VÌ NƯỚC TRỜI: NHỮNG KHÁI NIỆM SUY TƯ VỀ VIỆC ĐÀO TẠO BẬC ĐỘC THÂN LINH MỤC

Written by xbvn on Tháng Mười Hai 4th, 2012. Posted in Hiến Pháp - Constitutions, Linh mục, Sách - livres, Sư phạm Xuân Bích - Pédagogie, Vì Nước Trời, Xuân Bích Thế Giới, Xuân Bích Việt Nam

VÌ NƯỚC TRỜI

NHỮNG KHÁI NIỆM SUY TƯ

VỀ VIỆC ĐÀO TẠO

BẬC ĐỘC THÂN LINH MỤC

MỘT ĐÓNG GÓP

CỦA HỘI XUÂN BÍCH

LỄ ĐỨC MẸ

DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ

HUẾ 21 – 11 – 2006

“VÌ NƯỚC TRỜI”

[Đây là tài liệu bằng Pháp văn

của Tổng Hội Đồng

ba Tỉnh Hội Xuân Bích:

Pháp – Hoa Kỳ – Canada,

do

Lm. Antôn Trần Minh Hiển pss. chuyển nghĩa]

VÌ NƯỚC TRỜI

NHỮNG KHÁI NIỆM SUY TƯ VỀ VIỆC ĐÀO TẠO BẬC ĐỘC THÂN LINH MỤC

MỘT ĐÓNG GÓP CỦA HỘI XUÂN BÍCH

1. Trong Phúc Âm thánh Matthêô (19, 10-12), Chúa Giêsu khi nói về những đòi hỏi của hôn nhân, đã gây phản ứng nơi các môn đệ của Ngài: “Nếu điều kiện của người chồng phải như thế đối với vợ thì thà đừng lấy vợ còn hơn”. Chúa Giêsu đã bắt chẹt họ bằng chính câu nói, Ngài trả lời: có những kẻ không thể kết hôn bởi vì bất lực từ bẩm sinh hoặc do một sự can thiệp của con người, nhưng cũng có những kẻ đã chọn không kết hôn vì Nước của Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu đã ám chỉ một điều thuộc về sự lựa chọn riêng của đời Ngài, và Ngài kêu mời những ai có khả năng và được ơn gọi hãy dấn thân bước theo Ngài.

Theo gương Chúa Kitô, thánh Phaolô khuyên nhủ những giáo dân của Corinthô (1 Co 7, 25-28) chưa kết hôn hãy ở độc thân để chờ đợi Nước Thiên Chúa đến. Như vậy ngài gán cho bậc độc thân sống trong khiết tịnh một giá trị tích cực.

Cả Chúa Giêsu lẫn thánh Phaolô không trình bày bậc độc thân như là một thực hành bắt buộc đối với các môn đệ. Nhưng cả hai đều nhìn nhận nó như một sự lựa chọn mang một ý nghĩa tích cực khi được thực hiện nhằm dấn thân cho việc trị đến của Nước Thiên Chúa trong thế giới này.

2. Kể từ Công đồng Latêranô I (1123), luật độc thân được áp dụng trong Giáo Hội Công Giáo đối với mọi linh mục theo lễ nghi la-tinh[1]. Nhưng luật đó đã cựu trào hơn thế nhiều trong đời sống của Giáo Hội. Người ta gặp thấy những vết tích rõ rệt ngay từ thế kỷ thứ IV. Từ vài thập niên qua, một xu hướng đã được phát động để đưa luật độc thân lên tận những nguồn gốc tông đồ. Chúng tôi không có lập trường trong việc bàn cãi này, bởi vì mục tiêu của tài liệu này có tính cách chính yếu là sư phạm. Cuộc tranh biện trên có kết quả thế nào đi nữa thì việc thực hành bậc độc thân giáo sĩ vẫn cựu trào. Nhưng những động lực của nó đã thay đổi nhiều qua các thời đại. Vì thế những tài liệu của Công đồng Vaticanô II không còn nhắc đến một vài luận cứ dựa trên sự “thích hợp” của bậc độc thân để thi hành chức vụ linh mục (ví dụ sự trong sạch trong nghi thức của những kẻ hiến dâng tại bàn thờ, hoặc luận cứ theo đó người ta chỉ có thể đạt tới sự trọn lành trong tình trạng độc thân)[2]. Nhưng những tài liệu này nhấn mạnh đến nhiều điểm khác trong truyền thống, đặc biệt là mối liên hệ chặt chẽ giữa sự độc thân sống trong khiết tịnh và đức bác ái mục vụ (Presbyterorum Ordinis, số 16). Từ Công đồng cuối này, Giáo Hội đã chứng kiến nhiều cuộc tranh luận về vấn đề này. Một số người đã cho rằng chẳng mấy hữu lý khi đòi buộc những người sẽ chịu chức linh mục phải sống bậc độc thân. Một vài người còn đi xa hơn nữa: họ đổ cho bậc độc thân phải chịu một phần trách nhiệm về cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục và những gương mù giới tính đã xảy ra tại nhiều nước tại Bắc Mỹ và Âu Châu.

3. Chính trong bối cảnh này mà Tổng Công Hội của Hội các Linh mục Xuân Bích năm 2002 đã yêu cầu Tổng Hội Đồng của cả ba Tỉnh Hội nghiên cứu vấn đề đào tạo bậc độc thân trong khung cảnh của bốn chiều kích đào tạo linh mục (nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ), như đã được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trình bày trong Tông Huấn “Pastores Dabo Vobis”. Tổng Hội Đồng của Hội đã luôn lưu ý đến việc phát động một sự suy tư thường xuyên về vấn đề này, trong mọi cơ sở đào tạo linh mục của chúng tôi. Cũng chính trong mục đích này mà Tổng Hội Đồng của Hội đã nhóm họp lại Montréal vào tháng 7 năm 2005 trong một thời gian để nhận thức và cầu nguyện về vấn đề độc thân. Làm cách nào để chúng ta có thể đào sâu và tu chỉnh các phương pháp đào tạo của chúng ta trong lãnh vực này? Tài liệu hiện hành là kết quả của cuộc gặp gỡ đó. Nó khuyến giục phải được áp dụng trong tất cả các chủng viện của Hội cũng như trong việc đào tạo khởi đầu và thường xuyên của các linh mục Xuân Bích.

4. Chúng ta biết có những thực hành khác trong những Giáo Hội đông phương: chúng tôi không chủ trương xét lại sự hợp pháp của họ đã được Công Đồng Vaticanô II thừa nhận (P.O. số 16). Hơn nữa, cần lưu ý là tài liệu hiện hành không minh nhiên bàn về vấn đề đồng tính luyến ái. Cuộc gặp gỡ tại Montréal đã diễn ra trước khi phát hành tài liệu của Thánh Bộ Giáo Dục Công giáo vào tháng 11 năm 2005. Tất nhiên là chúng tôi đã tuân theo trong vấn đề này những chỉ thị của Tòa Thánh.

5. Đặc sủng sống bậc độc thân thánh hiến giả thiết các linh mục phải có một sự dấn thân dứt khoát theo dõi một đời sống tự chủ bản thân và khiết tịnh. Sự dấn thân được lựa chọn cách tự do và quảng đại là một lời trả đáp đối với một hồng ân đại lượng của Thiên Chúa là nguồn sự sống của họ. Vậy sự độc thân của các linh mục được ghi tạc ngay tại nội tâm của một cuộc đối thoại liên lỷ giữa Thiên Chúa và từng người trong họ. Trong cuộc đối thoại kéo dài cả cuộc sống đó họ sẽ học biết mỗi ngày một hơn từ Thiên Chúa rằng tha nhân không phải là một người xa lạ, cũng không phải là một đồ vật, cũng không phải chỉ là một người láng giềng, nhưng là một người bạn, một người anh em, một người chị em. Qua việc cho đi chính đời sống mình, được diễn đạt giữa nhiệm thể bằng cách chọn đời sống độc thân, linh mục càng ngày thể hiện đời sống mình cho Thiên Chúa và cho tha thân hơn; cuộc sống đó như thế sẽ được hướng dẫn theo một sự lột bỏ liên lỷ, một sự “hủy diệt” (Ph 2,7), qua đó mình phải “nhỏ bé đi để cho Chúa lớn lên” (Ga 3, 30) và góp phần vào sự tăng trưởng của Giáo Hội và của từng người trong anh chị em mình.

Trong nhãn giới đó, sự độc thân không thể tách rời khỏi toàn bộ đời sống kitô giáo mà mục tiêu là có thể quả quyết với thánh Phaolô: “Không còn phải là tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”; cũng không thể tách rời khỏi toàn thể đời sống linh mục trong đó ngài tự để mình được nên đồng hình dạng với Đức Kitô Mục Tử Đấng “ban sự sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11).

Chính trong khung cảnh đó mà sự tự do của linh mục không ngừng được củng cố trong sự trưởng thành bản thân hướng về tha nhân và luôn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa thông qua việc phục vụ dân Ngài. Vì ngay cả giữa những thánh giá, vị linh mục chấp nhận tình trạng sống ấy sẽ gặp được trong đó chính kho báu hàm chứa việc “mang trong thân xác mình sự chết của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu cũng được bày tỏ trong thân xác của chúng ta” (2 Co 4, 10). Như thế ngài sẽ học biết để ban phát sự sống mình cho đoàn dân được trao phó cho ngài; sự ban phát chính bản thân đó sẽ là một động lực thúc đẩy ngài loan báo Tin Mừng “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tim 4, 2). Trong khi mỗi ngày trở nên môn đệ và mục tử hơn, ngài không còn thuộc về mình nữa, như thuộc về những kẻ ngài được sai đến.

Những khái miêm căn bản này đòi buộc phải được suy niệm thường xuyên. Nhưng chúng cần phải được thực hiện cụ thể trong cuộc sống diễn ra như là dấu hiệu của Nước Chúa trị đến. Vì thế, để sống đời độc thân và thấu hiểu nó hơn, chúng ta cần lưu ý đến những hoàn cảnh cụ thể trong đó việc hiến thân được thực hiện.

[ Lưu ý: Chúng tôi bỏ qua những số 6-17, không mấy thích hợp với bối cảnh văn hóa Việt Nam, để bước tiếp ngay sang số 18.][3]

MỘT KHỞI ĐIỂM VỮNG CHẮC.

SUY NGHĨ KHỞI ĐI TỪ TRUYỀN THỐNG

nền tảng thần học

18. Sự “thích hợp” của đời độc thân liên hệ với chức vụ linh mục được thiết lập theo thần học do sắc lệnh “Presbyterorum Ordinis” trên nhiều khía cạnh của Mầu Nhiệm Chúa Kitô và của Hội Thánh (P. O. n0 16)[4]. Đi sâu vào những khía cạnh khác nhau đó sẽ giúp cho các linh mục khám phá và đào sâu căn tính của mình là những người độc thân được thánh hiến.

Chiều kích kitô học

19. Vị linh mục dấn thân trong đời sống độc thân khám phá thấy sự phong phú của bậc này trước hết nhờ chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể và Linh Mục Thượng Phẩm mà mình được thông phần chức linh mục qua nghi thức truyền chức.

