mình sẽ nhạy cảm với những kiểu thức phát triển của chúng, vì họ biết rằng kinh nghiệm thiêng liêng thì không được áp đặt, nhưng được đề nghị một cách tự do. Thật thiết yếu việc trẻ em thấy rõ rằng đối với cha mẹ chúng, cầu nguyện là một điều gì đó thực sự quan trọng. Vì thế, những khoảnh khắc cầu nguyện trong gia đình và những thực hành đạo đức có thể có năng lực Phúc Âm hóa hơn so với bất cứ lớp giáo lý hay bài thuyết giáo nào. Ở đây tôi muốn diễn tả sự tri ân cách riêng đối với tất cả những bà mẹ không ngừng cầu nguyện, như Thánh Mônica, cho những đứa con của mình lỡ đi lạc xa khỏi Đức Kitô.
  1.  Công việc chuyển thông đức tin cho con cái, theo nghĩa là tạo điều kiện cho sự diễn tả và sự phát triển đức tin, sẽ hỗ trợ toàn gia đình trong sứ mạng Phúc Âm hóa của mình. Một cách tự nhiên, gia đình bắt đầu giới thiệu đức tin cho mọi người chung quanh mình, cả những người bên ngoài phạm vi gia đình. Những con cái lớn lên trong các gia đình nhiệt tâm sứ mạng thường trở thành những nhà thừa sai; lớn lên trong gia đình thân thiện và ấm cúng, chúng học biết cách liên hệ với thế giới theo cùng cách ấy, mà không từ bỏ đức tin hay những niềm xác tín của mình. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu đã ăn uống với các tội nhân (x. Mc 2,16); Mt 11,19), nói chuyện với một phụ nữ Samaria (x. Ga 4,7-26), tiếp chuyện với Nicôđêmô vào ban đêm (x. Ga 3,1-21), cho phép một cô gái điếm xức dầu chân mình (Lc 7,36-50), và Người không ngần ngại đặt tay trên những người bệnh (x. Mc 1,40-45; 7,33). Các tông đồ của Chúa cũng vậy, các ông không xem thường người khác, không chỉ xúm chụm với nhau trong những nhóm nhỏ ưu tú, và không cắt đứt khỏi đời sống của dân chúng. Mặc dù bị nhà cầm quyền sách nhiễu, các tông đồ vẫn nhận được sự quí mến “của toàn thể dân chúng” (Cv 2,47; x. 4,21.33; 5,13).
  1.  “Gia đình, vì thế, là một tác nhân của hoạt động mục vụ xuyên qua việc trực tiếp loan báo Tin Mừng và qua kho tàng các hình thức chứng tá đa dạng, như sự liên đới với người nghèo, sự cởi mở với những con người rất khác nhau, sự bảo vệ công trình tạo dựng, sự liên đới về luân lý và về vật chất với các gia đình khác, bao gồm những người nghèo túng nhất, sự dấn thân thăng tiến công ích, và sự thay đổi những cấu trúc xã hội bất công, bắt đầu từ địa phương nơi gia đình sinh sống, xuyên qua việc thực hành những công việc của lòng thương xót đối với xác và hồn người ta”.[135] Tất cả những điều này là một diễn tả niềm tin Kitô giáo thâm sâu của chúng ta đối với tình yêu của Chúa Cha, Đấng hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta, một tình yêu được thể hiện nơi sự tự hiến hoàn toàn của Đức Giêsu Kitô, Đấng mà ngay trong hiện tại này cũng đang sống giữa chúng ta và giúp chúng ta có thể cùng nhau đương đầu các giông tố của cuộc đời ở mọi giai đoạn. Tin Mừng cần phải âm vang trong tất cả các gia đình, khi vui cũng như khi buồn, như một nguồn ánh sáng soi dẫn đường đi. Nhờ kinh nghiệm đời sống trong gia đình, tất cả chúng ta sẽ có thể nói: “Chúng tôi đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng tôi” (1Ga 4,16). Chỉ trên cơ sở kinh nghiệm này, sự săn sóc mục vụ của Giáo Hội cho các gia đình mới có thể giúp họ trở thành vừa là những Giáo Hội tại gia vừa là men Phúc Âm hóa trong xã hội.

CHƯƠNG TÁM:

ĐỒNG HÀNH, PHÂN ĐỊNH,

VÀ HỘI NHẬP SỰ YẾU ĐUỐI

  1.  Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng mặc dù Giáo Hội ý thức bất cứ sự cắt đứt nào của mối dây hôn phối cũng “đều đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa”, song Giáo Hội cũng “ý thức về sự mỏng dòn của nhiều con cái mình”.[136] Được soi sáng bởi ánh nhìn của Đức Giêsu Kitô, “với tình thương, Giáo Hội hướng về những ai tham dự vào đời sống Giáo Hội một cách không trọn vẹn, nhìn nhận rằng ơn sủng Thiên Chúa cũng hoạt động trong đời sống của họ bằng cách ban cho họ ơn can đảm để làm việc thiện, chăm sóc nhau trong yêu thương, và phục vụ cộng đoàn nơi họ sống và làm việc”.[137] Sự tiếp cận này cũng được thúc đẩy bởi việc chúng ta cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Mặc dù Giáo Hội không ngừng nhấn mạnh tiếng gọi nên hoàn thiện và thúc đẩy một sự đáp trả trọn vẹn hơn đối với Thiên Chúa, “Giáo Hội cũng phải ân cần quan tâm đồng hành với những con cái yếu đuối nhất của mình – những người cho thấy các dấu hiệu của một tình yêu bị thương tích và rối loạn – để phục hồi nơi họ niềm hy vọng và tin tưởng, giống như ngọn hải đăng ở cảng hay như ngọn đuốc giương lên giữa dân chúng để giúp soi dẫn những kẻ lạc đường hay những ai đang bị bủa vây trong bão tố”.[138] Chúng ta không được quên rằng công việc của Giáo Hội thường giống như công việc của một bệnh viện tiền phương.
  1.  Hôn nhân Kitô giáo, như phản ảnh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội, được thực hiện trọn vẹn trong sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ trao hiến chính mình cho nhau trong một tình yêu độc hữu, trung thành và tự do, họ thuộc về nhau cho đến chết và họ mở ra đón nhận việc truyền sinh, họ được thánh hiến bằng bí tích có sức trao ban ơn sủng để họ trở thành một Hội Thánh tại gia và trở nên men sự sống mới cho xã hội. Một số hình thức kết hợp đi ngược lại lý tưởng này cách tận căn, trong khi một số hình thức khác thực hiện lý tưởng này ít nhất một phần và theo cách loại suy. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng Giáo Hội không xem thường những yếu tố tích cực trong những hoàn cảnh chưa hay không còn tương hợp với giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân.[139]

TÍNH TIỆM TIẾN TRONG SĂN SÓC MỤC VỤ

  1.  Các Nghị Phụ cũng lưu ý đến hoàn cảnh đặc biệt của một hôn phối thuần túy dân sự hay thậm chí chỉ đơn thuần là sự sống chung, với sự phân biệt rõ ràng giữa hai trường hợp ấy, các ngài ghi nhận rằng “khi những kết hợp như thế đạt được một sự ổn định nhất định, được pháp luật nhìn nhận, được đặc trưng bởi tình thương và trách nhiệm thâm sâu đối với con cái, và cho thấy có một khả năng vượt qua các thử thách, thì những sự kết hợp ấy có thể cung ứng cơ hội cho việc săn sóc mục vụ, với đích ngắm là cuối cùng dẫn tới việc cử hành bí tích hôn nhân”.[140] Mặt khác, thật rất đáng ưu tư việc nhiều người trẻ ngày nay không tin vào hôn nhân, họ sống chung và trì hoãn vô thời hạn việc cam kết hôn nhân, trong khi những người khác thì phá vỡ một cam kết đã được đưa ra để rồi ngay lập tức làm một cam kết mới. “Là thành viên của Giáo Hội, họ cũng cần sự săn sóc mục vụ đầy ý nghĩa thương xót và trợ giúp”.[141] Vì các mục tử của Giáo Hội không chỉ có trách nhiệm thăng tiến hôn nhân Kitô giáo, mà còn có trách nhiệm “biện phân mục vụ đối với các hoàn cảnh của rất nhiều người không còn sống thực tại ấy. Cần phải đi vào cuộc đối thoại mục vụ với những người này để nhận ra những yếu tố trong đời sống họ có thể dẫn đến một sự cởi mở hơn nữa đối với Tin Mừng về hôn nhân ở mức trọn vẹn của nó”.[142] Trong việc biện phân mục vụ này, cần phải “nhận diện những yếu tố có thể thúc đẩy việc Phúc Âm hóa và sự phát triển nhân bản cũng như thiêng liêng”.[143]
  1. “Sự chọn lựa một cuộc hôn phối dân sự, hay trong nhiều trường hợp chỉ đơn thuần là một sự sống chung, thường không bị thúc đẩy bởi thành kiến hay bởi sự phản kháng đối với một kết hợp có tính bí tích, nhưng thường do những tình huống có tính văn hóa hoặc ngẫu nhiên”.[144] Trong những trường hợp ấy, người ta cũng có thể bày tỏ sự kính trọng đối với các dấu hiệu của tình yêu mà, cách nào đó, phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa.[145] Chúng ta biết rằng có “một sự gia tăng không ngừng con số những người mà sau khi sống chung một thời gian dài, họ xin được kết hôn trong Giáo Hội. Việc đơn thuần sống chung thường là một chọn lựa xuất phát từ một thái độ nói chung chống lại bất cứ gì có tính thiết chế hay có tính dứt khoát; cũng có thể người ta chọn lựa như thế trong khi chờ đợi sự ổn định hơn trong đời sống (chẳng hạn, một công việc làm và một thu nhập ổn định). Tại một số quốc gia, những kết hợp de facto (tức chuyện đã rồi trong thực tế) có rất nhiều, không chỉ vì người ta tẩy chay các giá trị liên quan đến gia đình và hôn phối, nhưng chủ yếu bởi vì việc cử hành lễ cưới được thấy là quá tốn kém trong bối cảnh xã hội. Như vậy, tình trạng nghèo nàn vật chất kéo người ta vào những sự kết hợp de facto”.[146] Dù trường hợp nào đi nữa, “tất cả những hoàn cảnh này đòi một sự đáp trả tích cực, tức tìm cách chuyển hóa chúng thành những cơ hội có thể dẫn tới thực tại đầy đủ của hôn nhân và gia đình phù hợp với Tin Mừng. Những đôi vợ chồng này cần được đón tiếp và hướng dẫn một cách kiên nhẫn và thận trọng”.[147] Thử xem cách mà Đức Giêsu ứng xử với người phụ nữ Samari (x. Ga 4,1-26): Người đề cập đến khát vọng tình yêu đích thực của chị, để giải thoát chị khỏi bóng tối trong cuộc đời chị và đưa chị đến niềm vui trọn vẹn của Tin Mừng.
  1. Theo tinh thần ấy, Thánh Phaolô đề ra cái gọi là “luật tiệm tiến” với nhận thức rằng con người “hiểu biết, yêu mến và đạt tới sự thiện luân lý theo những giai đoạn phát triển khác nhau”.[148] Đây không phải là một “sự tiệm tiến của luật” nhưng đúng hơn là một sự tiệm tiến trong việc thi hành cách khôn ngoan những hành động tự do xét về phía những chủ thể không ở trong một vị thế có thể hiểu, trân trọng, hay thực thi đầy đủ những đòi hỏi khách quan của luật. Vì luật tự nó là một quà tặng của Thiên Chúa giúp chỉ đường, một quà tặng cho mọi người không trừ ai; nên nó có thể được tuân theo với sự trợ giúp của ơn sủng, ngay cả dù mỗi con người “tiến tới từ từ với sự hội nhập không ngừng những quà tặng của Thiên Chúa và những đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối và dứt khoát của Thiên Chúa trong toàn thể đời sống cá nhân và xã hội của mình”.[149]