Trong khi suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể, linh mục chiêm ngắm toàn thể đời sống Chúa Giêsu. Ngài khám phá ra tất cả sự phong phú tương hệ; Chúa Giêsu là Con hoàn hảo của Chúa Cha và là người anh em hoàn vũ. Sự độc thân của Chúa, với sự cô tịch kèm theo, thấy được nguồn suối và ý nghĩa tối hậu trong mối liên hệ duy nhất mà Chúa Giêsu duy trì với Cha của Ngài. Những mối liên hệ của Ngài với những kẻ quy tụ chung quanh Ngài là những mối liên hệ được ghi dấu bằng sự thật và bằng sự ao ước làm cho tha nhân đạt tới nhân tính tròn đầy được kiến tạo trong liên hệ với Thiên Chúa, có chính Chúa Giêsu là kiểu mẫu toàn hảo trọn vẹn của nhân tính thành toàn đó. Những liên hệ của Chúa Giêsu với các phụ nữ tỏ rõ Ngài đã thừa nhận cho họ một phẩm giá mà văn hóa thời đó không thừa nhận đối với họ. Linh mục sẽ thấy trong đó một mẫu gương cho những liên hệ của riêng mình đối với thế giới phụ nữ. Các liên hệ của Chúa Giêsu với mẹ Ngài tỏ cho linh mục thấy thế nào là yêu thương và trừu mến Đấng đã cho Ngài sự sống mà tuy nhiên Ngài lại phải xa cách. Linh mục hiểu rằng ơn gọi của mình kêu gọi mình “từ bỏ mẹ và gia đình mình” để tự thể hiện như là một người trưởng thành tự lập, trong khi vẫn tiếp tục tôn trọng và kính yêu gia đình mình.

Trong khi chiêm ngưỡng đời sống Chúa Giêsu, linh mục cũng thấy Ngài liên hệ với cộng đồng các môn đệ của Ngài. Như thế các linh mục sẽ khám phá ra Chúa không những chỉ có những liên hệ với các cá nhân đặt cạnh nhau, nhưng còn là người chịu trách nhiệm kiến thiết một cộng đồng trong tình yêu, một Giáo Hội, dấu chỉ cho một nhân loại có khả năng tập họp trong Đức Kitô.

Nhưng trong khi loan báo tình yêu vô điều kiện của Chúa Cha, nguồn mạch của tình yêu mà chúng ta phải mang đến cho mọi con người, kể cả kẻ thù, Chúa Giêsu đã gặp phải sự khước từ của nhân loại không chịu từ bỏ bạo lực, khinh khi, tinh thần thống trị, ý chí cường quyền. Sự khước từ đó đã đưa Ngài đến Thập giá và cái chết mà Ngài được Chúa Cha cứu thoát sau khi đã trải qua nó. Từ đó Ngài đã được thiết đặt trong đời sống Phục Sinh của Ngài nơi đó nhờ Thánh Thần, Ngài trở thành nguồn suối của hiệp thông giữa loài người với nhau và với Thiên Chúa.

20. Trong sự chiêm niệm đó về đời sống của Đức Kitô trong những mầu nhiệm Nhập Thể, Thánh Giá và Phục Sinh của Ngài, các linh mục được kêu gọi nhập cuộc vào cùng một động lực với Ngài. Họ đã như thế bởi phép Rửa của mình, họ còn như thế nữa theo một danh nghĩa khác bởi phép Truyền Chức khiến họ nên đồng hình dạng với Đức Kitô Mục Tử. Họ được gọi trong Đức Kitô để sống một cuộc sống liên đới trong đó sự trong sạch của mối liên hệ của họ cho phép họ giúp đỡ mỗi người đạt tới nhân tính sung mãn và kiến thiết một cộng đồng đặt nền tảng trên sự dâng hiến bản thân trong tình yêu phát xuất từ Chúa Cha. Họ cũng được gọi trong Đức Kitô để vác lấy thập giá của mình mà vượt qua thử thách khi sự trung tín của họ với Nước Trời đặt họ trước sự chống đối, chế nhạo, kể cả hận thù. Khi đó họ hy vọng rằng sự Phục sinh của Đức Kitô, mà sức mạnh thiêng liêng đang hành động trong đời sống họ, sẽ kiện toàn trong họ cuộc sống đời đời mà ngay từ hiện thế họ sống bởi sự trong sạch của đời sống mình.

Người ta sẽ thấy đến mức nào Thánh Thể họ cử hành với các cộng đồng họ có trách nhiệm là trung tâm của cuộc sống họ, theo mức độ đây chính là hiệp thông với Đức Kitô trong các mầu nhiệm Nhập Thể, Chết và Sống lại của Ngài.

Lúc đó với niềm hân hân và tự do họ có thể nhận lãnh sự độc thân của họ như một ân huệ Thiên Chúa ban. Họ chấp nhận được nên đồng hình dạng với Đức Kitô không những trong chức vụ của Ngài mà còn cả trong lối sống Ngài theo, có gồm sự độc thân hoàn toàn quy hướng về Cha Ngài và về những kẻ Ngài gặp gỡ. Thế là họ không còn sợ sự chống đối hay hiểu lầm của xã hội họ đang sống, trong khi mang hy vọng là khoảng trống mở ra do sự cách biệt giữa sự lựa chọn của họ và những thái độ của người đương thời sẽ có thể làm phát sinh nơi những người này một câu hỏi.

Chiều kích cánh chung

21. “Hoạn nhân vì Nước Trời” (Mt 19, 12), người sống bậc độc thân thánh hiến biết rằng mình được gọi sống một cuộc đời đầy hy vọng nhằm công bố niềm hy vọng cho một thế giới luôn trên bờ thất vọng. Qua cách sống liên đới họ bày tỏ sự “chưa tỏ hiện” của Nước Chúa, ý thức rằng mình sống mầu nhiệm Nhập Thể bằng một cách thức khác với những người sống bậc hôn nhân, và là một lối bổ túc. Thật vậy, những người độc thân và những người kết hôn trở thành dấu hiệu cho nhau trong việc xây dựng Nước Trời, những người trước bằng cách nhắc lại qua sự từ bỏ của họ rằng trong cuộc sống tất cả đều “dành cho Chúa”, những người sau bằng cách bày tỏ cho thấy sự hiến dâng cho Chúa đó được thể hiện trong những thực tại cụ thể nhất của cuộc sống. Cả hai đều tìm để sống trong hoàn cảnh riêng của mình “sự tự do của con gái Thiên Chúa” (Gl 5, 13tt).

Về phần mình, các linh mục được mời gọi, cùng với những người độc thân thánh hiến khác, sống trong thế giới cách “đơn gọn”. Trong một lối sống đơn giản, họ muốn, với tư cách linh mục, luôn sẵn sàng đối với dân Thiên Chúa trong sứ mệnh Đức Giám Mục giao phó cho họ. Quy hướng vào Đức Kitô và trong sự mong đợi Ngài đến, họ không tìm ở đời này quyền lực hoặc sự biết ơn.

Chiều kích hôn lễ

22. Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nhấn mạnh đến chiều kích hôn lễ này, trong ý nghĩa là linh mục không thể chỉ thay mặt Đức Kitô như Đầu và Mục Tử, nhưng còn như Hôn Phu của Giáo Hội. Hơn nữa hai hình ảnh Đầu và Hôn Phu còn rất gần nhau trong Kinh Thánh. Sự dấn thân vào bậc độc thân mang tất cả ý nghĩa của nó trong khung cảnh của chiều kích hôn lễ này nơi chức vụ linh mục; sự trao hiến bản thân mà linh mục thực hiện cho Giáo Hội trong bậc độc thân là một cách diễn đạt đặt ưu của chiều kích hôn lễ này; hơn nữa điều này còn được Công Đồng Vaticanô II gợi đến và gọi là sự thích hợp của bậc độc thân với chức vụ linh mục (Presbyterorum Ordinis số 16). Được sống như thế ngay tại trung tâm của chức vụ, nó phản ảnh tình yêu của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội Ngài, theo như thánh Phaolô gửi giáo dân Ephêsô: một tình yêu ghen tị, trọn vẹn và quảng đại (Ep 5, 21-23; cũng x. Pastores Dabo vobis, số 22 [5]).

Cũng đừng quên rằng linh mục là thành phần của cộng đồng môn đệ và ngài được gọi để bắt chước các môn đệ trong đời sống thân mật với Chúa, luôn ở với Ngài cả khi họ được sai đi xa để rao giảng.

Những hình ảnh hôn lễ của chức vụ và của bậc độc thân phải được sử dụng với sự thận trọng và chính xác. Những hình ảnh đó không thể là lý do để biểu hiện một tình cảm sai lệch. Được hướng dẫn do hình ảnh này để nhận biết căn tính nam nhân của mình, linh mục không được quên rằng mình chỉ là đại diện của Đức Kitô, Phu Quân đích thực duy nhất của Giáo Hội Ngài.

Chiều kích thánh linh

23. Được nên đồng hành dạng với Đức Kitô nhờ bí tích Truyền Chức, linh mục được kêu gọi phó thác bản thân cho Thánh Thần của Đức Kitô, Đấng hoạt động nơi mình. Trong sự dấn thân của mình vào đời độc thân sự phó thác cho Thánh Thần có khả năng triển nở. Nó làm cho linh mục khám phá ra và sống một cách đặt biệt hai khía cạnh của chức vụ mình; Trước hết, không phải mình giảng lời của riêng mình nhưng là giảng lời của Thiên Chúa; không phải mình hướng dẫn đời sống của mình, nhưng mình tự phó thác cho những sáng kiến và ý muốn của Thánh Thần; tại đây, đức khó nghèo và vâng lời gặp gỡ bậc độc thân sống trong khiết tịnh. Như thế linh mục nhận ra như một dấu hiệu của căn tính mình sự kiện là không nên đặt bản thân mình lên trước. Nhờ vậy ngài trở thành bạn của Phu Quan mà thánh Gioan nói đến, người bạn vui mừng khi nghe tiếng của Phu Quân (Ga 3, 29). Tiếp đến là, qua việc phó dâng một đời sống không thuộc về mình mà thuộc về Giáo Hội, ngài khám phá ra một sự phong phú không đến tự mình nhưng đến tự Thánh Thần. Ngài nối tiếp chức vụ của Chúa Giêsu trong sức mạnh của Thánh Thần, và tìm thấy trong Thánh Thần những phương pháp cách để thực hiện “những việc lớn lao hơn nữa” (Ga 14, 12). Trở thành kiêm nhượng do sự quan phòng thiêng linh thực hiện trong bản thân, linh mục biết rằng tại trung tâm của chức vụ mình ngài phải nên như “ngôi sao đã đưa dẫn các nhà Đạo sĩ tới Bethléem. Nó sẽ biến đi ngay khi đã dẫn họ tới ánh sáng huy hoàng của Đấng Thiên Sai”[6].

Chiều kích tông đồ

24. Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis nói về căn bản bậc độc thân linh mục như sau: “Bậc sống thân “thích hợp” nhiều cách với chức vụ linh mục. Vì chưng tất cả sứ mệnh linh mục đều hiến cho việc phục vụ nhân loại mới mà Đức Kitô – chiến thắng tử thần – đã gây nên trong thế giới bởi Thánh Thần của Ngài “(số 16). Sự độc thân là một biểu hiện đặc biệt của nhân loại mới này do chức vụ của các linh mục làm phát sinh trong thế giới. Trước hết chính trong ý nghĩa này mà đời độc thân rất thích hợp (nghĩa là rất thuận ứng) với chức vụ linh mục.

25. Nhưng hai khía cạnh khác cũng được gợi tới, tuy có tính cách suy đoán nhiều hơn, nhưng cũng được coi là nên ghi nhận[7]. Trước hết trong những xứ đạo (tây phương) của chúng ta, sự giảm bớt số linh mục làm cho cánh đồng truyền giáo trở nên rộng lớn hơn và tăng thêm trách nhiệm cho các ngài; nó đòi hỏi các ngài phải lưu động hơn, sẵn sàng hơn, tự do hơn. Nó cũng khiến các ngài phải chia sẻ mỗi ngày nhiều hơn trách nhiệm của Giám Mục, mà một trật các ngài, theo Công Đồng Vaticanô II, vừa là cộng sự viên vừa là bạn hữu. Như vậy, giữ đúng mọi tỉ lệ, ngày nay nhiều linh mục thi hành một chức vụ làm họ gần với chức vụ của Giám Mục; và không phải là vô nghĩa khi coi họ cũng chia sẻ cùng một lối sống. Điều này rất thích hợp với quan niệm về các linh mục được triển khai do Công Đồng cuối này khi coi trọng sự gần gũi của các ngài với các Giám Mục, và đã quảng bá một kiểu mẫu linh mục sống tinh thần rất tông đồ.

Khía cạnh thứ hai có hệ đến hoàn cảnh của các “Giáo Hội già” của chúng ta. Chúng ta sống trong một thời đại mà Phúc Âm bị đặt thành vấn đề và một thời đại cần “một phúc âm hóa mới”; một trong những mục tiêu của việc phúc âm hóa mới này là nhằm hoán cải tâm trạng và hạnh kiểm trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, về những mỗi liên hệ nhân bản, về tính liên đới, về tiêu thụ. Được kêu gọi với tất cả mọi kitô hữu trở nên “muối đất”, các linh mục, qua sự dấn thân của mình vào bậc độc thân, có thể là một tiếng gọi sống động cho sự biến đổi triệt để này[8].

Suy nghĩ từ Truyền Thống của Giáo Hội và gia sản của Xuân Bích

26. Mỗi thời đại có nghĩa vụ phải diễn đạt đức tin và thực hành của Giáo Hội trong trạng huống văn hóa riêng của mình. Nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện tùy theo mức độ ta được đâm rễ chắc chắn trong Truyền Thống loại biệt của chúng ta và chúng ta sống nhờ đó. Đặc biệt về vấn đề độc thân, chúng ta muốn diễn đạt những lộ trình đào tạo của chúng ta khởi đi từ căn bản vững chãi đó. Giáo huấn của Giáo Hội cung cấp cho chúng ta những căn bản cần thiết từ đó chúng ta có thể suy nghĩ và định thức ra lồi đáp trả của chúng ta đối với hồng ân của Thiên Chúa trong bậc độc thân. Truyền thống loại biệt và sư phạm thiêng liêng của chúng ta đem lại đặc điểm riêng để hướng dẫn sự thiết định, phát triển và đánh giá các lộ trình đào tạo liên hệ đến bậc độc thân của các linh mục.

27. Chính trong viễn tượng đó mà các đặc điểm sau đây đã được soạn thảo. Nhất là chúng được soạn thảo khởi đi từ mối thâm tín sâu sắc vốn là của riêng chúng ta: sự độc thân sống trong khiết tịnh tự bản tính là tương hệ. Nó định phẩm cho căn tính của linh mục như là một con người của tương hệ. Nó định hướng đời sống linh mục như là một “lãnh tụ-tôi tớ” của cộng đồng kitô giáo. Nó tăng cường những liên hệ của linh mục với Giám Mục và với linh mục đoàn của giáo phận mình. Nó mời gọi linh mục nhận rõ sự bổ túc của mình với các bậc sống khác và những mối liên hệ mình phải duy trì với họ. Nó cũng cho phép linh mục phác họa đời sống mình theo cả một dàn bảng các liên hệ nhân bản, kể cả các liên hệ ngài thiết lập với các bạn hữu chân chính.

A. Sự độc thân thánh hiến là một cách thức yêu mến và hiện hữu với tha nhân. Đó là điều nổi bật từ những tài liệu mới nhất của Giáo Hội và đặc biệt là Pastores Dabo Vobis. Sự độc thân khai mở một cuộc sống không tự đóng kín trên mình, nó khai sáng những liên hệ, khai sáng đời sống cộng đồng, nó biết tôn trọng phẩm giá những người nó gặp, nó kêu gọi mọi tín hữu cùng nhau tìm kiếm sự thánh thiện và làm cho Nước Chúa trị đến.

B. Sự độc thân sống trong khiết tịnh hệ tại sự dấn thân tất cả cuộc đời. Được liên kết với ân ban thường hằng của bí tích Truyền Chức, lời hứa sống bậc độc thân thánh hiến đâm rễ sâu thẳm vào chính thực thể của linh mục. Với tính cách đó lời hứa này phải được nhắc lại trong suốt chiều dài của đời sống linh mục.

C. Sự độc thân của các linh mục tìm được tất cả ý nghĩa của nó trong liên hệ với các lời khấn khác, được diễn đạt hay hiểu ngầm trong các nghi thức truyền chức. Như vậy sự độc thân biểu thị đời sống linh mục bằng dấu ấn của sự đơn giản và quy hướng ngài tới một đời sống cầu nguyện đều đặn vì đây là một hồng ân phải nhận lãnh không ngừng. Cũng thế đối với một sự vâng lời trong sự tự do dâng hiến bản thân, cũng như đối với sự quyết định để mình được đồng hóa với Đức Kitô, Mục Tử của Giáo Hội và hằng khuôn mình cách mật thiết với những mầu nhiệm mà linh mục cử hành.

Sự độc thân thánh hiến giả thiết một sự khổ hạnh. Có lẽ ít được nhấn mạnh trong những tài liệu mới đây, nhưng khía cạnh này vẫn là chính yếu; vì thế không thể lặng thinh trong lộ trình đào tạo. Sự thận trọng, sự tỉnh thức, sừ từ bỏ, sự chấp nhận mọi thánh giá trong suốt cả đời sống, và những yếu tố cùng loại, làm thành bấy nhiêu phương diện của một quan niệm toàn vẹn về sự độc thân sống trong khiết tịnh[9].

D. Chọn lựa sự độc thân là trao hiến đời sống mình để nhắm tới một sự phong phú đặc biệt[10]. Vị linh mục đã chọn sống độc thân phải có một quan niệm lành mạnh về danh hiệu “Cha” mà thường những người ngài có trách nhiệm gọi ngài. Đời sống của ngài phải hoàn toàn quy hướng về các anh chị em của ngài nhằm sự tăng trưởng của họ trong đức tin, đức cậy và đức mến.

E. Thánh Kinh phải là căn bản của một lộ trình đào tạo bậc độc thân. Thánh Kinh cung cấp rất nhiều phương sách để suy tư về bậc độc thân thánh hiến và liên hệ của bậc này với việc cầu nguyện. Quan trọng là phải hiểu được căn bản phúc âm của bậc độc thân; kỷ luật của Giáo Hội Roma về điểm này không những chỉ thuộc về sự gắn bó với một truyền thống lâu đời; chính truyền thống này không hề xa lạ với Thánh Kinh; cả khi nó đã mặc lấy một hình thức bắt buộc cho dù một hình thức như vậy không được đặt định trong Tân Ước. Chính Tân Ước vẫn làm vang lên bằng nhiều cách lời mời gọi bước vào bậc độc thân thánh hiến. Và cả đến hiện nay sức sinh động và sự phong phú của nó vẫn đến từ nguồn suối phúc âm. Vậy rất nên cổ võ những nghiên cứu vững chãi, những suy tư và những ấn phẩm nói về căn bản thánh kinh của bậc độc thân trong khiết tịnh[11].

F. Sự độc thân của linh mục phải tựa trên những nền tảng thần học nghiêm chỉnh và thâm cứu. Những lộ trình đào tạo sẽ cho phép các chủng sinh và các linh mục hiểu rõ những ý nghĩa kitô học, giáo hội học, thánh kinh học, ý nghĩa hôn lễ và tông đồ của bậc sống họ, cả trong thời gian đào tạo khởi đầu cũng như trong thời gian thường huấn. Như vậy có thể đào sâu điều mà sắc lệnh Presbyterorum Ordinis gọi là sự “thích hợp” của bậc độc thân với chức vụ linh mục.

G. Một lộ trình đào tạo phải lưu ý đến tầm quan trọng của cộng đồng giáo dục như là yếu tố căn bản của việc đào tạo khởi đầu. Qua sự phân định nó cho phép, qua sự quân bình giữa những thời gian trao đổi và những thời gian trầm mặc nó thiết định, qua những chia sẻ nó cung ứng cho đề tài giữa các chủng sinh và các nhà đào tạo, cộng đồng giáo dục giữ một vai trò quan trọng trong việc đào tạo bậc độc thân. Nhưng đừng quên để mắt đến vai trò của các cộng đồng khác, là những cộng đồng tự nhiên như gia đình, hoặc cộng đồng giáo hội như các xứ đạo.

H. Truyền thống Xuân Bích nhấn mạnh đến mối quan trọng của sự tự do thiêng liêng vừa để đáp trả ơn gọi làm linh mục, vừa để dấn thân vào bậc độc thân. Cần nhấn mạnh điểm này, nhất là ở thời đại chúng ta. Bậc độc thân không thể sống như một gánh nặng “áp đặt từ bên ngoài”. Nó phải biểu lộ sự hiến thân tự do của kẻ dấn thân trong đó, một sự trao hiến được Giáo Hội phê chuẩn qua tiếng gọi của Giám Mục. Trong nhãn giới đó kỷ luật trở thành như một sự che chở và bảo vệ cho tự do qua đó linh mục hiến mình cho Đức Kitô. Kỷ luật lúc này trở nên một “gánh nhẹ nhàng”[12].

I. Một lộ trình đào tạo bậc độc thân phải đề cập cách minh bạch đến những thất bại và hậu quả của chúng. Như vậy phải nói rõ ràng đến những động ứng giới tính không thích hợp hoặc lạc hướng, đến tính luyến ái nhi đồng, đến sự vi phạm và những thái độ dấn tới đó. Các nhà đào tạo sẽ nhấn mạnh đến sự quan trọng cần có những động ứng ngay thẳng và các ngài sẽ phải rất lưu ý đến tất cả những gì tại chủng viện có thể gây chướng ngại cho một bầu khí trong lành và quân bình.

J. Một lộ trình đào tạo phải gồm cả những hướng dẫn về việc đào tạo các đào tạo viên. Không những các nhà đào tạo phải là những chuyên viên về những gì liên hệ đến ý nghĩa của bậc độc thân và các thành phần khác nhau của nó (nhân bản, tâm lý, thần học, thiêng liêng…), nhưng họ còn phải tự vấn về cách sống của mình có nên một gương mẫu và một tiếng gọi cho các chủng sinh không. Vậy họ không được quên rằng chính mình phải sống điều mình đòi buộc người khác, và họ cũng phải tự vấn về phẩm cách của những liên hệ giữa họ với các chủng sinh, cách thông thường và khi họ nói với các chủng sinh về vấn đề tế nhị này.

Những khía cạnh căn bản của việc đào tạo bậc độc thân thánh hiến theo bốn chiều kích của việc đào tạo.

28. Sư Phạm Xuân Bích quan niệm việc đào tạo như một tiến trình tiệm tiến được thể hiện trong trọng tâm của một cuộc đời luôn tìm kiếm sự thánh thiện. Thế nên, những khía cạnh khác nhau của việc tào đạo tại chủng viện đều được coi như là những yếu tố liên hệ chung đến một toàn thể.