PHÂN ĐỊNH NHỮNG

HOÀN CẢNH “BẤT THƯỜNG”[150]

  1. Thượng Hội Đồng đề cập những hoàn cảnh yếu đuối và bất toàn khác nhau. Ở đây tôi muốn nhắc lại một điều mà tôi đã cố gắng làm sáng tỏ cho toàn thể Giáo Hội, phòng tránh trường hợp chúng ta đi lạc: “Có hai cách nghĩ vẫn thấy diễn ra trong lịch sử Giáo Hội: đó là, loại bỏ và phục hồi. Kể từ thời Công đồng Giêrusalem, con đường của Giáo Hội luôn luôn là con đường của Đức Giêsu, con đường thương xót và phục hồi… Con đường của Giáo Hội là không lên án bất cứ ai vĩnh viễn; đó là đổ dầu thơm lòng thương xót của Thiên Chúa trên tất cả những ai chân thành kêu xin… Vì bác ái đích thực thì không bao giờ đòi người ta phải xứng đáng, nó luôn luôn vô điều kiện và nhưng không”.[151] Vì thế, cần phải “tránh những phán quyết không có sự xem xét đến tính phức tạp của các hoàn cảnh khác nhau” và cần “lưu tâm đến nỗi khốn khổ mà người ta phải chịu do hoàn cảnh của họ”.[152]
  1. Điều quan trọng là đi đến với mọi người, giúp mỗi người tìm ra cách thích đáng để tham dự vào cộng đoàn Giáo Hội, và nhờ đó họ kinh nghiệm mình được chạm đến bởi một lòng thương xót “nhưng không, vô điều kiện mà mình hoàn toàn bất xứng”. Không ai có thể bị lên án vĩnh viễn, vì đó không phải là cách thức của Tin Mừng! Ở đây tôi không chỉ nói về những người ly dị và tái hôn, nhưng nói về mọi người, trong bất luận hoàn cảnh nào. Dĩ nhiên, nếu một ai đó phô bày một tội khách quan như thể đó là một phần của lý tưởng Kitô giáo, hoặc muốn áp đặt một cái gì đó khác với những gì Giáo Hội giảng dạy, thì người ấy không thể mạo nhận danh nghĩa giảng dạy cho kẻ khác; đây là một trường hợp tự tách mình ra khỏi cộng đoàn (x. Mt 18,17). Những người ấy cần phải lắng nghe lại sứ điệp Tin Mừng và lời mời gọi hoán cải của Tin Mừng. Tuy nhiên, ngay cả đối với một người như thế, vẫn có thể có cách để tham dự vào đời sống của cộng đoàn, ví dụ, trong công tác xã hội, trong các cuộc họp mặt cầu nguyện, hoặc bằng một cách nào đó mà người ấy có thể nghĩ ra, với sự phân định của cha sở. Liên quan tới cách ứng xử đối với các hoàn cảnh “bất thường”, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đạt được một sự đồng thuận chung mà tôi vốn ủng hộ: “Khi xem xét một phương thức mục vụ đối với những người đã ký kết một hôn phối dân sự, những người ly dị và tái hôn, hay những người chỉ đơn thuần sống chung, Giáo Hội có trách nhiệm giúp họ hiểu khoa sư phạm ơn sủng của Thiên Chúa trong cuộc đời họ, và cung ứng cho họ sự trợ giúp để họ có thể đạt được đầy đủ kế hoạch của Thiên Chúa cho mình”,[153] điều này luôn luôn có thể, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
  1. Những người ly dị đã đi vào một mối kết hợp mới, chẳng hạn, có thể thuộc rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, mà ta không được phớt lờ hay ép vào những cách phân loại quá cứng nhắc và chẳng còn chừa chỗ nào cho một sự phân định cá nhân hay mục vụ thích hợp. Ví như trường hợp một mối kết hợp thứ hai đã vững chắc qua thời gian, với các con cái mới, với sự trung thành được chứng tỏ, với sự quảng đại tự hiến, với nhiệt tâm sống đạo, với một ý thức về tình trạng bất thường của mình và về cái khó khăn sừng sững của việc làm sao quay lui mà đồng thời trong lương tâm không cảm thấy rằng mình sẽ rơi vào những tội mới. Giáo Hội ý thức những hoàn cảnh “trong đó, vì những lý do hệ trọng, như việc nuôi dạy con cái, một đôi nam nữ không thể thỏa mãn sự đòi buộc phải chia tay”.[154] Cũng có những trường hợp trong đó người ta đã cố gắng hết sức để cứu cuộc hôn nhân thứ nhất của mình và đã bị ruồng bỏ một cách bất công, hay “những người đã đi vào một mối kết hợp thứ hai vì lợi ích của việc nuôi dạy con cái, và đôi khi trong lương tâm họ tin rằng cuộc hôn phối trước đây đã đổ vỡ vô phương sửa chữa ấy là một hôn phối không thành hiệu”.[155] Còn ví như trường hợp khác, một mối kết hợp mới xảy ra từ một cuộc ly dị chưa lâu, với tất cả nỗi đau khổ và hoang mang gây ra cho con cái và toàn gia đình, hay trường hợp một người cố lì trong tình trạng bỏ bê bổn phận đối với gia đình. Phải thấy rõ rằng đó không phải là lý tưởng mà Tin Mừng đề ra cho hôn nhân và gia đình. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố rằng sự phân định của các mục tử phải luôn luôn được làm “với sự biện biệt thích đáng”,[156] với một cách tiếp cận “biện phân kỹ lưỡng các hoàn cảnh”.[157] Chúng ta vốn biết rằng “những cách kê toa dễ dãi” không hề tồn tại.[158]
  1.  Tôi đồng ý với nhiều Nghị Phụ Thượng Hội Đồng trong ghi nhận rằng “những tín hữu đã ly dị và tái hôn về mặt dân sự cần phải được hội nhập đầy đủ hơn vào các cộng đoàn Kitô hữu bằng những cách có thể, trong khi phòng tránh bất cứ điều gì gây gương xấu. Lô-gíc hội nhập là chìa khóa của việc săn sóc mục vụ đối với họ, một sự săn sóc cho phép họ không chỉ nhận ra rằng mình thuộc về Giáo Hội là Thân Thể Đức Kitô, mà còn biết rằng mình có thể có được một kinh nghiệm đầy hoa trái và niềm vui trong đó. Họ đã lãnh Phép Rửa; họ là anh chị em; Chúa Thánh Thần đổ vào trái tim họ những ơn sủng và khả năng để phục vụ cho thiện ích chung. Sự tham gia của họ có thể được thể hiện trong những việc phục vụ khác nhau trong Giáo Hội, điều này nhất thiết đòi hỏi sự phân định xem ta có thể vượt qua những hình thức nào trong nhiều hình thức cấm cản khác nhau vốn đang được áp dụng trong cơ cấu phụng vụ, mục vụ, giáo dục và tổ chức. Những người ấy cần cảm thấy mình không phải là những thành viên bị tuyệt thông của Giáo Hội, nhưng là những thành viên sống động, có thể sống và lớn lên trong Giáo Hội, và kinh nghiệm Giáo Hội như một người mẹ luôn đón nhận mình, người mẹ ân cần săn sóc và khích lệ mình trên nẻo đường của sự sống và của Tin Mừng. Sự hội nhập này cũng rất cần trong việc săn sóc và giáo dục Kitô giáo cho con cái họ, là đối tượng phải được xem là quan trọng nhất”.[159]
  1.  Nếu chúng ta xem xét những hoàn cảnh cụ thể quá đỗi đa dạng như những gì tôi vừa đề cập, thì dễ nhận hiểu rằng không thể kỳ vọng Thượng Hội Đồng hay Tông Huấn này cung cấp một bộ luật chung mới, có tính qui chuẩn và có thể áp dụng cho mọi trường hợp. Điều có thể, đó là một sự khích lệ mới mẻ để đảm nhận một sự phân định cá nhân và mục vụ đầy trách nhiệm đối với những trường hợp cụ thể, một sự phân định trong đó người ta nhìn nhận rằng vì “mức trách nhiệm không như nhau trong mọi trường hợp”,[160] nên những hệ quả hay những hiệu ứng của một qui tắc không luôn đương nhiên giống nhau.[161] Các linh mục có bổn phận “đồng hành [với những người ly dị và tái hôn] để giúp họ hiểu hoàn cảnh của họ dựa vào giáo huấn của Giáo Hội và những hướng dẫn của giám mục. Một sự khảo sát lương tâm xuyên qua những khoảnh khắc hồi tâm và thống hối sẽ rất hữu ích cho tiến trình này. Những người ly dị và tái hôn cần tự vấn: mình đã hành động thế nào đối với con cái khi mối kết hợp vợ chồng đi vào khủng hoảng; mình đã có những cố gắng để hòa giải hay không; người bị mình ruồng bỏ đã ra sao; mối quan hệ mới có những hệ quả gì trên những người khác trong gia đình và trong cộng đoàn tín hữu; và mình đang nêu gương gì cho các bạn trẻ đang chuẩn bị hôn nhân. Một sự hồi tâm chân thành có thể củng cố niềm tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa vốn không từ chối bất cứ ai”.[162] Chúng ta đang nói về một tiến trình đồng hành và phân định có thể “dẫn dắt các tín hữu tới một ý thức về hoàn cảnh của họ trước mặt Thiên Chúa. Việc trao đổi với linh mục, ở tòa trong, sẽ góp phần đào tạo một phán đoán đúng đắn về những gì đang cản trở khả năng cho một sự tham dự đầy đủ hơn vào đời sống của Giáo Hội, và về những bước nào có thể thúc đẩy khả năng ấy và tăng cường nó. Vì sự tiệm tiến không nằm trong luật (x. Familiaris Consortio, 34), nên sự phân định này không bao giờ bỏ qua những đòi hỏi của Tin Mừng về sự thật và bác ái, như Giáo Hội đã nêu. Để có được sự phân định ấy, nhất thiết phải có những điều kiện sau đây: sự khiêm tốn, sự thận trọng và lòng yêu mến đối với Giáo Hội và giáo huấn của Giáo Hội, lòng chân thành tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và một niềm khát khao đáp lại thánh ý Chúa một cách hoàn hảo hơn”.[163] Những tâm thế này là thiết yếu để tránh mối nguy lớn của những cách hiểu sai lầm, chẳng hạn cho rằng bất cứ linh mục nào cũng có thể nhanh chóng ban “sự chuẩn chước”, hay cho rằng một số người có thể đạt được những đặc ân về bí tích bằng cách mua chuộc. Khi một người tế nhị và có trách nhiệm – tức người không đặt những mong muốn của riêng mình lên trên thiện ích chung của Giáo Hội – gặp một mục tử có khả năng nhận biết tính hệ trọng của vấn đề mà mình đang đối diện, thì không thể có nguy cơ rằng một sự phân định riêng biệt nào đó có thể khiến người ta nghĩ rằng Giáo Hội đang dùng một tiêu chuẩn kép.