Từ đó, những khía cạnh căn bản của việc đào tạo bậc độc thân được đặt liên hệ với bốn chiều kích của việc đào tạo (nhân bản, thiêng liêng, trí thức, mục vụ). Mỗi một trong bốn chiều kích này đều mở sang nhau và không thể được xét nghiệm riêng rẽ. Chúng soi sáng lẫn nhau trong một tác dụng hỗ tương thường xuyên. Dĩ nhiên là phải khởi đi từ một khía cạnh riêng biệt để đi vào suy tư. Và cả khi, trong những trang dưới đây, không có lặp lại mỗi lần mọi yếu tố, thì viễn tượng đó cũng sẽ luôn luôn được hiểu ngầm.

Hơn nữa nói về một yếu tố riêng biệt của việc đào tạo – ở đây là việc đào tạo độc thân – trở thành việc trình bày một loại khối giác trụ trong đó toàn thể đều phản xạ tới nhau. Việc đào tạo độc thân thật là một yếu tố đặc cách, nhưng không thể xét nghiệm nó như một lộ trình tự túc, một khi đã vượt qua một trong mỗi giai đoạn. Sự phong phú của mỗi khía cạnh đào tạo chỉ có thể hiểu được trong liên hệ với toàn thể, giống như một nét bút vẽ trên bức tranh mà giá trị chỉ hiện ra khi ngắm nhìn toàn thể tác phẩm hội họa.

Đào tạo nhân bản

29. Bậc độc thân vì Nước Trời chỉ được sống bởi những người, như bất cứ nhân vị nào, biết hòa hợp lịch sử cá nhân mình, những giới hạn và những phong phú, những khả năng yêu mến của mình và những chướng ngại vật đi ngược lại. Sự phân định phải lưu ý đến tất cả các thực tại đó mà sự hòa hợp tốt đẹp làm phát sinh một con người cởi mở và có khả năng có những liên hệ lành mạnh. Tuy nhiên sự độc thân sống trong khiết tịnh gặp được ý nghĩa cuối cùng của nó trong liên hệ với Thiên Chúa. Như mọi bậc sống khác trong đời sống Kitô giáo, nó biểu lộ, theo cách thức riêng của mình, một chiều kích bí tích qua đó chính tình yêu của Thiên Chúa được sống trong những liên hệ với Thiên Chúa Ba ngôi được bày tỏ tại trong tâm của kinh nghiệm nhân loại.

30. Vì thế, nhiều phẩm cách và nhân đức biểu lộ sự trưởng thành của một người độc thân sống trong khiết tịnh vì Nước Trời cũng giống như các kitô hữu khác, dầu bậc sống của họ có thế nào đi nữa. Đơn giản là trên căn bản một âm điệu chung cho họ, người độc thân diễn đạt cung điệu riêng của mình. Sự khiết tịnh của người độc thân tự diễn đạt trong tất cả những gì làm nên đời sống nhân bản và kitô hữu bình thường: những liên hệ khác nhau, cầu nguyện, cách hành sử quyền bính; nhưng khi muốn tìm ra điều đặc cách nơi linh mục độc thân, thì cần phải nhìn xem trong đời sống riêng của ngài, ngài phản ảnh Đấng Chăn Chiên Lành ra sao. Sống bậc độc thân như linh mục là bảy tỏ trong đời mình những phẩm cách nhân bản là những phẩm cách của Đức Kitô – Mục Tử, chúng biểu lộ tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài. Đây là một khả năng dẫn dắt cộng đồng kitô giáo đòi buộc sự đón nhận, lòng nhân từ, sự cởi mở đối với mọi người, sự sẵn sàng tiếp nhận, nhưng cũng sáng suốt trong các liên hệ, sự cương quyết nhưng không khắc khe, khả năng thiết lập sự thông hảo trong chân lý, khả năng khuyếch trương cộng đồng thành rộng lớn hơn (giáo phận, Giáo Hội toàn cầu, mở rộng tới những vấn đề của xã hội) và duy trì nơi cộng đồng tinh thần tông đồ[13].

Đào tạo nhân bản: những đức tính nhân bản chính yếu thuộc về bậc độc thân của các linh mục.

31. Không thể đưa ra đây là một bản lược kê đầy đủ. Chúng ta hãy chỉ ghi lại một vài khía cạnh.

Sự độc thân thánh hiến tự bản tính là tương hệ, và người độc thân tự định nghĩa như một hữu thể của liên hệ. Chúng tôi đã nhấn mạnh rằng sự độc thân sống trong khiết tịnh duy trì, trong trọng tâm của sự từ bỏ liên hệ hôn nhân, một khả năng cởi mở sang tha nhân. Khả năng này có giá trị đối với mọi người độc thân thánh hiến. Tất nhiên nó áp dụng cho linh mục là người ở trọng tâm của một toàn thể tương hệ rất rộng lớn: là cộng đồng ngài được sai đến, là Giám Mục và linh mục đoàn của ngài, là giáo phận và Giáo Hội toàn cầu, là các người ngoài kitô giáo đến với ngài như một người bạn hoặc một nhân vật chính thức. Ở giữa mọi người, linh mục phải là nhân chứng của tình yêu làm phấn chấn ngài, đó là tình yêu Chúa Ba Ngôi[14].

Linh mục bắt liên hệ với tha nhân bằng cách làm cho mỗi người qua trước mình. Ngài không tìm lợi ích trước nhưng tìm lợi ích của tha nhân. Trong những trao đổi, ngài dành ưu tiên cho những vấn đề của tha nhân chứ không phải của mình. Trong cách gây liên hệ, ngài tỏ bày một sự trọng kính sâu xa đối với tha nhân. Ngài tìm cách để những người gặp ngài gặp gỡ tự thể hiện được bản thân và ý thức được phẩm giá của họ và sự tự do của con cái Thiên Chúa. Sự ân cần đơn sơ và chân thành ngài tỏ lộ trong những liên hệ diễn đạt một điều chi đó trong Tin Mừng ngài rao giảng. Trong cách thức đón nhận, ngài tìm cách giải tỏa chứ không tìm chiếm hữu, lắng nghe chứ không loại trừ.

32. Làm thế nào, ngài cho người ta linh cảm được điều gì đó về Nước Chúa sẽ đến, trong một thế giới mà những liên hệ thường được biểu lộ bằng lợi lộc, phê phán hoặc thống trị. Hơn nữa, trong khi không tìm kiếm bản thân mà còn tự xóa nhòa, ngài làm cho những kẻ ngài gặp gỡ có thể kết hợp với Đức Kitô. Bởi vì ngài không có thiên vị cá nhân, nên ngài làm nổi bật giá trị và phẩm cách của mỗi người phụ nữ và mỗi nam nhân. Ngài tỏ mình có khả năng duy trì những liên hệ bạn bè, nhưng khả năng đó sẽ không làm tổn thương đến những liên hệ mục tử của ngài với thế hệ và những ơn gọi khác biệt. Điều này càng rõ rệt hơn khi ngài dành ưu tiên cho những người túng thiếu nhất và bị đặt ra bên lề xã hội vì ý thức rằng Đức Kitô hiện diện cách đặc biệt với họ.

33. Đời sống của linh mục dấn thân trong bậc độc thân thánh hiến được đánh dấu bằng mối bận tâm về công lý. Sự từ bỏ gắn liền với bậc độc thân phải làm cho ngài đặc biệt nhạy cảm với phẩm giá của mọi người, cách riêng với những người nghèo khó nhất, và làm phát sinh nơi ngài mối bận tâm làm sao mỗi người có được điều họ có quyền có. Trước tiên ngài phải làm sáng tỏ điều đó trong cách quản trị những gì thuộc về riêng mình: ý thức rằng “bộ mặt thế giới này đang qua đi”, ngài phải làm phát sinh nơi mình tấm lòng quảng đại. Còn về những tài nguyên của các cơ sở ngài có trách nhiệm, ngài phải biết dùng các cố vấn là những người giáo dân có sở trường, để của cải được dùng với sự khôn ngoan và trong chiều hướng dành ưu tiên cho những người nghèo khó nhất.

Những đức tính này mọi kitô hữu đều được kêu gọi phải có, là đặc biệt quan trọng đối với một linh mục có trách nhiệm riêng phải dẫn dắt một cộng đoàn kitô giáo. Linh mục có thể làm triển nở trong đó một tinh thần cộng tác đích thức, cởi mở và đón nhận, làm thành một môi trường loan báo Tin Mừng. Sự quảng đại trong đó ngài tự dấn thân và khơi dậy trong cộng đồng, tìm được nguồn suối và một trật một môi trường diễn đạt ưu việt trong mầu nhiệm Thánh Thể, thân mình được trao ban và máu đổ ra.

34. Bậc độc thân của linh mục tự biểu thị bằng việc hiến dâng đời mình và bằng một sự phong phú thiêng liêng. Sự phong phú đó là sự phong phú của Đức Kitô trong linh mục. Nó là thành quả của công việc mà Thánh Thần của Đức Kitô thực hiện qua ngài bằng vào ơn truyền chức thánh. Trước hết nó biểu lộ ra trong việc rao giảng Lời và trong các bí tích phát sinh con người vào đời sống mới của Thánh Thần. Nó cũng biểu lộ ra trong đức ái mục vụ mà linh mục chứng tỏ bên cạnh những con người và những đoàn nhóm mà ngài có bổn phận và sứ mạng phải dẫn dắt tới Đức Kitô. Là tôi tớ và hướng đạo của dân Thiên Chúa, ngài giúp mỗi người tìm thấy ơn gọi của họ, chỗ họ phải giữ trong Giáo Hội. Ngài tìm thích ứng bản thân với từng người để giúp họ sống đời kitô hữu của họ theo ý muốn của Thiên Chúa. Cởi mở với mọi người, ngài cũng bận tâm giúp đỡ cộng đồng được xây dựng trong đức ái, trong sự trung tín với những đường hướng của giáo phận. Trong sự vâng phục Đức Giám Mục, ngài không ngần ngại thăm dò những đường hướng mới để Giáo Hội phát sinh những thành quả truyền giáo đổi mới.

35. Dĩ nhiễn tất cả công việc mục vụ đó giả thiết phải biết chấp nhận những thử thách mà đời sống không thể nào tránh được. Hợp với mầu nhiệm Thập giá Đức Kitô, những thử thách ấy gặp được trong đó nguồn suối của sự phong phú đích thực của chúng. Nhưng công việc mục vụ cũng đòi hỏi một sự tìm tòi và đào sâu không ngừng trong lãnh vực trí thức và thiêng liêng, nếu không, những tài nguyên cá nhân sẽ mau chóng cạn kiệt. Hiểu biết sự diễn tiến của xã hội, biện phân được công việc của Chúa Thánh Thần trong thế giời này, rất cần thiết cho việc loan báo Tin Mừng và sự gặp gỡ mục vụ, đòi hỏi linh mục phải đọc những sách vở chọn lọc kỹ càng và dành thời gian để suy tư. Về điểm này, làm việc và trao đổi với các linh mục khác trở thành một trợ lực quý giá.

36. Sau cùng, nên lưu ý rằng sự phong phú của đời sống linh mục cũng tùy thuộc một phần ở vai trò gương mẫu của ngài trong cộng đồng kitô hữu. Ngài sẽ càng được đánh giá tốt trong sứ mạng mình khi chính ngài giữ được một cuộc sống quân bình, không bị các dục vọng khống chế, và biết chứng tỏ rằng rất cả những gì mình sống (kể cả những cuộc giải trí, bận tâm văn hóa) đều được thống nhất trong đức ái mục vụ.

37. Vị linh mục đã chọn sống đời độc thân thánh hiến một trật cũng phải dấn thân trên đường tìm hiểu bản thân. Điều này cũng trở thành cần thiết khi phẩm cách tương hệ giữ một chỗ quan trọng trong sự phong phú thiêng liêng của chức phận mục vụ.

Sự hiểu biết bản thân được thực hiện trong sự biết chấp nhận trước mặt Thiên Chúa những giới hạn của mình, biết bình tĩnh gom tụ lịch sử cá nhân của mình, biết khiêm nhường ý thức về những tài nguyên của mình, biết vui vẻ lãnh nhận những hồng ân và ân sủng ban tặng. Nó giả thiết một vài khả năng lưu ý đến chính mình, một ý chí phân tích những động lực của các hành động mình mà không vì thế chỉ quy hương trên bản thân.

Nó kéo theo nơi linh mục một năng khiếu diễn đạt về mình cách đơn sở và chân thành, về sự lựa chọn căn bản mình đã làm đối với Đức Kitô, về những giá trị phúc âm làm sinh động đời mình. Cách diễn đạt đó, với điều kiện phải kín đáo và khiêm tốn, phải được tỏ lộ trong đời sống hơn là trong lời nói của mình, sẽ làm cho linh mục được đáng tin nơi các kitô hữu khác. Thực thế, ngài không tìm làm đẹp lòng người đời. Lòng khao khát sự trong lành của tâm hồn mà ngài diễn đạt đưa dẫn ngài đến chỗ bỏ quên bản thân mình để trước tiên là nghĩ đến người khác. Ngài cũng thừa nhận cách đơn thành những lầm lẫn và sai lỗi của mình và biết xin lỗi nếu thấy cần thiết. Ngài xét nghiệm kỹ lưỡng đời mình dưới ánh sáng Phúc Âm. Như thế ngài tự mở lòng cho một sự hoán cải đích thực sẽ dẫn đưa ngài nên đồng hình dạng chặt chẽ hơn với Chúa Giêsu, nguồn suối và gương mẫu của đời mình.

Tự biết mình trong chân lý cũng dẫn linh mục tới chỗ sống bình an với chính mình, hạnh phúc sống đơn giản theo thân phận mình, và đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm tư tế. Như thế ngài được sinh động bởi những nhân đức làm thành bấy nhiêu điểm tựa vững chãi cho đời mục vụ của mình: sức mạnh và sự thận trọng được diễn đạt trong sự tự chủ bản thân, sự tiết chế làm ngài không tìm được những bù trữ cho sự cô đơn. Sự cô đơn này tất nhiên là một thử thách, nhưng nó cũng là một sự lựa chọn, và vị linh mục độc thân tìm được trong đó một nơi chốn để kết hợp với Chúa Cứu Thế, Đấng đầu tiên đã đối đầu trong đó và đã qua đêm trường để cầu nguyện với Chúa Cha.

38. Khi sự cô đơn thành khó chịu đựng, vẫn luôn có nguy cơ chạy trốn sang sự hiếu động, dẫn tới bệnh căng thẳng thần kinh (stress), hoặc những chứng phụ thuộc khác, như ăn nhậu, rượu chè, hoặc mê truy cập mạng (Internet). Tự mở tâm hồn để gặp Thiên Chúa, chấp nhận trong lời nguyện để dâng lên Thiên Chúa tất cả những ai mình có trách nhiệm, trái lại sẽ là một cách sống sự cô đơn như là một nơi tiếp nhận phần rỗi cho toàn thể nhân loại. Sự cô đơn luôn đi đôi với bậc sống của linh mục; nó là một phương thế ưu việt để hiệp thông với Đức Kitô Mục Tử, Đấng đã tự sống đời độc thân như là một địa điểm để Ngài gặp gỡ với Chúa Cha.

39. Qua mấy suy tư trên đây, ta thấy rõ là đối với một linh mục, đức vâng phục, đức khó nghèo và đức khiết định đều liên kết chặt chẽ với nhau. Trong ngài nó là dấu hiệu và là sự thể hiện của một đời sống “thông khoáng”, không thuộc về ngài nữa mà chỉ thuộc về Đức Kitô và về những kẻ ngài được sai đến với họ.

Đào tạo thiêng liêng

40. Qua những điều vừa nói về việc đào tạo nhân bản, ta thấy rõ nó không thể tách rời khỏi việc đào tạo thiêng liêng. Trái lại, nó đã thấm nhuần sâu xa trong đó. Trong mức độ cần mô phỏng nơi đời sống linh mục những nét nhân bản của Đức Kitô Kitô Mục Tử, ta thấy rõ chúng được Chúa Thánh Thần ngự trị và chúng không thể tách rời khỏi những nhân đức siêu nhiên.

41. Nhưng việc đào tạo thiêng liêng có thể đẩy xa hơn nữa việc chiếm hữu đó của Chúa Thánh Thần trên thực tại nhân bản của vị mục tử. Chẳng hạn bằng nhấn mạnh đến việc trao đổi thường xuyên giữa đời sống thần bí và truyền giáo. Việc tôn thờ Chúa Cha, thông hiệp với Chúa Con, cộng tác với Chúa Thánh Thần[15], cho phép vị linh mục sống trong khiết tịnh thấy rõ ràng chính sự thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi hoạt động tại trung tâm những liên hệ nhân bản trong đó ngài dấn thân mà không tự quyến luyến. Ngài không kết hôn để “có thể lo những sự thuộc về Thiên Chúa, và tìm sao làm hài lòng Thiên Chúa” (1 Co 7, 32). Nhưng ngài biết rằng thiếu sự kiên trì đến giải khát nơi nguồn suối những liên hệ Ba Ngôi, sự độc thân của ngài chỉ liều mình gặp thất bại hoặc ít nhất là sẽ rất tầm thường.

42. Cũng thế, việc đào tạo thiêng liêng còn mời gọi linh mục phải có một tình yêu lớn hơn nữa đối với Thiên Chúa và dân Ngài. Không phải chỉ cần có một đời sống nhân bản quân bình, yêu thương, cởi mở, nhưng còn phải đi đến mức cuối cùng của tình yêu bằng cách sống khăng khít với chính tình yêu của Giáo Hội đối với nhân loại. Linh mục được gọi, như cha Jean-Jacques Olier nói, “để có một trái tim cũng lớn như trái tim của Giáo Hội”. Tình bác ái mục vụ làm sinh động linh mục vượt quá ngài; nó là chính tình bác ái của Giáo Hội đối với thế giới.

Những nhân đức kiến tạo căn tính thiêng liêng của bậc độc thân thánh hiến

43. Từ tất cả những gì đã nói trên đây, hiển nhiên là những nhân đức đối thần kết hợp với đức khiêm những làm thành những nền móng của một bậc độc thân sống trong khiết tịnh.

44. Những nhân đức đối thần. Chính nhờ đức tin mà kẻ dấn thân vào bậc độc thân thánh hiến có thể sống trong suốt cuộc đời độc thân của mình. Chính sự gắn bó tuyết đối của họ có ý nghĩa. Thật vậy cần phải hơi “điên” một chút trong cái xã hội như hiện trạng của nó ngày nay, để quyết định dứt khoát hướng mình về một bậc độc thân sống trong khiết tịnh. Chỉ có đức tin mới biện minh được điều đó. Dĩ nhiên đây là một đức tin không thể tách rời khỏi đức tin cậy hằng ước vọng những điều chưa được tỏ hiện cách sung mãn: Nước Thiên Chúa, Một đức tin, cùng với đức cậy, được biểu dương bằng đức bác ái mục vụ để phục vụ dân Thiên Chúa.

45. Đức khiêm nhường. Theo truyền thống, đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức[16]. Luôn củng cố một sự lệ thuộc tuyết đối vào Thiên Chúa và một sự nghi ngờ lành mạnh đối với bản thân, kẻ dấn mình vào bậc độc thân không thể tự kiêu về đức hạnh của mình và tin tưởng rằng có thể tự mình tìm được sức mạnh để sống. Trái lại đức khiêm nhường mời gọi họ tự phó thác cho Thiên Chúa, tìm ra những nhược điểm của mình và biết bàn hỏi để đứng vững trong sự trung tín.

Những trợ lực thiêng liêng giúp sống trung thành trong bậc độc thân

46. Hãy kể trong những trợ lực quan trọng nhất:

A. Việc linh hướng. Bất hạnh thay chúng ta phải thừa nhận là việc lui tới thường xuyên với một vị linh hướng hay một cha giải tội quen thuộc thường khiếm diện nơi nhiều linh mục. Các vị này nói là khó lòng tìm được một cố vấn thiêng liêng. Nhưng họ có thật lòng tìm không? Với chúng tôi, việc linh hướng ở ngay trọng tâm của chức vụ Xuân Bích của mình[17]. Việc chúng tôi sẵn sàng đón nhận những anh em linh mục của mình, mà rất nhiều vị đã nhận từ chúng tôi việc đào tạo khởi đầu, luôn đi đôi với mối bận tâm của chúng tôi là chính mình phải được hướng dẫn thiêng liêng. Kinh nghiệm cho chúng tôi thấy lợi ích của việc kiểm điểm thường xuyên về toàn thể đời sống mục tử của mình, và đặc biệt hơn, việc đặt dưới cái nhìn của một người khác những vấn đề thuộc đời sống tình cảm của mình.

B. Việc lãnh nhận đều đặn bí tích hòa giải. Nó là chính yếu để củng cố sự trung thành trong bậc độc thân. Dưới ấn tín của bí tích này, kẻ đã dấn mình trong bậc độc thân xưng thú những lỗi lầm và nhận biết những yếu đuối làm trở ngại mình sống đầy đủ bậc độc thân. Ân sủng chữa lành ban lại sức mạnh và can đảm để trung thành trọn hảo hơn với bậc sống của mình. Ngoài ra bí tích hòa giải mang lại cho việc cải hóa chiều kích đầy đủ của nó về việc hiệp thông vào mầu nhiệm Đức Kitô tử nạn và phục sinh. Nó cũng làm cho việc biết mình đã nói trên đây được đầy đủ chiều kích đối thần.

C. Những thực hành việc cầu nguyện cá nhân. Những việc này cũng trở thành một trợ lực quan trọng cho bậc độc thân sống trong khiết tịnh. Giữa những việc này phải kể riêng Lectio Divina qua đó người chủng sinh tự đặt mình dưới Lời Chúa để quy hướng đời mình theo Đấng mà vì Ngài mọi sự được dựng nên (Col 1, 16); Việc nguyện gẫm và suy niệm qua đó họ tiến sâu vào những mầu nhiệm cao cả của đời sống Đức Kitô; việc xét mình riêng và tự vấn lương tâm qua đó họ có thể mỗi ngày đặt đời sống mình cách rõ rệt hơn dưới cái nhìn của Thiên Chúa; những cuộc tĩnh tâm và cấm phòng cho phép phục sức lâu hơn và quy hướng đời mình dài hạn hơn. Không thể chối cãi được rằng có một dây liên hệ chặt chẽ giữa lời cầu nguyện cá nhân và đời độc thân trong mức độ cuộc sống độc thân này là một hồng ân cần phải liên lỷ cầu xin và đón nhận; cũng trong mức độ mà lời cầu nguyện làm cho ta tách mình khỏi bản thân để mở lòng ra cho Thiên Chúa và cho anh em mình, và như vậy nối kết với động lực sâu thẳm của đời độc thân.

D. Những toán nâng đỡ huynh đệ và các bạn bè. Họ có thể giúp có những liên hệ lành mạnh khiến dễ dàng nắm giữ một đời độc thân quân bình. Trong những liên hệ đơn giản và ngay thẳng này với các anh em linh mục, với các gia đình sống đức tin kitô giáo, các linh mục tìm được dịp dễ giãi bày dễ dàng hơn và cởi mở hơn. Nhờ đó họ được hưởng một sự nâng đỡ và một sự khích lệ để sống đầy đủ bậc độc thân của mình.