NHỮNG YẾU TỐ GIẢM NHẸ

TRONG PHÂN ĐỊNH MỤC VỤ

  1.  Để có một nhận hiểu thích đáng về khả năng và nhu cầu đối với sự phân định đặc biệt trong một số hoàn cảnh “bất thường”, có một điều luôn luôn phải lưu ý, nhằm phòng tránh bất cứ ai nghĩ rằng các đòi hỏi của Tin Mừng đang bị suy tổn cách nào đó. Giáo Hội có sẵn một kho tàng suy tư vững chắc liên quan đến những yếu tố và những hoàn cảnh giảm nhẹ. Vì thế người ta không còn có thể đơn giản nói rằng tất cả những ai ở trong bất cứ hoàn cảnh “bất thường” nào đó đều đang sống trong tình trạng tội nguy tử và bị tước mất ơn thánh hóa. Có nhiều điều liên quan ở đây, chứ không duy chỉ là tình trạng không biết luật. Một chủ thể có thể biết rõ luật ấy, nhưng gặp khó khăn lớn trong việc nhận hiểu “các giá trị cốt yếu của nó”,[164] hoặc đương sự ở trong một hoàn cảnh cụ thể vốn không cho phép mình hành động cách nào khác hay quyết định cách nào khác mà không vướng thêm tội. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nói: “có thể tồn tại các yếu tố làm hạn chế khả năng đưa ra một quyết định”.[165] Thánh Tôma Aquinô nhìn nhận rằng một người có thể sở đắc ân phúc và lòng bác ái, nhưng không thể thực thi một số nhân đức;[166] nói cách khác, dù một người nào đó có thể sở đắc tất cả các nhân đức luân lý được ban cho, anh ta vẫn không cho thấy rõ ràng sự tồn tại của một nhân đức nào đó, bởi vì việc thực hành bên ngoài của nhân đức ấy gặp phải khó khăn: “Khi ta nói rằng một số vị thánh không có những nhân đức nào đó, thì đấy là vì các ngài gặp khó khăn trong việc thể hiện các nhân đức ấy, dù các ngài vẫn có thiên năng về tất cả các nhân đức”.[167]
  1. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo đề cập rõ ràng những yếu tố này: “trách nhiệm đối với một hành động có thể được giảm thiểu hay thậm chí được hủy bỏ do bởi ngu dốt, vô ý, bị cưỡng ép, sợ hãi, thói quen, những quyến luyến thái quá, và do các yếu tố tâm lý xã hội khác nữa”.[168] Trong một đoạn khác, Sách Giáo Lý một lần nữa qui chiếu đến những trường hợp làm giảm nhẹ trách nhiệm luân lý, và đề cập khá dài về “sự thiếu trưởng thành tâm cảm, áp lực của thói quen thủ đắc, những tình trạng bấn loạn hay những yếu tố tâm lý xã hội khác làm giảm đi mức tội luân lý”.[169] Do đó, một phán quyết tiêu cực về một hoàn cảnh khách quan không hề hàm ý một phán quyết về sự qui gán trách nhiệm hay mức tội của người liên hệ.[170] Trên cơ sở những xác tín này, tôi cho là rất phù hợp điều mà nhiều Nghị Phụ Thượng Hội Đồng muốn khẳng định: “Trong một số tình huống, người ta thấy rất khó hành động khác đi. Do đó, trong khi thượng tôn một qui luật chung, cần phải nhận ra rằng trách nhiệm đối với một số hành động hay quyết định thì không giống nhau trong mọi trường hợp. Sự phân định mục vụ, trong khi lưu ý đến lương tâm được đào tạo thích đáng của người ta, cần phải xem xét những hoàn cảnh này. Ngay cả những hệ quả của các hành động cũng không nhất thiết giống nhau trong mọi trường hợp.”[171]
  1.  Nhận ra ảnh hưởng của những yếu tố cụ thể như thế, chúng ta có thể thêm rằng trong một số hoàn cảnh không thể hiện một cách khách quan nhận thức của chúng ta về hôn nhân, thì lương tâm của cá nhân cần phải được Giáo Hội xét đến nhiều hơn. Dĩ nhiên, phải cố gắng hết sức để thúc đẩy sự phát triển của một lương tâm sáng suốt, được đào tạo và được hướng dẫn bởi sự phân định nghiêm túc và có trách nhiệm của vị mục tử, và phải khích lệ một niềm tin mạnh mẽ hơn nữa vào ơn sủng của Thiên Chúa. Tuy nhiên lương tâm có nhiều việc hơn để làm, chứ không duy chỉ việc nhìn nhận rằng một hoàn cảnh cụ thể nào đó thì không phù hợp cách khách quan với các đòi hỏi của Tin Mừng. Nó cũng có thể chân thành và trung thực nhận ra điều gì bây giờ là sự đáp trả quảng đại nhất có thể dâng lên Thiên Chúa, và đi tới chỗ nhìn thấy – với một sự chắc chắn luân lý nào đó – rằng đấy là điều mà Thiên Chúa đang mời gọi giữa cơ man những giới hạn cụ thể của mình, trong khi vẫn còn bất cập so với lý tưởng khách quan. Dù sao đi nữa, chúng ta hãy nhớ rằng sự phân định này có tính năng động; nó phải luôn mở ra cho những chặng phát triển mới và hướng đến những quyết định mới vốn có thể giúp cho cái lý tưởng được hiện thực đầy đủ hơn.

CÁC QUI TẮC VÀ SỰ PHÂN ĐỊNH

  1. Thật là bất cập việc duy chỉ xét xem các hành động của một cá nhân có phù hợp với một luật hay qui tắc chung hay không, bởi vì như vậy là chưa đủ để phân định và bảo đảm sự trung thành hoàn toàn đối với Thiên Chúa trong đời sống cụ thể của một con người. Tôi tha thiết kêu gọi rằng chúng ta phải luôn nhớ một giáo huấn của Thánh Tôma Aquinô và học biết cách vận dụng vào trong việc phân định mục vụ của mình: “Đành rằng cần phải có những nguyên tắc chung, nhưng khi chúng ta càng đi vào chi tiết, chúng ta càng thường xuyên gặp các khiếm khuyết… Trong lãnh vực hành động, chân lý hay sự đúng đắn về mặt thực hành thì không giống nhau khi áp dụng vào chi tiết, mà chỉ đúng cho các nguyên tắc chung thôi; và ở đâu có sự đúng đắn giống nhau trong chi tiết, thì nó cũng không được nhận biết như nhau đối với mọi người… Nguyên tắc sẽ được thấy là thất bại, khi chúng ta đi xa hơn vào chi tiết”.[172] Quả đúng là các qui tắc chung cho thấy một sự thiện hảo mà người ta không bao giờ được xem thường hay thờ ơ, nhưng trong công thức diễn đạt của chúng, chúng không thể tuyệt đối dung nạp hết mọi hoàn cảnh cụ thể. Đồng thời, chính vì lý do đó, phải nói rằng những gì thuộc về một sự phân định thực tế trong những trường hợp cụ thể thì không thể được nâng lên hàng qui tắc. Bởi điều đó sẽ không chỉ đưa tới một phán quyết nghiệt ngã, mà còn đe dọa chính các giá trị vốn phải được đặc biệt quan tâm giữ gìn.[173]
  1. Vì thế, vị mục tử không thể nghĩ rằng mình chỉ cần đơn giản áp dụng các luật luân lý cho những người sống trong các hoàn cảnh “bất thường”, cơ hồ như các luật ấy là những viên đá để mình ném vào đời sống người ta. Điều đó cho thấy trái tim khép kín của kẻ quen ẩn nấp đằng sau các giáo huấn của Giáo Hội, “ngồi trên tòa Môsê và đôi khi phán xử với thái độ kẻ cả và thiển cận những trường hợp khó khăn và những gia đình bị thương tích”.[174] Theo cùng chiều hướng này, Ủy Ban Thần Học Quốc Tế đã ghi nhận rằng “luật tự nhiên không thể được trình bày như một bộ qui tắc đã được thiết lập để tiên thiên áp vào chủ thể luân lý; đúng hơn, nó là một nguồn cảm hứng khách quan cho tiến trình đưa ra quyết định rất riêng tư của người ta”.[175] Do bởi những tình trạng điều kiện hóa và những yếu tố giảm nhẹ, có thể rằng trong một tội khách quan nào đó – vốn có thể không được cảm thấy là tội hay hoàn toàn là tội, theo chủ quan – thì người ấy có thể sống trong ân sủng Thiên Chúa, có thể yêu thương và cũng có thể lớn lên trong đời sống ân sủng và bác ái, trong khi nhận sự trợ giúp của Giáo Hội cho mục đích này.[176] Việc phân định phải giúp tìm ra những cách khả dĩ để đáp lại tiếng Chúa và để lớn lên ngay giữa các giới hạn. Khi suy nghĩ rằng mọi sự chỉ có thể hoặc trắng hoặc đen, chúng ta đôi khi đóng chặt con đường của ơn sủng và của sự triển nở, và cản trở những nẻo đường thánh hóa là những nẻo đường tôn vinh Thiên Chúa. Ta hãy nhớ rằng “một bước nhỏ, ở giữa những giới hạn to lớn của phận người, có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn là một đời sống xem chừng nề nếp, nhưng êm ru đi qua ngày tháng mà không phải đương đầu với những khó khăn đáng kể nào”.[177] Việc săn sóc mục vụ trong thực tế của các thừa tác viên và các cộng đoàn không được bỏ qua thực tại này.
  1.  Trong mọi hoàn cảnh, khi giúp đỡ những người gặp khó khăn trong việc sống trọn luật Chúa, phải giúp họ nghe rõ lời mời gọi theo đuổi con đường đức ái (via caritatis). Bác ái huynh đệ là luật thứ nhất của các Kitô hữu (x. Ga 15,12; Gal 5,14). Chúng ta không được quên những lời khẳng định mạnh mẽ của Thánh Kinh: “Hãy yêu thương nhau không ngừng, vì tình yêu che lấp muôn vàn tội lỗi” (1Pr 4,8); “Hãy đái tội lập công, bằng cách làm việc nghĩa, là tỏ lòng từ bi đối với người nghèo, để thời thịnh vượng … được kéo dài” (Đn 4,24); “Nước dập tắt lửa hồng, bố thí đền bù tội lỗi” (Hc 3,30). Đây cũng là điều Thánh Augustinô đã dạy: “Khi xảy ra hỏa hoạn, ta chạy đi tìm nước để dập lửa… thì cũng vậy, nếu ngọn lửa tội lỗi bùng lên từ đống rơm của mình và làm ta lo lắng, thì nếu gặp cơ hội để thực thi một hành động của lòng thương xót, chúng ta hãy vui mừng đón lấy, như thể đó là một nguồn nước giúp ta dập tắt ngọn lửa kia”.[178]

LÔ-GÍC CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

TRONG MỤC VỤ

  1.  Để tránh mọi sự hiểu lầm, tôi muốn chỉ ra rằng Giáo Hội không bao giờ có thể ngừng việc trình bày trọn vẹn lý tưởng của hôn nhân, tức kế hoạch của Thiên Chúa trong tất cả tầm vóc cao cả của nó: “Những người trẻ đã lãnh Phép Rửa cần được thúc đẩy để hiểu rằng Bí tích Hôn phối có thể làm phong phú những viễn tượng tình yêu của họ, và rằng họ có thể được nâng đỡ nhờ ân sủng của Đức Kitô trong bí tích ấy và nhờ khả năng tham dự đầy đủ vào đời sống Giáo Hội”.[179] Thái độ thờ ơ, chủ trương tương đối thuộc bất cứ loại nào, hay một sự ấm ớ trong việc diễn đạt lý tưởng ấy, tất cả đều cho thấy sự thiếu trung thành đối với Tin Mừng, đồng thời cũng cho thấy sự thiếu tình yêu của Giáo Hội đối với chính những người trẻ. Việc bày tỏ cảm thông đối với những hoàn cảnh ngoại lệ không bao giờ làm nhạt mờ ánh sáng của lý tưởng trọn vẹn hơn, cũng không cắt xén bớt những gì Chúa Giêsu truyền cho con người. Ngày nay, nỗ lực mục vụ để củng cố hôn nhân và qua đó phòng tránh hôn nhân gãy đổ thì quan trọng hơn việc săn sóc mục vụ đối với những trường hợp thất bại.
  2.  Đồng thời, từ ý thức của chúng ta về tầm quan trọng của những trường hợp giảm nhẹ – thuộc tâm lý học, lịch sử, và thậm chí sinh vật học – ta thấy rằng “trong khi không làm suy giảm lý tưởng theo Tin Mừng, vẫn có nhu cầu phải đồng hành trong lòng thương xót và kiên nhẫn đối với những giai đoạn trưởng thành của con người như chúng tiếp tục diễn ra”, dành chỗ cho “lòng thương xót của Chúa, là động lực thúc đẩy chúng ta nỗ lực hết sức mình”.[180] Tôi hiểu những ai thiên về một sự săn sóc mục vụ nghiêm khắc hơn và không có chỗ cho sự thiếu rạch ròi. Nhưng tôi chân thành tin rằng Đức Giêsu muốn một Giáo Hội lưu tâm tới những điều tốt lành mà Chúa Thánh Thần gieo vào giữa sự yếu hèn của con người, một Giáo Hội như người Mẹ – trong khi nói rõ giáo huấn khách quan của mình – “vẫn luôn luôn làm bất cứ gì tốt lành có thể, cho dù trên con đường ấy, đôi chân mình phải lấm lem bùn đất”.[181] Các mục tử của Giáo Hội, trong khi nêu rõ cho người tín hữu lý tưởng trọn vẹn của Tin Mừng và của giáo huấn Giáo Hội, cũng phải giúp họ biết cảm thương người yếu đuối, tránh thái độ bức xúc, gay gắt vô lối hay những phán quyết bất nhẫn. Chính Tin Mừng yêu cầu chúng ta đừng xét đoán hay lên án (x. Mt 7,1; Lc 6,37). Đức Giêsu “mong chúng ta chấm dứt việc tìm kiếm những hang hốc ẩn náu cho cá nhân hay tập thể để được che chắn khỏi vùng nước xoáy của những nỗi bất hạnh con người, thay vào đó Người mong ta đi vào trong thực tế của đời sống dân chúng và nhận thức được sức mạnh của sự dịu hiền. Bất cứ khi nào chúng ta làm thế, đời sống của chúng ta sẽ trở nên xáo trộn một cách tuyệt vời”.[182]
  1.  Thật quí hóa việc những suy tư này diễn ra trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, bởi vì cũng trong vô vàn hoàn cảnh đang tác động đến các gia đình, “Giáo Hội được trao nhiệm vụ loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa, là trái tim sống động của Tin Mừng, lòng thương xót ấy – bằng cách riêng của nó – phải xuyên thấu vào lòng trí mỗi người. Tân Nương của Đức Kitô phải noi gương cung cách của Con Thiên Chúa, Đấng đi ra đến với mọi người không trừ ai”.[183] Giáo Hội biết rằng Đức Giêsu là mục tử của toàn thể một trăm con chiên ấy, không phải chỉ của chín mươi chín con. Người yêu thương tất cả chúng. Từ nhận thức này, ta thấy “dầu thơm của lòng thương xót có thể đạt tới mọi người, những người tin và cả những người ở xa, như một dấu cho thấy rằng Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta”.[184]
  1. Chúng ta không được quên rằng “thương xót không chỉ là việc của Chúa Cha; nó cũng trở thành tiêu chuẩn để nhận biết ai là con cái đích thực của Ngài. Nói tắt, chúng ta được mời gọi thi thố lòng thương xót bởi vì, trước hết, lòng thương xót đã được thi thố cho chúng ta”.[185] Đây không phải là màu mè lãng mạn hay là một kiểu đáp trả nửa vời đối với tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu luôn kiếm tìm điều tốt nhất cho chúng ta, vì kỳ thực “lòng thương xót là chính nền tảng của đời sống Giáo Hội. Tất cả hoạt động mục vụ của Giáo Hội phải in dấu sự dịu hiền mà Giáo Hội diễn tả cho các tín hữu; không có gì trong lời rao giảng và trong chứng tá mà Giáo Hội nêu cho thế giới lại có thể thiếu lòng thương xót”.[186] Quả thực là có những lúc “chúng ta hành động như những chủ nhân ông của ơn sủng hơn là như những người hỗ trợ nó. Nhưng Giáo Hội không phải là một trạm thu thuế; Giáo Hội là nhà của Chúa Cha, nơi có đủ chỗ cho mọi người, với tất cả những vấn đề của họ”.[187]
  1. Việc giảng dạy thần học luân lý không được bỏ qua những lưu ý này, vì cho dù quả đúng là cần phải quan tâm đến tính toàn vẹn trong giáo huấn luân lý của Giáo Hội, nhưng vẫn luôn phải lưu tâm đặc biệt để nhấn mạnh và thúc đẩy các giá trị cao nhất và cốt yếu nhất của Tin Mừng,[188] nhất là địa vị hàng đầu của đức ái xét như sự đáp trả trước quà tặng tình yêu hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa. Có những lúc chúng ta thấy khó dành chỗ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa trong hoạt động mục vụ của chúng ta.[189] Chúng ta đặt ra quá nhiều điều kiện cho lòng thương xót đến độ làm nó mất sạch ý nghĩa cụ thể và thực sự của nó. Đó là cách tệ hại nhất để làm suy yếu Tin Mừng. Chẳng hạn, quả thực là lòng thương xót không loại trừ công lý và sự thật, nhưng trước hết chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự tròn đầy của công lý, và là cách thể hiện sáng ngời nhất sự thật của Thiên Chúa. Vì thế, luôn phải xem là “không thỏa đáng bất cứ quan niệm thần học nào rốt cục nghi ngờ sự toàn năng của Thiên Chúa và, nhất là, nghi ngờ lòng thương xót của Ngài”.[190]
  1. Điều này cung ứng cho chúng ta một cái khung và bầu khí giúp ta tránh một nền đạo đức lạnh lùng quan liêu khi xử lý những vấn đề đặc biệt nhạy cảm. Thay vào đó, nó đặt ta trong bối cảnh của một sự phân định mục vụ đầy ắp tình yêu và lòng thương xót, nghĩa là ta luôn sẵn sàng để thông cảm, tha thứ, đồng hành, hy vọng, và nhất là để hội nhập. Tâm thế này cần phải lan tràn trong Giáo Hội và hướng dẫn chúng ta “mở lòng ra đón nhận những ai đang sống ở những bờ rìa xa nhất của xã hội”.[191] Tôi khích lệ các tín hữu nào thấy mình đang ở trong những hoàn cảnh phức tạp hãy tin tưởng chia sẻ với các mục tử của mình, hay với những anh chị em giáo dân nhiệt tâm dấn thân cho Chúa. Có thể họ không luôn luôn gặp được một sự xác nhận đối với những ý nghĩ hay mong muốn của mình, nhưng chắc chắn họ sẽ nhận được ánh sáng nào đó giúp họ hiểu hơn hoàn cảnh của mình và khám phá ra một nẻo đường cho mình lớn lên. Tôi cũng khích lệ các mục tử của Giáo Hội lắng nghe những người ấy với sự nhạy bén và bình tĩnh, với niềm khao khát chân thành muốn hiểu cảnh ngộ và quan điểm của họ, để giúp họ sống đời mình tốt hơn và nhận ra chỗ dành cho mình trong Giáo Hội.

CHƯƠNG CHÍN:

LINH ĐẠO HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

  1. Đức ái mang nhiều sắc thái khác nhau, tùy vào bậc sống mà chúng ta được mời gọi. Cách đây mấy thập niên, khi nói về việc tông đồ giáo dân, Công đồng Vatican II nhấn mạnh loại linh đạo phát sinh từ đời sống gia đình. Công đồng tuyên bố rằng linh đạo giáo dân “sẽ mang đặc tính riêng của nó do những hoàn cảnh của … đời sống hôn nhân và gia đình”,[192] và rằng: “việc săn sóc các gia đình không nên xa lạ” với linh đạo ấy.[193] Thiết tưởng cần mô tả ở đây một số đặc tính căn bản của linh đạo chuyên biệt này, như nó bộc lộ ra trong đời sống và trong các mối tương quan gia đình.