E. Phụng vụ. Thánh thể là nguồn suối và là chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội, khi biết cử hành cách trung thành, linh mục tự trầm mình sâu xa hơn trong mầu nhiệm phục sinh.Chính ở đó ngài thấy được ý nghĩa của đời mình, với những niềm vui và lao nhọc, và ngài kín múc được sức mạnh để nắm giữ những cam kết của mình. Chính ở đó, với tư cách mục tử ngài có thể kết hợp với Chúa Kitô Đấng ban sự sống cho thế gian (P.O. số 14).

Ngoài ra, cũng như năm tháng được thánh hóa bởi những mùa phụng vụ, ngày sống, đến lượt nó, cũng biến đổi thành “thời giờ của Thiên Chúa” nhờ phụng vụ các giờ kinh. Việc thánh hiến cho Thiên Chúa mọi giây phút của cuộc sống, đối với linh mục, trở thành biểu hiệu của sự thánh hiến trong sự trao phó bản thân. Nó giúp ngài ý thức được điều đó và sống vững vàng trong đó.

Đào tạo trí thức

47. Có một sự liên hệ giữa việc tìm kiếm chân lý và đức trong sạch. Mở lòng đón nhận chân lý theo đúng nó, không áp đặt lối nhìn riêng tư của mình, tôn trọng sự xác tín của người khác, không bào chữa cho lập trường của mình bằng những lý luận xảo trá, tất cả những điều đó giả thiết một sự trong sạch tinh thần, tức là thái độ khiêm tốn trước chân lý. Việc đào tạo trí thức trong một chủng viện phải sắm cho các linh mục tương lai những đức tính gần gũi với đức trong sạch: yêu mến chân lý, tôn trọng ý kiến người khác với sự tự do của họ, từ chối dùng óc thông minh của mình để làm áp lực trên người khác.

48. Về những gì liên hệ tới bậc độc thân nói riêng, tất nhiên phải có một suy tư đặc biệt sâu sát và đầy đủ trong giai đoạn đào tạo khởi đầu. Dĩ nhiên việc đào sâu ý nghĩa của bậc độc thân phải được theo đuổi trong suốt cuộc sống, vì đây chính là cuộc dấn thân trọn đời. Nhưng những yếu tố chính yếu phải được thủ đắc trong khi còn đang ở chủng viện, cho dù sau đó phải tốn phí thêm để lặp lại ở những giai đoạn khác nhau của cuộc đời. Dưới đây là những yếu tố đó: khoa thần học về tình yêu Ba Ngôi được mặc khải trong Chúa Kitô, căn bản chính yếu để hiểu về bậc độc thân khiết tính; sự thích hợp của bậc độc thân với chức tư tế thánh; lịch sử bậc độc thân và ý nghĩa thiêng liêng của nó; những tài liệu của Huấn Quyền về bậc độc thân; những nền tảng thần học và thánh kinh về bậc độc thân khiết tịnh, nhất là khởi đi từ những viễn ảnh nhập thể, cánh chung, giáo hội học và thánh kinh học.

49. Việc giảng dạy về ý nghĩa của bậc độc thân sống trong khiết tịnh phải được phân bổ cách tiên tiến và thích ứng nương theo toàn thể lộ trình đào tạo. Ngoài khoa thần học, phải nhờ đến những khoa khác, như tâm lý học, giới tính học và luân lý giới tính cũng sẽ rất cần thiết. Trong thời gian đào tạo thần học, nhân loại học kitô giáo, thần học về chức tư tế thánh hiến, về hôn nhân và gia đình, giáo hội học và thần học thiêng liêng cũng là bấy nhiêu lãnh vực trong đó ý nghĩa của bậc độc thân phải được cứu xét và đào sâu.

50. Người ta phải lưu ý bảo đảm rằng việc giảng dậy của Giáo Hội về những gì liên hệ tới bậc độc thân sống trong khiết tịnh đã được hấp thụ hoàn toàn bởi các chủng sinh. Cộng tác vào đó là việc linh hướng, việc làm trong những toán suy tư nhỏ, tự đánh giá bản thân – nhất là bản đánh giá mà chủng sinh phải làm khi viết đơn xin chịu chức phó tế – chuẩn bị được gọi chịu chức và các cuộc thi kiểm tra về thần học và triết học. Bổn phận và trách nhiệm của cả toán đào tạo là phải kiểm tra xem sự sở hữu một sự hiểu biết tốt về bậc độc thân có được thể hiện thực sự không. Sự sở hữu này phải được thực hiện cả tòa trong lẫn tòa ngoài. Vì lý do đó chính toán đào tạo phải rà xét từng thời kỳ những xác tín riêng của mình về vấn đề này.

Đào tạo mục vụ

51. “Toàn bộ việc đào tạo các ứng sinh linh mục có mục đích là chuẩn bị họ bước vào sự thông hiệp với đức ái của Đức Kitô, Mục Tử Nhân Lành. Vì thế mọi khía cạnh của việc đào tạo phải mặc một đức tính căn bản mục vụ” đó chính là lời Pastores Dabo Vobis dẫn nhập chương nói về đào tạo mục vụ. Chúng tôi đã nhấn mạnh rằng, đức ái mục vụ hướng dẫn và sinh động đời sống thiêng liêng của linh mục[18]. Nó là hoa quả của Thánh Thần ngự trị trong vị tư tế thánh hiến, làm cho ngài nên đồng hình dạng với Đức Kitô Mục Tử và mời gọi ngài cộng tác vào chức tư tế của Đức Kitô luôn luôn hiện tại trong thế giới. Do sự cần mẫn rộng lượng rao giảng Tin Mừng, cử hành các bí tích, lắng nghe tiếng kêu của những kẻ bị áp bức, làm nhẹ bớt sự cơ cực của những người nghèo khổ, linh mục làm tỏ hiện chức vụ của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành của đoàn chiên mình[19]. Làm thế linh mục loan báo việc Nước Trời ngự đến mà mỗi kitô hữu hằng mong đợi. Qua bậc độc thân ngài bày tỏ niềm hy vọng đó một cách đặc biệt trong đời sống mình.

52. Trong những năm thụ huấn, người chủng sinh được từ từ khai tâm vào chức vụ của mình bằng một chương trình thực tập mục vụ gồm những yếu tố sau đây: hiện diện và tập sự một trách nhiệm tại một địa điểm mục vụ, kiểm điểm, suy tư thần học và đánh giá. Nhờ vào sự đào tạo đó, người chủng sinh kiện toàn những năng khiếu của mình để trở thành mục tử. Những đức tính dưới đây phải được rèn luyện và phát triển.

A. Tinh thần tông đồ. Cha Olier đã quý trọng tinh thần này trên tất cả mọi sự và đã xin người ta cầu nguyện để mình nhận được tinh thần đó và làm triển nở thêm. Chính cho các thành viên của chủng viện ngài thiết lập mà ngài đã viết:

“Chủng viện Xuân Bích sẽ được tất cả những ai bước chân vào coi như một trường tông đồ tại đó tất cả đều được tập họp dưới sự che chở của các thánh Tông Đồ, hầu học biết các tôn chỉ của các Ngài, cầu khẩn tinh thần của các Ngài, bắt chước các đức tính của các Ngài và sống phù hợp với Tin Mừng các Ngài đã rao giảng. Bởi đó tất cả những ai sống tại đây đều phải coi mình như là những học viên và những môn đệ nhỏ của những bậc thầy cao cả này. Họ đến để lợi dụng ngôi trường tông đồ này và tập luyện cho mình, với sự trong trắng tối đa, một sự hiểu biết sống động về Chúa Thánh Thần và về những nhân đức phúc âm[20].”

Những người có trách nhiệm trong các chủng viện tìm cách đào tạo nơi các chủng sinh lòng nhiệt thành tông đồ, đức ái mục vụ, một sự hoàn toàn sẵn sàng cho công việc của Chúa Thánh Thần như được tỏ lộ trong công tác mục vụ, với lòng mong ước sâu thẳm sống những đức tính phúc âm: khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.

B. Chúng tôi đã nhiều lần gợi đến sự “thích hợp” giữa bậc độc thân khiết tịnh và tinh thần tông đồ như nó được diễn đạt trong chức vụ linh mục (1 Co 7, 32). Vậy ở đây không cần thiết nói lại nữa. Tuy nhiên, không phải chính tình trạng độc thân tự nó bảo đảm cho tinh thần tông đồ, và tinh thần tông đồ cũng không phải là bảo đảm cho một sự dấn thân vững chãi vào bậc độc thân. Vậy các nhà đào tạo phải kiểm tra và giúp cho chính các chủng sinh phải kiểm tra mối dây liên hệ họ đặt giữa cả hai; một bên họ phải tìm xem tinh thần tông đồ có được sinh động và thúc đẩy bởi sự hiến thân cả xác hồn cho Chúa không, và bên kia, sự hiến thân có kéo theo một sự tăng trưởng về tinh thần tông đồ không.

C. Đức ái mục vụ. Chiều kích tương thuộc của bậc độc thân sống trong khiết tịnh, mà tầm quan trọng đó được nhấn mạnh trong phần đào tạo nhân bản, hiển lộ đầy đủ ở đây, trong chức thừa tác mục vụ. Giữa những phẩm tính đặc biệt có ý nghĩa phải kể: một khả năng yêu mến cộng đồng mà linh mục được sai đến, kết hợp với một tình yêu mục vụ đối với mỗi người; một sự nhiệt tâm nhân bản chân thật trong những liên hệ với người khác; một khả năng duy trì những liên hệ lành mạnh với mọi người, không phân biệt cũng không loại trừ ai. Một sự lưu ý đặc biệt phải được dành cho phẩm cách liên hệ với các phụ nữ là những người mà mà ngày nay với họ linh mục thường làm việc hơn là với đàn ông. Mối liên hệ này, chính yếu được biểu thị bằng sự trọng kính và đơn sơ không quyến rũ hoặc có gian kế, cũng không có tính cách cha chú hay chiều chuộng, hoặc tìm tư lợi. Sự quân bình trong địa hạt này thường rất khó nắm giữ: ai nói trọng kính không nói xa tránh sợ sệt.

D. Khôn ngoan (Thận trọng). Nhân đức này có một tầm quan trọng chính yếu trong trạng huống mục vụ. Vị linh mục đã dấn thân trong bậc độc thân sẽ thực hành nhân đức này bằng nhiều cách: trong cách xử trí những hoàn cảnh tế nhị trong đó ngài luôn tìm cách tôn trọng những con người có liên hệ; trong khả năng sống và giải quyết những tranh chấp chiếu theo chân lý và tìm kiếm sự hòa giải; trong sự tự chủ được sự căng thẳng thần kinh (stress); trong sự tôn trọng các “giới hạn” tâm lý và thể chất trong nội bộ các liên hệ của mình; trong năng khiếu tổ chức cuộc sống riêng của mình và giữ được thế quân bình trước sức tấn công của những đòi hỏi khác nhau; trong khả năng quản trị các giai đoạn chuyển tiếp trong đời sống tư của mình.