MỘT LINH ĐẠO HIỆP THÔNG SIÊU NHIÊN

  1. Chúng ta vốn thường nói về cách mà Thiên Chúa cư ngụ trong lòng những ai sống trong ơn sủng của Ngài. Ngày nay ta có thể thêm rằng Chúa Ba Ngôi hiện diện trong đền thờ của mối hiệp thông vợ chồng. Cũng như Thiên Chúa ngự trong những lời tán tụng của dân Ngài (x. Tv 22,3), thì Ngài cũng ngự cách mật thiết trong tình yêu hôn nhân là tình yêu tôn vinh Ngài.
  1. Chúa hiện diện trong những gia đình cụ thể và thực tế, với những lo toan, những cố gắng, những vui mừng và hy vọng hằng ngày của họ. Sống trong gia đình, chúng ta thấy khó giả vờ hay nói dối; chúng ta không thể ẩn nấp sau một mặt nạ. Nếu tính cách chân thực ấy được thúc đẩy bởi tình yêu, thì Chúa đang ngự trị ở đó, với niềm vui và bình an của Người. Linh đạo tình yêu gia đình được cấu thành từ hàng ngàn cử chỉ nhỏ bé nhưng rất thật. Trong cơ man những sự trao tặng và những gặp gỡ có sức đào sâu sự hiệp thông ấy, Thiên Chúa có chỗ ngự trị của Ngài. Sự quan tâm lẫn nhau “sẽ kết hợp yếu tố nhân loại và yếu tố thần linh”,[194] vì nó được đong đầy tình yêu của Thiên Chúa. Cuối cùng, linh đạo hôn nhân là một linh đạo của mối dây ràng buộc, trong đó tình yêu Thiên Chúa cư ngụ.
  1.  Kinh nghiệm tích cực về sự hiệp thông gia đình sẽ là một nẻo đường đích thực cho việc thánh hóa hằng ngày và giúp lớn lên trong kinh nghiệm thần bí, một phương thế để kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Những đòi hỏi của đời sống chung và của tình huynh đệ trong gia đình là một động lực để người ta không ngừng mở lòng ra thêm nữa, và nhờ đó gặp gỡ Chúa ngày càng trọn vẹn hơn. Lời Chúa nói với chúng ta rằng “ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối, và kẻ ấy bước đi trong bóng tối” (1Ga 2,11); người ấy “ở lại trong sự chết” (1Ga 3,14) và “không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Vị tiền nhiệm của tôi, Đức Bênêđictô XVI, đã chỉ ra rằng “việc ta nhắm mắt trước tha nhân cũng sẽ làm mắt ta mù đi trước Thiên Chúa”,[195] và rằng, cuối cùng, tình yêu là ánh sáng duy nhất có thể “luôn luôn soi sáng lại cho một thế giới ở trong bóng đêm”.[196] Chỉ cần chúng ta “yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài sẽ nên hoàn hảo nơi chúng ta” (1Ga 4,12). Vì “nhân vị gắn không rời với một chiều kích xã hội”,[197] và “sự diễn tả căn bản và trước hết của chiều kích xã hội ấy của nhân vị là đôi vợ chồng và gia đình”,[198] nên linh đạo trở nên cụ thể bằng xương bằng thịt trong mối hiệp thông gia đình. Vì thế, những ai có cảm hứng tâm linh sâu sắc không nên nghĩ rằng gia đình làm hạn chế sự lớn lên của mình trong sự sống của Thánh Thần, nhưng đúng hơn hãy xem đó như một nẻo đường mà Chúa đang dùng để dẫn mình tới những tầm cao của kinh nghiệm kết hợp thần bí.

SUM HỌP CẦU NGUYỆN

TRONG ÁNH SÁNG PHỤC SINH

  1.  Nếu một gia đình đặt Đức Kitô làm trung tâm, Người sẽ thống nhất và soi sáng toàn thể đời sống của gia đình ấy. Những thời khắc khổ đau và chông gai sẽ được kinh nghiệm trong sự kết hợp với thập giá Chúa, và sự gần gũi của Người sẽ giúp gia đình vượt qua những thời khắc ấy. Trong những giờ phút đen tối nhất của đời sống gia đình, việc kết hợp với Đức Giêsu bị bỏ rơi có thể giúp tránh sự đổ vỡ. Dần dần, “với ân sủng của Chúa Thánh Thần, [đôi vợ chồng] lớn lên trong sự thánh thiện xuyên qua đời sống hôn nhân, cũng như bằng việc tham dự vào mầu nhiệm thập giá Đức Kitô, là mầu nhiệm có sức chuyển hóa những khó khăn và đau khổ thành một hiến lễ tình yêu”.[199] Hơn nữa, những khoảnh khắc của niềm vui, thư giãn, những dịp mừng, và ngay cả tình dục có thể được kinh nghiệm như một sự tham dự vào sự sống phục sinh viên mãn. Bằng những cử chỉ khác nhau trong đời sống hằng ngày, các đôi vợ chồng làm nên một “không gian được Thiên Chúa chiếu sáng, trong đó họ kinh nghiệm sự hiện diện giấu ẩn của Chúa phục sinh”.[200]
  1.  Việc cầu nguyện trong gia đình là một cách thức đặc biệt để diễn tả và củng cố đức tin ‘vượt qua’ ấy.[201] Có thể tìm ra vài phút mỗi ngày để qui tụ với nhau trước Thiên Chúa hằng sống, kể với Ngài những lo lắng của chúng ta, xin Ngài nhìn đến những nhu cầu của gia đình, cầu nguyện cho một ai đó đang gặp khó khăn, xin Ngài trợ giúp ta diễn tả tình yêu, tạ ơn về hồng ân sự sống và về bao ơn lành khác, và cầu xin Đức Mẹ che chở chúng ta dưới tà áo Mẹ. Chỉ với một ít lời đơn sơ như thế, khoảnh khắc cầu nguyện này có thể đem lại điều tốt lành lớn lao cho gia đình chúng ta. Những diễn tả khác nhau của lòng đạo đức bình dân là một kho tàng linh đạo cho nhiều gia đình. Hành trình cầu nguyện chung của gia đình đạt tới đỉnh điểm nơi việc cùng nhau chia sẻ Thánh Thể, nhất là trong khung cảnh ngày lễ nghỉ Chúa Nhật. Đức Giêsu gõ cửa các gia đình, chia sẻ với họ bữa tiệc Thánh Thể (x. Kh 3,20). Ở đó, vợ chồng luôn luôn có thể ký kết lại giao ước Vượt Qua, là giao ước đã kết hợp họ, và là giao ước phải phản ảnh giao ước mà Thiên Chúa ký kết với nhân loại trên thập giá.[202] Thánh Thể là bí tích của giao ước mới, ở đó công trình cứu chuộc của Đức Kitô được thực hiện (x. Lc 22,20). Mối liên kết chặt chẽ giữa đời sống hôn nhân và Thánh Thể, vì thế, trở nên càng rõ hơn.[203] Vì lương thực Thánh Thể cung cấp cho đôi vợ chồng sức mạnh và động lực cần thiết để sống giao ước hôn nhân mỗi ngày như một “Giáo Hội tại gia”.[204]

MỘT LINH ĐẠO CỦA

TÌNH YÊU TỰ DO VÀ ĐỘC HỮU

  1.  Hôn nhân cũng là kinh nghiệm hoàn toàn thuộc về một người khác. Vợ chồng chấp nhận sự thách đố và khát vọng nâng đỡ nhau, sống cùng nhau cho đến răng long đầu bạc, và bằng cách này họ phản ảnh lòng trung thành của chính Thiên Chúa. Cái quyết định dứt khoát ấy, vốn định hình một lối sống, là một “đòi hỏi thâm sâu của giao ước tình yêu phu phụ”,[205] vì “một người không thể quyết định yêu mãi mãi thì khó có thể yêu dù chỉ một ngày”.[206] Đồng thời, sự trung thành như thế có thể chẳng có ý nghĩa gì về mặt thiêng liêng, nếu nó chỉ đơn thuần là vấn đề tuân giữ luật với thái độ cam chịu. Đúng hơn, đây là chuyện của trái tim, một trái tim chỉ có Thiên Chúa nhìn thấu (x. Mt 5,28). Mỗi sáng khi thức dậy, chúng ta xác nhận lại trước mặt Chúa quyết định trung thành của mình, dù cho điều gì sẽ xảy ra trong ngày đi nữa. Và tất cả chúng ta, mỗi tối trước khi ngủ, ta hy vọng sẽ thức dậy và tiếp tục chuyến phiêu lưu này, tín thác vào sự giúp đỡ của Chúa. Bằng cách này, giữa vợ chồng, người này đối với người kia sẽ như một dấu hiệu và khí cụ của sự gần gũi của Chúa, Đấng không bao giờ ruồng bỏ chúng ta: “Này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
  1.  Sẽ đến một lúc mà tình yêu vợ chồng đạt tới đỉnh cao của sự tự do và trở thành nền móng cho một sự tự trị lành mạnh. Điều này xảy ra khi người này nhận ra rằng người kia không thuộc về riêng mình, mà có một chủ nhân quan trọng hơn nhiều, đó là Chúa. Không ai ngoài Thiên Chúa có thể chiếm được cái trung tâm sâu thẳm nhất và thầm kín nhất của người mình yêu; chỉ có Chúa mới là tâm điểm tối hậu của cuộc đời mỗi người. Đồng thời, nguyên tắc hiện thực tâm linh yêu cầu rằng người này đừng nghĩ người kia có thể hoàn toàn thỏa mãn các nhu cầu của mình. Hành trình tâm linh của mỗi người – như Dietrich Bonhoeffer đã diễn tả rất hay – cần giúp mình đạt được một sự “vỡ mộng” nào đó trong liên quan tới người kia,[207] để ngừng kỳ vọng từ người kia một điều gì đó vốn thuộc riêng của tình yêu Thiên Chúa mà thôi. Điều này đòi hỏi một sự thanh lý nội tâm. Cái không gian mà mỗi người trong đôi vợ chồng dành riêng cho mối tương quan cá vị với Thiên Chúa không chỉ giúp chữa lành các tổn thương của đời sống chung, mà còn giúp cho họ tìm thấy trong tình yêu của Thiên Chúa nguồn ý nghĩa sâu xa nhất của đời sống mình. Mỗi ngày chúng ta phải cầu xin sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần để có thể đạt được sự tự do bên trong này.

MỘT LINH ĐẠO QUAN TÂM,

AN ỦI VÀ KHÍCH LỆ

  1.  “Các đôi vợ chồng Kitô hữu là những cộng tác viên của ân sủng và là những chứng nhân đức tin – cho nhau, cho con cái, và cho bà con họ hàng mình”.[208] Thiên Chúa mời gọi họ trao tặng sự sống và chăm sóc sự sống. Do đó, gia đình “bao giờ cũng là ‘bệnh viện’ gần nhất”.[209] Vì thế, chúng ta hãy quan tâm chăm sóc nhau, hướng dẫn và khích lệ nhau, và hãy kinh nghiệm điều này như một phần của linh đạo gia đình chúng ta. Đời sống làm vợ làm chồng là một sự tham dự hằng ngày vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và mỗi người – đối với người kia – là một sự gợi ý thường xuyên từ Chúa Thánh Thần. Tình yêu của Thiên Chúa được công bố “xuyên qua lời sống động và cụ thể nhờ đó hai người diễn tả tình yêu phu phụ của mình”.[210] Vì thế hai người là sự phản ảnh cho nhau của tình yêu thần linh ấy, tình yêu có sức an ủi bằng một lời nói, một ánh nhìn, một bàn tay giúp đỡ, một vuốt ve, một ôm siết. Do đó, “ý muốn xây dựng một gia đình chính là quyết tâm trở thành một phần giấc mơ của Thiên Chúa, là chọn mơ với Ngài, là muốn xây dựng với Ngài, là tham gia với Ngài trong công cuộc xây dựng một thế giới mà ở đó không ai cảm thấy cô đơn”.[211]
  1.  Tất cả đời sống gia đình là một “công cuộc chăn chiên” trong lòng thương xót. Mỗi chúng ta, bằng tình yêu và sự quan tâm của mình, đều để lại một dấu vết trên cuộc đời của những người khác; cùng với Thánh Phaolô, chúng ta có thể nói: “Thư giới thiệu chúng tôi chính là anh em, thư ấy được viết trong tâm hồn anh em… không phải viết bằng mực, nhưng viết bằng Thánh Thần của Thiên Chúa hằng sống” (2Cr 3,2-3). Mỗi chúng ta là một “ngư phủ chài lưới người” (Lc 5,10), nhân danh Đức Giêsu chúng ta “thả lưới” (x. Lc 5,5), hay là một người nông dân canh tác mảnh đất của những người mà mình yêu thương, tìm cách đem lại những gì tốt nhất trong họ. Hoa trái của hôn nhân gắn với việc giúp người khác, vì “yêu ai là kỳ vọng từ người ấy một cái gì đó không xác định được và cũng không thể thấy trước được; đồng thời đó cũng là – bằng cách nào đó – làm cho người ấy có thể đáp ứng sự kỳ vọng này”.[212] Đó đúng là một cách để thờ phượng Thiên Chúa, Đấng đã gieo rất nhiều điều tốt lành nơi người khác trong hy vọng rằng chúng ta sẽ giúp làm cho triển nở.
  1. Thật là một kinh nghiệm tâm linh thâm sâu việc nhìn những người mà ta yêu thương với đôi mắt của Thiên Chúa và nhìn thấy Đức Kitô nơi họ. Điều này đòi hỏi một sự tự do và sự cởi mở có sức giúp chúng ta trân trọng phẩm giá của họ. Chúng ta chỉ có thể hiện diện trọn vẹn với một người bằng cách hiến mình hoàn toàn và quên đi mọi chuyện khác. Những người mà ta yêu thương xứng đáng nhận được sự quan tâm đầy đủ của ta. Đức Giêsu là mẫu gương về điều này, vì bất cứ khi nào người ta đến nói chuyện với Người, Người nhìn chăm chú vào mắt họ, nhìn trực tiếp, và đầy yêu thương (x. Mc 10,21). Không ai cảm thấy mình bị thờ ơ trong sự hiện diện của Người, vì những lời nói và cử chỉ của Người chất chứa câu hỏi này: “Bạn muốn tôi làm gì cho bạn?” (Mc 10,51). Đây là điều chúng ta kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày của gia đình. Chúng ta thường xuyên được nhắc nhở rằng mỗi người sống bên ta đều xứng đáng được ta lưu tâm cách tận tình, vì họ có phẩm giá vô hạn trong tư cách là đối tượng của tình yêu khôn thấu của Chúa Cha. Điều này sẽ giúp ta có được sự dịu hiền vốn có thể “khơi lên trong lòng người khác niềm vui thấy mình được yêu thương. Sự dịu hiền được diễn tả một cách đặc biệt qua việc ân cần quan tâm khi đứng trước những hạn chế của người khác, nhất là khi chúng được thấy rõ ràng.”[213]
  1.  Được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, gia đình không chỉ mở ra đón nhận sự sống bằng cách sinh sản trong phạm vi gia đình, nhưng còn bằng cách đi ra và lan tỏa sự sống qua việc chăm sóc người khác và tìm kiếm hạnh phúc cho họ. Sự mở ra này được thể hiện đặc biệt nơi lòng hiếu khách,[214] như Lời Chúa hùng hồn khích lệ: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Khi một gia đình có tấm lòng rộng mở và hướng ra tới những người khác, nhất là người nghèo và người bị bỏ rơi, thì đó là “một dấu hiệu, một chứng tá và là sự tham dự vào thiên chức làm mẹ của Giáo Hội”.[215] Tình yêu cộng đồng, như một phản ảnh về Chúa Ba Ngôi, là cái thực sự hợp nhất ý nghĩa thiêng liêng của gia đình và sứ mạng hướng ra người khác, vì nó làm cho bài giảng tiên khởi (kerygma) có mặt, trong tất cả những đòi hỏi mang tính cộng đồng của nó. Gia đình sống linh đạo của mình qua việc đồng thời vừa là một Giáo Hội tại gia, vừa là một tế bào sống động giúp biến đổi thế giới.[216]

* * *

  1. Không phải tình cờ mà lời dạy của Tôn sư Giêsu (x. Mt 22,30) và của Thánh Phaolô (x. 1Cr 7,29-31) về hôn nhân được đặt trong bối cảnh chiều kích tối hậu và dứt khoát của hiện sinh con người chúng ta. Chúng ta cần khám phá lại sự phong phú của giáo huấn này. Chăm chú lắng nghe giáo huấn ấy, các đôi vợ chồng sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa hơn của hành trình đời sống của mình. Như Tông Huấn này đã thường ghi nhận, không gia đình nào hoàn hảo ngay lập tức như thể từ trên trời rớt xuống; các gia đình cần không ngừng lớn lên và trưởng thành trong khả năng yêu thương. Đây là một ơn gọi không bao giờ hoàn tất, phát xuất từ mối hiệp thông trọn vẹn của Chúa Ba Ngôi, từ mối kết hợp thâm sâu giữa Đức Kitô và Giáo Hội, từ cộng đoàn yêu thương là Thánh Gia Nadarét, và từ mối hiệp thông tinh thuần giữa các thánh trên thiên quốc. Việc chiêm ngắm sự thành toàn mà mình chưa đạt tới cũng giúp chúng ta biết nhìn – với cái nhìn đúng đắn – cuộc hành trình lịch sử mà mình thực hiện trong tư cách là gia đình, và bằng cách này chúng ta không còn đòi hỏi các mối tương quan liên vị của chúng ta phải hoàn thiện, phải tinh thuần trong các ý hướng, và phải nhất quán – điều mà ta chỉ gặp thấy trong Nước Trời mai sau. Chúng ta cũng sẽ được cảnh giác để không khắc nghiệt xét đoán những ai sống trong các hoàn cảnh chênh vênh. Tất cả chúng ta được mời gọi để tiếp tục phấn đấu hướng đến một cái gì đó lớn lao hơn chính chúng ta và gia đình chúng ta, và mọi gia đình phải thường xuyên cảm thấy được sự thúc đẩy này. Chúng ta hãy thực hiện cuộc hành trình này trong tư cách là gia đình, chúng ta hãy tiến bước cùng với nhau. Điều mà chúng ta được hứa thì cao trọng hơn điều mà chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì chúng ta không bao giờ ngã lòng vì những giới hạn của mình, cũng không bao giờ ngừng tìm kiếm sự viên mãn của tình yêu và hiệp thông mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta.

Lời cầu nguyện với Thánh Gia, Giêsu, Maria và Giuse

Lạy Thánh Gia,

nơi các Ngài chúng con chiêm ngắm

vẻ rạng ngời của tình yêu đích thực;

chúng con tin tưởng hướng về các Ngài.

Lạy Thánh Gia Nadarét,

xin làm cho các gia đình chúng con

cũng trở thành nơi chốn của hiệp thông và cầu nguyện,

trở thành những trường học đích thực của Tin Mừng

và những Hội Thánh tại gia nhỏ bé.

Lạy Thánh Gia Nadarét,

xin cho các gia đình đừng xảy ra bạo lực,

đừng loại trừ và chia rẽ nữa;

xin cho tất cả những ai bị tổn thương hay bị xúc phạm

tìm được sự an ủi và chữa trị.

Lạy Thánh Gia Nadarét,

xin làm cho chúng con

biết ý thức lại về tính thiêng thánh

và tính bất khả xâm phạm của gia đình,

cũng như vẻ đẹp của gia đình

trong chương trình của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse,

xin thương nghe lời chúng con khẩn cầu. Amen.

Tại Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót,

ngày 19 tháng 3, lễ trọng Thánh Giuse, năm 2016,

năm thứ tư triều giáo hoàng của tôi.

PHANXICÔ

MỤC LỤC

Dẫn nhập [1-7]

CHƯƠNG MỘT: TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA [8-30]

 – NGƯƠI VÀ VỢ NGƯƠI [9-13]

– CON CÁI BẠN NHƯ NHỮNG CHỒI Ô-LIU [14-18]

– MỘT NẺO ĐƯỜNG ĐAU KHỔ VÀ ĐẪM MÁU [19-22]

– CÔNG KHÓ TAY BẠN LÀM RA [23-26]

– SỰ DỊU HIỀN CỦA VÒNG TAY ÔM [27-30]

CHƯƠNG HAI: NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA GIA ĐÌNH [31-57]

– THỰC TẾ HIỆN NAY CỦA GIA ĐÌNH [32-

– MỘT SỐ THÁCH ĐỐ [50-57]

CHƯƠNG BA: HƯỚNG NHÌN ĐỨC GIÊSU: ƠN GỌI CỦA GIA ĐÌNH [58-88]

 – ĐỨC GIÊSU KHÔI PHỤC VÀ HOÀN THÀNH

CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA [61-66]

– GIA ĐÌNH TRONG CÁC VĂN KIỆN CỦA GIÁO HỘI [67-70]

– BÍ TÍCH HÔN PHỐI [71-75]

– HẠT GIỐNG CỦA LỜI VÀ NHỮNG HOÀN CẢNH BẤT TOÀN [76-79]

– THÔNG TRUYỀN SỰ SỐNG VÀ NUÔI DẠY CON CÁI [80-85]

– GIA ĐÌNH VÀ GIÁO HỘI [86-88]

CHƯƠNG BỐN: TÌNH YÊU TRONG HÔN NHÂN [89-164]

 – TÌNH YÊU HẰNG NGÀY CỦA CHÚNG TA [90-119]

Yêu thì nhẫn nhục [91-92]

Yêu là phục vụ người khác [93-94]

Yêu thì không ghen tương [95-96]  

Yêu thì không vênh vang [97-98]

Yêu thì không thô lỗ [99-100]

Yêu thì quảng đại [101-102]

Yêu thì không nóng giận, không nuôi hận thù [103-104]

Tình yêu tha thứ [105-108]

Yêu thì vui với người khác [109-110]

Tình yêu bao dung tất cả [111-113]

Tình yêu tin tưởng tất cả [114-115]

Tình yêu hy vọng tất cả [116-117]

Tình yêu chịu đựng tất cả [118-119]

– LỚN LÊN TRONG TÌNH YÊU PHU PHỤ [120-162]

Chia sẻ suốt đời [123-125]

Niềm vui và vẻ đẹp [126-130]

Kết hôn vì tình yêu [131-132]

Một tình yêu tự biểu lộ và tăng trưởng [133-135]  

Đối thoại [136-141]

Tình yêu đam mê [142]

Thế giới xúc cảm [143-146]

Thiên Chúa yêu thích niềm vui của con cái Ngài [147-149]

Chiều kích nhục cảm của tình yêu [150-152]

Bạo lực và lệch lạc [153-157]

Hôn nhân và trinh khiết [158-162]  

– SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TÌNH YÊU [163-164]

CHƯƠNG NĂM: LÀM CHO TÌNH YÊU SINH HOA KẾT QUẢ [165-198]

 – ĐÓN NHẬN MỘT SỰ SỐNG MỚI [166-186]

Tình yêu và việc mang thai [168-171]

Tình yêu của người mẹ và người cha [172-184]

Phân định thân thể [của Chúa] [185-186]

– ĐỜI SỐNG TRONG GIA ĐÌNH RỘNG LỚN [187-198]

Phận làm con [188-190]

Những người cao tuổi [191-193]

Là anh chị em [194-195]

Một trái tim lớn [196-198]

CHƯƠNG SÁU: MỘT SỐ NHÃN GIỚI MỤC VỤ [199-258]

– LOAN BÁO TIN MỪNG VỀ GIA ĐÌNH HÔM NAY [200-204]

– CHUẨN BỊ HÔN NHÂN CHO CÁC ĐÔI BẠN ĐÍNH HÔN [205-216]

Chuẩn bị cử hành hôn lễ [212-216]

– ĐỒNG HÀNH VỚI NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA ĐỜI

SỐNG HÔN NHÂN [217-230]

Các phương thế [223-230]