Sự khôn ngoan cũng khuyến khích người chủng sinh hay linh mục lưu ý đến phẩm cách những giao tế của mình qua lời nói. Những chuyện trò của họ phải phản ảnh một sự dấn thân thật rõ rệt đối với toàn thể sứ mệnh kitô giáo, một khả năng phê bình để đọc ra các dấu hiệu của thời đại dưới ánh sáng Phúc Âm, biết từ chối một bài diễn giảng không tưởng, biết thích nghi khôn khéo ngôn ngữ của mình để Tin Mừng cứu rỗi được lắng nghe cách rõ ràng. Trong một địa hạt đặc biệt hơn (giới tính), dùng những kiểu nói có nghĩa đôi hoặc để lộ ra những hiểu ngầm sẽ gây nên một phản chứng đối với đức khiết tịnh.

E. Sự dấn thân trong đời sống mục vụ. Chính trong công việc mục vụ đối với người khác, mà vị linh mục dấn thân trong bậc độc thân, diễn đạt cách rõ rệt nhất tình yêu hiến thánh của mình. Trong chính nội tâm của thánh chức mình mà ngài thấy được nguồn mạch và ý nghĩa đời sống thiêng liêng của mình (Presbyterorum Ordinis, số 12 [21]). Mối liên hệ giữa ngài với Đức Kitô sinh động thánh chức của ngài cùng lúc thánh chức của ngài lại nuôi dưỡng mối liên hệ giữa ngài với Chúa Kitô. Tất nhiên linh mục nào cũng biết rằng mình có thể được Đức Giám Mục của mình gọi tới những nhiệm vụ sẽ đặt mình ít có liên lạc với giáo dân và các đoàn hội. Nhưng phải tự hỏi về ơn gọi của một chủng sinh chỉ mong ước một chức vụ loại đó hơn là một chức vụ cổ điển (mục vụ).

F. Khả năng cai quản. Vị mục tử có thể tự định nghĩa trong việc ngài điều khiển cộng đồng như là một “lãnh tụ-tôi tớ”. Ngài có sứ mạng dẫn dắt những người được giao phó cho mình trên con đường đức tin và sự sống trong Giáo Hội; nhưng một trật ngài giúp họ khám phá ra ơn gọi riêng của họ và khơi dậy những trách nhiệm của họ. Xét tới cùng, ngài phân định ra con đường đúng, nhưng ngài cũng phải khuyến khích giáo dân phải sống sự phân định và cộng tác vào đó với Ngài. Ngài đại diện Đức Kitô Mục Tử nhưng để phục vụ tốt hơn những người đã chịu phép Rửa trong chức tư tế của họ. Để dẫn dắt cộng đoàn, ngài phải tỏ ra vững vàng, biết tôn trọng chân lý, nhưng cũng phải nhân từ và biết lắng nghe. Ngài tập họp và lôi kéo mọi kitô hữu theo cùng một hướng đi, nhưng cũng tôn trọng ơn gọi của mỗi người.

Trong thực tế, ngài thi hành uy lực và quyền bính một cách đặc biệt, biểu lộ bởi chính bản tính của Giáo Hội. Quyền bính của ngài có nguồn suối trong sự tùng phục đối với Tin Mừng cứu độ, với Truyền Thống và giáo huấn của Giáo Hội. Nhưng ngài chỉ dùng quyền lực của mình để giúp đỡ người khác[22]. Ngài không muốn loại trừ một ai, nhất là đối với ngài không thể có vấn đề dùng quyền hành để làm áp lực trên những cá nhân hay đoàn thể, huống hồ nếu điều đó xảy ra trong lãnh vực tình cảm và giới tính. Những lạm dụng giới tính trên một người khác, như người ta đã thấy vi phạm trong những thập niên qua không những là sự phạm thánh lớn lao nhất đối với những lời khấn sống khiết tịnh mà linh mục đã tuyên đọc, chúng cũng còn là sự băng hoại hoàn toàn việc sử dụng quyền bính. Chúng gây một tổn thương to lớn cho nạn nhân bị lạm dụng nhưng cũng cho toàn thể Giáo Hội và cho linh mục đoàn. Hơn nữa mọi lạm dụng quyền bính, xét ở cấp bậc nào đi nữa, còn có một vết hằn tình cảm kèm theo, vì nó dẫn tới tinh thần thống trị nơi mà đúng ra chỉ có tình yêu vô vị lợi và sự phục vụ cụ thể tha nhân vì chính họ phải ngự trị mà thôi.

NHỮNG YẾU TỐ CẤU TẠO

MỘT LỘ TRÌNH ĐÀO TẠO BẬC ĐỘC THÂN:

VIỄN CẢNH CHUNG

53. Vì lý do có sự khác biệt về những cảnh huống văn hóa trong đó Hội Xuân Bích hoạt động, nên không thể trình bày chỉ nguyên một cách tiếp cận duy nhất về việc đào tạo bậc độc thân trong tất cả các chủng viện Xuân Bích. Chúng tôi đã chỉ tìm để thu thập lại trong một toàn thể hữu cơ những kinh nghiệm khác nhau mà chúng tôi đã thấy là tích cực trong các chủng viện của chúng tôi.

Việc thâu nhận vào chủng viện

54. Việc thâu nhận vào chủng viện chỉ diễn ra sau một thời gian biện phân được làm trong giáo phận nhà với các ứng sinh. Dĩ nhiên là phải kiểm tra xem ứng sinh có khả năng sống bậc độc thân không. Vậy phải đặc biệt lưu ý đến những điểm dưới đây, chúng cũng liên quan đến năm dự bị và các toán chuẩn bị.

Ứng sinh phải đã sống một thời gian khá dài trong đời độc thân cách tinh sạch trước khi bước vào chủng viện. Nếu ứng sinh đã có những liên hệ khó khăn với gia đình mình, thì phải giải quyết cho xong trong nội bộ, ít là những gì chính yếu. Khả năng tín cẩn vào tha nhân của anh phải được thử thách, cũng như nói tổng quát, anh phải có năng khiếu liên hệ với người khác lành mạnh cởi mở và nói về tha nhân cách tích cực và ngay thẳng. Anh cũng còn phải tự biết mình, tự chấp nhận đủ bản thân mình. Anh cũng không được biểu lộ những dấu hiệu ỷ lại hay phụ thuộc vặt vãnh. Anh phải dùng những phương tiện thông tin cách lành mạnh và thích hợp (kể cả việc truy cập mạng – Internet). Anh phải tỏ ra một sự tự chủ bản thân tốt, giúp cho có một sự tự lập cá nhân đúng mức. Về đời sống luân lý, anh đã phải bắt đầu thâu nạp giá trị của những nhân đức cơ bản[23]. Cách anh sống đời sống thiêng liêng phải quân bình không gò bó. Anh cũng phải có óc cởi mở với đời sống trí thức và biết tôn trọng những đòi hỏi của nó.

Những năm Triết học (chu kỳ I)

55. Khi ứng sinh đến trình diện tại chủng viện, anh bước vào một quá trình đào tạo trong đó anh sẽ được khai tâm từ từ vào đời sống linh mục. Sự tín nhiệm anh dành cho quá trình đào tạo ấy, như là một lời mời gọi của Chúa Thánh Thần để tiến lên, là một điều kiện cho sự tiến triển tốt của anh. Sự tín nhiệm đó tất nhiên là phải đặt vào những người mà Giáo Hội trao trách nhiệm dẫn dắt lộ trình đào tạo này.

56. Đặc biệt về việc khai triển một bậc độc thân sống trong khiết tịnh, những nhà đào tạo sẽ lưu tâm giúp đỡ các chủng sinh biết chấp nhận và sống nghiêm chỉnh tinh cách công khai của căn tính mình, với những khả năng và giới hạn mà điều đó đòi buộc trong lãnh vực ngôn từ và hành động. Các ngài cũng phải giúp phát triển nơi các chủng sinh sự sẵn sàng phục vụ và cộng tác trong việc hành sử quyền bính. Khả năng bắt liên hệ với những người có văn hóa khác biệt và trình độ kinh tế-xã hội đa dạng, sự ưu tư đặc biệt đối với những người nghèo và ngoại kiều cũng phải được làm phát triển kỹ càng.

57. Đời sống độc thân khiết tịnh, như chúng ta đã thấy, không phải không liên hệ với lời cầu nguyện. Dấn thân vào một đời cầu nguyện được xếp đặt ngăn nắp, gồm phụng vụ các giờ kinh, Thánh Thể và cả việc nguyện gẫm khởi đi từ Lời Chúa, sẽ làm thành một trong những yếu tố giúp tiến bộ trong việc hiến dâng bản thân. Sự khai tâm vào những cách thức khác nhau để nguyện gẫm (vẫn dành một chỗ đặc biệt cho phương pháp Xuân Bích), vào Lectio Divina, vào ý nghĩa của sự hiện diện thường xuyên của Thiên Chúa hầu có thể gặp Ngài trong thinh lặng và cô tịch, vào sự trầm mặc, vào sự thực hành việc tự vấn lương tâm thực hành trong viễn tượng của sự chấp nhận trong sáng Lời Thiên Chúa và ân ban của Thánh Thần.

58. Trong khoảng thời gian những năm đầu ở chủng viện, ứng sinh sẽ được dẫn dắt vào sự hiểu biết về giới tính con người, bắt đầu từ những dữ kiện sinh lý học, tâm lý học và cách giải thích chúng trong thần học luân lý. Những lớp học tâm lý sẽ phân tích cho biết những ham muốn và tình ái cốt tại điều gì trong địa hạt giới tính. Về những điểm này người ta sẽ trung thành tuân theo những giáo huấn của Giáo Hội trong thần học về thân xác mà Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã đặc biệt khai triển.

Những năm Thần học đầu tiên

59. Để một chủng sinh có thể bước vào năm thứ nhất thần học, anh phải bày tỏ một ý hướng vững chắc muốn tiến tới chức thánh. Nhưng những người đào tạo cũng phải ghi nhận xem trong anh có sự trưởng thành về tâm lý và thiêng liêng đủ để anh được chấp nhận như ứng viên vào chức linh mục không. Đặc biệt, anh phải có một lòng quý mến tích cực đối với giáo huấn của Giáo Hội về bậc độc thân khiết tịnh. Anh sẽ coi đó không phải như một kỷ luật áp đặt từ bên ngoài, nhưng như là một thực tại anh lựa chọn cách tự do và tín cẩn. Anh sẽ không chỉ nhìn nó dưới khía cạnh từ bỏ, nhưng nhất là cũng coi như một cách để sống đức bác ái mục vụ. Điều đó có thể được kiểm chứng qua sự liên hệ công minh và tôn trọng của anh đối với tha nhân, qua sự quan tâm mục vụ đòi anh phải sống một tình yêu luôn sẵn sàng đối với dân chúng và cộng đồng.

60. Nơi chốn ưu tiên nhất đề người chủng sinh nói về sự dấn thân của mình vào bậc độc thân và về cách thức của anh sống bậc ấy là khi làm linh hướng. Với cha linh hướng mình anh sẽ nói cách thẳng thắn và cởi mở. Anh cũng phải biết chứng minh nơi cộng đồng về tình trạng độc thân của anh; anh phải biết trình bày ý nghĩa những thách đố, những đòi hỏi của bậc này.

Những thực tập mục vụ sẽ góp phần giúp để kiểm tra khả năng của anh về những liên hệ mục vụ đúng mức và đúng đắn với người khác, cả trong những giới hạn phải biết kính trọng cũng như trong sự tiếp đón người khác cách thân tình.