– SOI SÁNG NHỮNG KHỦNG HOẢNG, LO LẮNG

VÀ KHÓ KHĂN [231-252]

Thách đố của khủng hoảng [232-238]

Những vết thương cũ [239-240]

Đồng hành sau khi đổ vỡ và ly dị [241-246]

Một số hoàn cảnh phức tạp [247-252]

– KHI CÁI CHẾT LÀM CHÚNG TA CẢM NHẬN NỖI ĐAU [253-258]

CHƯƠNG BẢY: ĐỂ GIÁO DỤC CON CÁI TỐT HƠN [259-290]

– CON CÁI CỦA CHÚNG TA ĐANG Ở ĐÂU? [260-262]

– DẠY ĐẠO ĐỨC CHO CON CÁI [263-267]

– GIÁ TRỊ CỦA SỰ SỬA SAI NHƯ MỘT CÁCH KHÍCH LỆ [268-270]

– THỰC TIỄN MỘT CÁCH KIÊN NHẪN [271-273]

– ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH NHƯ MỘT KHUNG CẢNH GIÁO DỤC [274-279]

– CẦN CÓ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH [280-286]

– CHUYỂN THÔNG ĐỨC TIN [287-290]

CHƯƠNG TÁM: ĐỒNG HÀNH, PHÂN ĐỊNH, VÀ HỘI NHẬP SỰ YẾU ĐUỐI [291-312]

– TÍNH TIỆM TIẾN TRONG SĂN SÓC MỤC VỤ [293-295]

– PHÂN ĐỊNH NHỮNG HOÀN CẢNH “BẤT THƯỜNG” [296-300]

– NHỮNG YẾU TỐ GIẢM NHẸ TRONG PHÂN ĐỊNH MỤC VỤ [301-303]

– CÁC QUI TẮC VÀ SỰ PHÂN ĐỊNH [304-306]

– LÔ-GÍC CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG MỤC VỤ [307-312]

CHƯƠNG CHÍN: LINH ĐẠO HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH [313-325]

– MỘT LINH ĐẠO HIỆP THÔNG SIÊU NHIÊN [314-316]

– SUM HỌP CẦU NGUYỆN TRONG ÁNH SÁNG PHỤC SINH [317-318]

– MỘT LINH ĐẠO CỦA TÌNH YÊU TỰ DO VÀ ĐỘC HỮU [319-320]

– MỘT LINH ĐẠO QUAN TÂM, AN ỦI VÀ KHÍCH LỆ [321-324]

———————————————

[1] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 14: AAS 74 (1982), 96.

[2] Bài giáo lý (11.02.2015): L’Osservatore Romano, 12.02.2015, tr. 8.

[3] Ibid.

[4] Bài giáo lý (8.4.2015): L’Osservatore Romano, 9.4.2015, tr. 8.

[5] Ibid.

[6] Cf. VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 51: “Tất cả chúng ta hãy xác tín rằng sự sống con người và sự chuyển thông nó là những thực tại mà ý nghĩa của chúng không bị giới hạn bởi những chân trời của chỉ đời sống này: giá trị đích thực và ý nghĩa đầy đủ của chúng chỉ có thể được hiểu trong qui chiếu đến vận mệnh vĩnh cửu của chúng ta”.

[7] Thư gửi Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc về Dân Số và Phát Triển (18 March 1994): Insegnamenti XVII/1 (1994), 750-751.

[8] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giáo lý (12.3.1980), 3: Insegnamenti III/1 (1980), 543.

[9] Ibid.

[10] Diễn từ tại Cuộc Gặp Gỡ các Gia Đình ở Manila (16.01.2015): AAS 107 (2015), 176.

[11] Bài giáo lý (11.02.2015): L’Osservatore Romano, 12.02.2015, tr. 8.

[12] Bài giáo lý (14.10.2015): L’Osservatore Romano, 15.10.2015, tr. 8.

[13] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC AUSTRALIA, Thư Mục Vụ Đừng Lộn Xộn với Hôn Nhân (24.11.2015), 13.

[14] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 50.

[15] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giáo lý (12.3.1980), 2: Insegnamenti III/1 (1980), 542.

[16] Cf. id., Tông Thư Mulieris Dignitatem (15.8.1988), 30-31: AAS 80 (1988), 1726-1729.

[17] Bài giáo lý (7.01.2015): L’Osservatore Romano, 7-8.01.2015, tr. 8.

[18] Ibid.

[19] Bài giáo lý (28.01.2015): L’Osservatore Romano, 29.01.2015, tr. 8.

[20] Ibid.

[21] Cf. Phúc trình chung kết 2015, 28.

[22] Bài giáo lý (4.02.2015), L’Osservatore Romano, 5.02.2015, tr. 8.

[23] Ibid.

[24] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 50.

[25] HỘI NGHỊ KHOÁNG ĐẠI LẦN THỨ NĂM HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC MỸ LA TINH VÀ VÙNG CA-RI-BÊ, Aparecida Document (29.6.2007), No. 457.

[26] Phúc trình chung kết 2015, 65.

[27] Ibid.

[28] Diễn từ tại Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình ở Manila (16.01.2015): AAS 107 (2015), 178.

[29] MARIO BENEDETTI, “Te Quiero”, trong Poemas de otros, Buenos Aires 1993, 316: ““Tus manos son mi caricia / mis acordes cotidianos / te quiero porque tus manos / trabajan por la justicia. // Si te quiero es porque sos / mi amor mi cómplice y todo / y en la calle codo a codo / somos mucho más que dos.

[30] Cf. Bài giáo lý (16.9.2015): L’Osservatore Romano, 17.9.2015, tr. 8.

[31] Bài giáo lý (7.10.2015): L’Osservatore Romano, 9.10.2015, tr. 8.

[32] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 14: AAS 98 (2006), 228.

[33] Cf. Phúc trình chung kết 2015, 11.

[34] Bài giáo lý (18.3.2015): L’Osservatore Romano, 19.3.2015, tr. 8.

[35] Bài giáo lý (11.01.2015): L’Osservatore Romano, 12.02.2015, tr. 8.

[36] Cf. Phúc trình chung kết 2015, 17-18.

[37] Bài giáo lý (4.3.2015): L’Osservatore Romano, 5.3.2015, tr. 8.

[38] Bài giáo lý (11.3.2015): L’Osservatore Romano, 12 .3.2015, tr. 8.

[39] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), AAS 74 (1982), 113.

[40] ID., Diễn từ cho các Tham Dự Viên tại “Diễn đàn Quốc tế về Tuổi Già Năng Động” (5.9.1980), 5: Insegnamenti III/2 (1980), 539.

[41] Phúc trình chung kết 2015, 18.

[42] Bài giáo lý (4.3.2015): L’Osservatore Romano, 5.3.2015, tr. 8.

[43] Ibid.

[44] Diễn từ tại Đại hội Người Cao Tuổi (28.9.2014): L’Osservatore Romano, 29-30.9.2014, tr. 7.

[45] Bài giáo lý (18.02.2015): L’Osservatore Romano, 19.01.2015, tr. 8.

[46] Ibid.

[47] Ibid.

[48] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 18: AAS 74 (1982), 101.

[49] Bài giáo lý (7.10.2015): L’Osservatore Romano, 8.10.2015), tr. 8.

[50] Phúc trình THĐ. 2014, 30.

[51] Ibid., 31.

[52] Phúc trình chung kết 2015, 56.

[53] Ibid., 89.

[54] Phúc trình THĐ. 2014, 32.

[55] Ibid., 33.

[56] Ibid., 38.

[57] Phúc trình chung kết 2015, 77.

[58] Ibid., 61.

[59] Ibid.

[60] Ibid.

[61] Ibid.

[62] Cf. Phúc trình THĐ. 2014, 26.

[63] Ibid., 39.

[64] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ITALIA, Ủy Ban Giám Mục về Gia Đình và Sự Sống, Orientamenti pastorali sulla preparazione al matrimonio e alla famiglia (22.10.2012), 1.

[65] INHAXIÔ LÔYÔLA, Linh Thao, Chú thích 2.

[66] Ibid., Chú thích 5.

[67] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giáo lý (27.6.1984), 4: Insegnamenti VII/1 (1984), 1941.

[68] Bài giáo lý (21.10.2015): L’Osservatore Romano, 22.10.2015, tr. 12.

[69] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO KÊNYA, Sứ Điệp Mùa Chay (18.02.2015).

[70] Cf. PIÔ XI, Thông Điệp Casti Connubii (31.12.1930): AAS 22 (1930), 583.

[71] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giáo lý (4.7.1984), 3, 6: Insegnamenti VII/2 (1984), tr. 9, 10.

[72] Phúc trình chung kết 2015, 59.

[73] Ibid., 63.

[74] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 50.

[75] Phúc trình chung kết 2015, 63.

[76] Phúc trình THĐ. 2014, 40.

[77] Ibid., 34.

[78] Khúc Linh Ca B, XXV, 11.

[79] Phúc trình THĐ. 2014, 44.

[80] Phúc trình chung kết 2015, 81.

[81] Ibid., 78.

[82] Bài giáo lý (24.6.2015): L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr. 8.

[83] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 83: AAS 74 (1982), 184.

[84] Phúc trình THĐ. 2014, 47.

[85] Ibid., 50.

[86] Bài giáo lý (5.8.2015): L’Osservatore Romano, 6.8.2015, tr. 7.

[87] Phúc trình THĐ. 2014, 51; cf. Phúc trình chung kết 2015, 84.

[88] Ibid., 48.

[89] Tự Sắc Mitis Iudex Dominus Iesus (15.8.2015): L’Osservatore Romano, 9.9.2015, tr. 3-4; cf. Tự Sắc Mitis et Misericors Iesus (15.8.2015): L’Osservatore Romano, 9.9.2015, tr. 5-6.

[90] Tự Sắc Mitis Iudex Dominus Iesus (15.8.2015), Lời nói đầu, III: L’Osservatore Romano, 9.9.2015, tr. 3.

[91] Phúc trình chung kết 2015, 82.

[92] Phúc trình THĐ. 2014, 47.

[93] Bài giáo lý (20.5.2015): L‘Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.

[94] Bài giáo lý (24.6.2015): L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr. 8.

[95] Bài giáo lý (5.8.2015): L’Osservatore Romano, 6.8.2015, tr. 7.

[96] Phúc trình chung kết 2015, 72.

[97] Ibid., 73.

[98] Ibid., 74.

[99] Ibid., 75.

[100] Cf. Tông Sắc Misericordiae Vultus, 12: AAS 107 (2015), 407.

[101] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 2358; cf. Phúc trình chung kết 2015, 76.

[102] Ibid.

[103] Phúc trình chung kết 2015, 76; cf. THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Những xem xét liên quan đến các đề nghị trao sự nhìn nhận hợp pháp cho những cuộc kết hợp đồng tính (3.6.2003), 4.

[104] Ibid., 80.

[105] Cf. ibid., 20.

[106] Bài giáo lý (17.6.2015): L’Osservatore Romano, 18.6.2015, tr. 8.

[107] Phúc trình chung kết 2015, 19.

[108] Bài giáo lý (17.6.2015): L’Osservatore Romano, 18.6.2015, tr. 8.

[109] Ibid.

[110] Cf. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 958.

[111] Ibid.

[112] Cf. TÊRÊSA LISIEUX, Những cuộc chuyện cuối cùng: Cuốn “sổ màu vàng” của Mẹ Agnès, 17.7.1897, trong Toàn Tập, Paris, 1996, 1050. Các chị em Cát minh của Thánh nữ nói về một lời hứa của Têrêsa rằng sự kiện từ trần của ngài “giống như cơn mưa hoa hồng” (ibid., 9.6.1897, 1013).

[113] JORDAN OF SAXONY, Libellus de principiis Ordinis Praedicatorum, 93: Monumenta Historica Sancti Patris Nostri Dominici, XVI, Rome, 1935, p. 69.

[114] Cf. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 957.

[115] VATICAN II, Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 49.

[116] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 222: AAS 105 (2013), 1111.

[117] Bài giáo lý (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.

[118] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et Spes, 17.

[119] Bài giáo lý (30.9.2015): L’Osservatore Romano, 1.10.2015, tr. 8.

[120] Bài giáo lý (10.6.2015): L’Osservatore Romano, 11.6.2015, tr. 8.

[121] Cf. Phúc trình chung kết 2015, 67.

[122] Bài giáo lý (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.

[123] Bài giáo lý (9.9.2015): L’Osservatore Romano, 10.9.2015, tr. 8.

[124] Phúc trình chung kết 2015, 68.

[125] Ibid., 58.

[126] VATICAN II, Tuyên Ngôn về Giáo Dục Công Giáo Gravissimum Educationis, 1.

[127] Phúc trình chung kết 2015, 56.

[128] ERICH FROMM, Nghệ thuật Yêu thương, New York, 1956, tr. 54.

[129] Thông Điệp Laudato Si’ (24.5.2015), 155.

[130] Bài giáo lý (15.4.2015): L’Osservatore Romano, 16.4.2015, tr. 8.

[131] Cf. Phúc trình chung kết 2015, 13-14.

[132] AUGUSTINÔ, De sancta virginitate 7,7: PL 40, 400.

[133] Bài giáo lý (26.8.2015): L’Osservatore Romano, 27.8.2015, tr. 8.

[134] Phúc trình chung kết 2015, 89.

[135] Ibid., 93.

[136] Phúc trình THĐ. 2014, 24.

[137] Ibid., 25.

[138] Ibid., 28.

[139] Cf. ibid., 41, 43; Phúc trình chung kết 2015, 70.

[140] Ibid., 27.

[141] Ibid., 26.

[142] Ibid., 41.

[143] Ibid.

[144] Phúc trình chung kết 2015, 71.

[145] Cf. ibid.

[146] Phúc trình THĐ. 2014, 42.

[147] Ibid., 43.

[148] Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981) ), 34: AAS 74 (1982), 123.

[149] Ibid., 9: AAS 74 (1982), 90.

[150] Cf. Bài giáo lý (24.6.2015): L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr. 8.

[151] Bài giảng Thánh Lễ cử hành với các Hồng y mới (15.2.2015): AAS 107 (2015), 257.

[152] Phúc trình chung kết 2015, 51.

[153] Phúc trình THĐ. 2014, 25.

[154] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 84: AAS 74 (1982), 186. Trong những trường hợp như thế, nhiều người, biết và chấp nhận khả năng sống “như anh chị em” mà Giáo hội đề nghị, chỉ ra rằng nếu thiếu đi một số sự diễn tả mật thiết, “thì sự trung thành thường bị lâm nguy và thiện ích của con cái bị ảnh hưởng” (VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Hôm Nay Gaudium et Spes, 51).

[155] Ibid.

[156] Phúc trình THĐ. 2014, 26.

[157] Ibid., 45.

[158] BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ tại Đại hội Các Gia Đình Thế Giới Lần Thứ Bảy ở Milan (2.6.2012), Câu trả lời số 5: Insegnamenti VIII/1 (2012), 691.

[159] Phúc trình chung kết 2015, 84.

[160] Ibid., 51.

[161] Đây cũng là trường hợp liên quan tới kỷ luật bí tích, vì sự phân định có thể nhận ra rằng trong một hoàn cảnh riêng, không có tồn tại lỗi phạm nặng nề nào. Trong những trường hợp như thế, sẽ áp dụng điều được nói trong một văn kiện khác: cf. Evangelii Gaudium (24.11.2013), 44 và 47: AAS 105 (2013), 1038-1040.

[162] Phúc trình chung kết 2015, 85.

[163] Ibid., 86.

[164] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 33: AAS 74 (1982), 121.

[165] Phúc trình chung kết 2015, 51.

[166] Cf. Summa Theologiae I-II, q. 65, art. 3 ad 2; De Malo, q. 2, art. 2.

[167] Ibid., ad 3.

[168] Số 1735.

[169] Ibid., 2352; THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên Ngôn về Cái Chết Êm Dịu (5.5.1980), II: AAS 72 (1980), 546; Gioan Phaolô II, khi phê bình về phạm trù “sự chọn lựa nền tảng”, đã nhìn nhận rằng “chắc chắn có thể xảy ra những trường hợp rất phức tạp và mập mờ từ một quan điểm tâm lý học, và những trường hợp ấy có một ảnh hưởng trên mức tội chủ quan của người ta” (Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia [2.12.1984], 17: AAS 77 [1985], 223).

[170] X. HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÁC BẢN VĂN LUẬT, Tuyên Bố về việc Đón nhận các tín hữu ly dị và tái hôn vào rước lễ (24.6.2000), 2.

[171] Phúc trình chung kết 2015, 85.

[172] Summa Theologiae, I-II, q. 94, art. 4.

[173] Trong một bản văn khác, qui chiếu đến sự hiểu biết tổng quát về qui tắc và sự hiểu biết đặc biệt của việc phân định thực tế, Thánh Tôma tuyên bố rằng “ước gì có tồn tại một trong hai sự hiểu biết ấy, và sẽ tốt hơn nếu đó là sự hiểu biết về tình trạng cụ thể, bởi nó gần với thực tế”: Sententia libri Ethicorum, VI, 6 (ed. Leonina, t. XLVII, 354.)

[174] Diễn từ Bế mạc Phiên Họp Khoáng Đại Thường Kỳ Thứ Mười Bốn của Thương Hội Đồng Giám Mục (24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015, tr. 13.

[175] ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Tìm Kiếm Một Nền Đạo Đức Phổ Quát: Một Cái Nhìn Mới Về Luật Tự Nhiên (2009), 59.

[176] Trong một số trường hợp, điều này có thể bao gồm sự trợ giúp về các bí tích. Vì thế, “tôi muốn nhắc các linh mục rằng tòa giải tội không phải là một buồng tra tấn, nhưng đúng hơn là một cuộc gặp gỡ với lòng thương xót của Chúa” (Tông Huấn Evangelii Gaudium [24.11.2013], 44: AAS 105 [2013], 1038). Tôi cũng muốn chỉ ra rằng Bí tích Thánh Thể không phải là một phần thuởng cho người hoàn hảo, nhưng là phương dược đầy hiệu năng và là dưỡng chất cho người yếu đuối” (ibid., 47: 1039).

[177] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 44: AAS 105 (2013), 1038-1039.

[178] De Catechizandis Rudibus, I, 14, 22: PL 40, 327; cf. Tông Huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 194: AAS 105 (2013), 1101.

[179] Phúc trình THĐ. 2014, 26.

[180] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 44: AAS 105 (2013), 1038.

[181] Ibid., 45.

[182] Ibid., 270.

[183] Tông Sắc Misericordiae Vultus (11.4.2015), 12: AAS 107 (2015): 407.

[184] Ibid., 5: 402.

[185] Ibid., 9: 405.

[186] Ibid., 10: 406.

[187] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 47: AAS 105 (2013), 1040.

[188] Cf. ibid., 36-37: AAS 105 (2013), 1035.

[189] Có lẽ do một sự ngần ngại nào đó, được che đậy bởi nhiệt tâm trung thành với sự thật, một số linh mục đòi hỏi các hối nhân một quyết tâm sửa chữa rất thiếu tế nhị, đến nỗi làm cho lòng thương xót bị che mờ bởi sự theo đuổi một công lý được coi là thuần túy. Vì thế, sẽ hữu ích việc nhắc lại giáo huấn của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi ngài tuyên bố rằng khả năng của một sự sa ngã mới “không nên làm người ta nghi ngờ sự chân thực của lòng quyết tâm” (Thư gửi Hồng y William W. Baum dịp tổ chức khóa về Tòa Trong [22.3.1996], 5: Insegnamenti XIX/1 [1996], 589).

[190] ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Hy Vọng Ơn Cứu Độ Cho Những Trẻ Em Chết Mà Chưa Lãnh Phép Rửa (19.4.2007), 2.

[191] Tông Sắc Misericordiae Vultus (11.4.2015), 15: AAS 107 (2015), 409.

[192] Sắc Lệnh về Tông đồ Giáo dân Apostolicam Actuositatem, 4.

[193] X. ibid.

[194] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Hôm Nay, Gaudium et Spes, 49.

[195] Thông Điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 16: AAS 98 (2006), 230.

[196] Ibid., 39: AAS 98 (2006), 250.

[197] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Christifideles Laici (30.12.1988), 40: AAS 81 (1989), 468.

[198] Ibid.

[199] Phúc trình chung kết 2015, 87.

[200] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata (25.3.1996), 42: AAS 88 (1996), 416.

[201] Cf. Phúc trình chung kết 2015, 87.

[202] Cf. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 57: AAS 74 (1982), 150.

[203] Chúng ta cũng không được quên rằng giao ước của Thiên Chúa với dân Ngài được diễn tả như một hôn ước (cf. Ed 16,8. 60; Is 62,5; Hs 2,21-22), và rằng giao ước mới cũng được trình bày như một sự đính hôn (x. Kh 19,7; 21,2; Ep 5,25).

[204] VATICAN II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, Lumen Gentium, 11.

[205] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 11: AAS 74 (1982), 93.

[206] Id., Bài giảng trong Thánh Lễ với Các Gia Đình, Cordoba, Argentina (8.4.1987), 4: Insegnamenti X/1 (1987), 1161-1162.

[207] Cf. Gemeinsames Leben, Munich, 1973, tr. 18. Anh ngữ: Sống với nhau, New York, 1954, tr. 27.

[208] VATICAN II, Sắc Lệnh về Tông đồ Giáo dân Apostolicam Actuositatem, 11.

[209] Bài Giáo lý (10.6.2015): L’Osservatore Romano, 11.6.2015, tr. 8.

[210] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 12: AAS 74 (1982), 93.

[211] Diễn từ tại buổi Canh Thức Đại Hội Các Gia Đình, Philadelphia (26.9.2015): L’Osservatore Romano, 28-29.9.2015, tr. 6.

[212] GABRIEL MARCEL, Homo Viator: prolégomènes à une métaphysique de l’espérance, Paris, 1944, tr. 66. Anh ngữ: Homo Viator. Dẫn nhập vào một Siêu hình học về Hy Vọng, London, 1951, tr. 49.

[213] Phúc trình chung kết 2015, 88.

[214] Cf. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 44: AAS 74 (1982), 136.

[215] Ibid., 49: AAS 74 (1982), 141.

[216] Về những khía cạnh xã hội của gia đình, x. HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, 248-254.

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Ba 2024
H B T N S B C
« Th2    
  1 2 3
4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17
18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30 31