61. Trong thời gian diễn ra giai đoạn đào tạo này, giáo huấn ban bố về bậc độc thân sẽ gồm có một suy tư thần học được khai triển sâu rộng hơn về ý nghĩa của bậc độc thân của các thừa tác viên và sự thích hợp của nó với chức tư tế, cũng như về những mối liên hệ của nó với bậc độc thân của các bậc sống khác trong Giáo Hội, đặc biệt là của các tu sĩ dòng. Người ta cũng sẽ trình bày sâu rộng về lịch sử của bậc độc thân của các tư tế thánh hiến. Một sự suy tư loại thần học và thiêng liêng rút ra từ những gì được sống trong việc thực tập mục vụ sẽ giúp để nhìn thấy độ hấp thụ và nội tâm hóa sự dấn thân vào đời sống độc thân.

Những năm Thần học cuối cùng.

Chuẩn bị trực tiếp để chịu chức.

62. Trong thời gian diễn ra giai đoạn cuối cùng này, cũng những phương pháp trên đây phải được đem dùng. Nhưng đặc biệt việc thực tập mục vụ phải có trọng lượng hơn để cho phép kiểm tra sự bám rễ sâu xa cá nhân vào những đức tính đòi buộc bởi cuộc sống của vị mục tử sống trong bậc độc thân.

Một ứng sinh chỉ sẵn sàng để được truyền chức sau những năm dài biện phân bởi chính người chủng sinh, bởi những nhà đào tạo, với bởi Giáo Hội địa phương. Sẵn sàng để dấn thân giả thiết những tâm tính sau đây: đã nhập tâm đủ những khía cạnh khác nhau theo đặc tính riêng và sự bổ sung của chúng; đã sở hữu được cách bình thản căn tính độc thân sống trong khiết tịnh của mình và hân hoan chấp nhận nó; có khả năng cân nhắc cách nghiêm túc và thực tế những đòi hỏi của bậc độc thân và có đủ trưởng thành để nắm giữ lời khấn hứa; đủ sáng suốt về những thánh giá đi đôi với sự cam kết đó và sẵn sàng vác lấy như một sự tham dự vào nhiệm phục sinh; đã xếp đặt đâu vào đấy một đời sống cầu nguyện vững chãi cho phép đủ khả năng dẫn dắt lời cầu nguyện của kẻ khác; đã tích hợp tốt những mối liên hệ giữa sự nghèo khó, vâng phục và đời độc thân; cảm nghiệm và bày tỏ trong đời sống mình một đức ái vụ chân thật bằng cách tự nhận mình là một “lãnh tụ-tôi tớ” của dân Thiên Chúa.

Đào tạo thường xuyên

63. Linh mục luôn phải sống cách thường xuyên sự dấn thân của mình vào bậc độc thân. Điều đó bao hàm ngài phải thường xuyên tái chiếm hữu và thâu nạp sự dấn thân đó trong định hướng của đời mình. Có nhiều phương thế giúp ngài trong chiều hướng đó: việc linh hướng, những đánh giá định kỳ (đối với những linh mục trẻ, những toán đời sống là đặc biệt hữu ích), những cuộc gặp gỡ giữa các bạn đồng nghiệp, những buổi tĩnh tâm và những kỳ cấm phòng năm, những ngày học hỏi. Nếu có những khó khăn đặc biệt xuất hiện, người ta không ngần ngại khuyên linh mục chạy với những phương pháp chuyên biệt, chẳng hạn như đi gặp một nhà tâm lý y học. Nhưng việc linh hướng, như ở chủng viện, sẽ là nơi ưu tiên tại đó có thể trình bày những khó khăn và niềm vui. Khi sắp tới ngày truyền chức, các nhà đào tạo của chủng viện sẽ khéo léo giới thiệu cho các chủng sinh việc linh hướng như là một phương pháp tiến bộ không những chỉ dành riêng cho thời gian đào tạo, nhưng phải được tiếp tục mãi mãi sau khi đã rời bỏ chủng viện.

64. Linh mục phải biết kiểm định nơi mình hoặc nơi anh em linh mục, những dấu hiệu báo động trong địa hạt sống trung thành với bậc độc thân. Chẳng hạn: một đời sống cầu nguyện rất thất thường và hời hợt; những thói quen sống lẻ loi và sự từ chối tham dự các cuộc gặp gỡ cấp giáo phận và các cuộc cử hành với Đức Giám Mục; những cuộc gặp gỡ thường xuyên chỉ với một nhân vật, gây tổn thương đến những liên hệ khác; một sự thiếu nghị lực trong việc chu toàn những bổn phận mục vụ hoặc trái lại một sự hiếu động đáng nghi ngờ; một sự thiếu trọng kính đối với các anh em linh mục hoặc đối với các kitô hữu khác; một sự tiêu thụ quá độ về của ăn hay rượu chè; một sự trang bị quá lớn về của cải vật chất không thật sự cần thiết; sống thiếu vệ sinh; vắng mặt thường xuyên ngoài giáo xứ; hay dùng những cảnh sắc truy cập mạng (Internet) hoặc những sách báo dâm ô hay khiêu dâm; thói quen nói xấu người khác hoặc dùng một ngôn ngữ nghĩa đôi (lời hai ý).

Đào tạo thường xuyên các linh mục Xuân Bích

65. Trong nhiệm vụ của chúng ta là những nhà đào tạo, chúng ta cũng gặp cùng những nguy hiểm đó, và chúng ta cũng bị đặt trước những cám dỗ cùng loại với các anh em linh mục của chúng ta trong chức vụ của họ; phẩm cách của sự khiết tịnh nơi chúng ta được biểu lộ trong thái độ của chúng ta đối với các chủng sinh. Chúng ta có thể để họ trở thành tùy thuộc vào chúng ta hay ngược lại; nếu những liên hệ của chúng ta đối với họ là độc quyền hoặc chiếm hữu, nếu chúng ta để cho gây nên chung quanh chúng ta những toán môn đệ nhỏ, nếu chúng ta tỏ ra thiên vị đối với một số người. Để giảm thiểu những nguy hiểm đó, các vị giám đốc chủng viện phải đặc biệt lưu ý giữ quân bình tối đa giữa các vị linh hướng về số lượng các chủng sinh được hướng dẫn.

66. Nhưng cũng có những nguy hiểm khác gắn liên với chức vụ của chúng ta: thiếu thiện cảm đối với Hội và sứ mạng của Hội, giống như một tu sĩ thiếu thiện cảm đối với sứ mạng của Hội Dòng mình, như một linh mục thiếu thiện cảm đối với Giáo Hội địa phận mình. Điều đó có nghĩa là tâm hồn chúng ta không thật sự ở nơi nó đã tự hiến dâng. Cũng giống thế trong đời sống cụ thể khi một vị giám đốc không tham dự điều đặn vào những thực hành đạo đức của đời sống chung, hoặc khi trước mặt các chủng sinh, hay khi ở ngoài, ngài sống sai biệt đối với những quyết định của Hội Đồng[24].

67. Thượng Hội Đồng mới đây của các Giám Mục về Thánh Thể đã tái khẳng định mạnh mẽ rằng Giáo Hội phải tiếp tục đón nhận như ứng sinh vào chức linh mục những ai được kêu gọi sống độc thân suốt đời. Trong Hội Linh mục Xuân Bích, sự mong mỏi nồng nhiệt của chúng ta là làm hết sức để biện phân ơn gọi sống độc thân đó để chuẩn bị cho các ứng sinh sống những lời khấn hứa khi chịu chức cách lành mạnh nhất. Xin Chúa giúp sức và nâng đỡ chúng ta trong trách vụ này. Xin Ngài cũng cho phép chúng ta giúp đỡ những người đã được giao phó cho chúng ta biết đào sâu sự dấn thân của họ. Chớ gì Chúa giúp chúng ta kiên vững sống trung thành với sự dấn thân riêng của chúng ta để phục vụ Nước Thiên Chúa.

Kết luận

Trong khi kết thúc việc suy tư này, chúng tôi muốn nhấn manh đến vai trò mà việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria nắm giữ trong việc đào tạo các linh mục sống bậc độc thân. Trong truyền thống Xuân Bích, lòng tôn sùng Đức Mẹ giữ một chỗ rất lớn, ai cũng biết điều đó. Đức Maria Đấng đã giáo hóa Chúa Giêsu Hài Đồng và đã dẫn dắt Ngài đến tuổi trưởng thành nhân bản, tất nhiên phải luôn hiện diện trong việc đào tạo các linh mục và đặc biệt trong việc đào tạo học để sống bậc độc thân.

Qua sự đồng trinh và khiết tịnh của mình, Mẹ đã hiến dâng bản thân cho Chúa một cách hoàn toàn đặc biệt. Sự hiến dâng của Mẹ không thể tách rời khỏi sứ mệnh duy nhất mà Mẹ đã lãnh nhận trong lịch sử cứu độ: ban Con của Mẹ cho thế giới. Vậy Đức Trinh Nữ Maria hướng chúng ta tới sự hiểu biết về bậc độc thân như là sự hiến dâng bản thân để mở thế giới này ra cho Chúa Kitô ngự đến. Hiến dâng và sứ mệnh không thể tách rời nhau trong mọi ơn gọi kitô giáo. Thế thì cũng vậy trong ơn gọi của các linh mục. Việc truyền chức hiến dâng họ cho Chúa Kitô để họ được sai đi trong thế giới loan báo Phúc Âm. Sự chọn lựa bậc độc thân diễn ra trong ý nghĩa một sự nên đồng dạng với Chúa Kitô và cả trong cách sống riêng tư nhất, sâu kín nhất của Ngài. Nhất là vì lý do đó mà, mặc dù không tuyệt đối phải liên kết với chức vụ linh mục, bậc độc thân vẫn có một sự thích hợp đặc biệt với chức vụ này.

Mẫu mực của đức đồng trinh và khiết tịnh, Đức Trinh Nữ Maria đối với các linh mục và các linh mục tương lai là một trợ lực quý báu để đưa dẫn họ trên chính con đường bắt chước Con của Mẹ, con đường trên đó Mẹ đã đi trước chúng ta hết thảy.


[1] Trong khoảng năm mười năm gần đây, người ta đã có chuẩn nhượng, đặc biệt cho các mục sư anh giáo và lu-tê-rô được nhận vào Giáo Hội la-tinh khi họ đã kết hôn trước đó rồi

[2] x. Maurice VIDAL p.s.s “Le célibat des prêtres est-il apostolique?”, in Requalifier le ministère presbytéral, n0 109, Jeunes et vocations (mai 2003), pp. 63-71. Tác giả khai triển một phân tích rất thích đáng về sự diễn tiến của các luận cứ liên hệ đến bậc độc thân linh mục. Tác giả cũng nghiệm xét những nền tảng của vấn đề trong Tân Ước. Tài liệu tác giả trích dẫn là cuốn Directoire pour la formation au célibat sacerdotal (1947), n0 13.

[3]

[4] “Nhưng bậc độc thân có nhiều điều thích hợp với chức linh mục. Sứ mệnh của linh mục là dâng hiến toàn thân cho việc phục vụ nhân loại mới mà Đức Kitô, chiến thắng tử thần, đã làm phát sinh do Thánh Thần của Ngài trong thế giới, một thế giới có nguồn gốc không phải “từ máu huyết”, cũng không phải từ một ý muốn xác thịt, hay một ý muốn nam nhân, nhưng từ Thiên Chúa” (Ga 1,13). Trong khi giữ đức trinh khiết hay bậc độc thân vì Nước Trời (Mt 19,12) các linh mục tự hiến mình cho Đức Kitô một cách mới mẻ và đặc ưu, thì họ sẽ dễ dàng hơn để gắn bó với Ngài mà trái tim không bị chia sẻ (1 Co 7, 32-34), họ được tự do để tự hiến mình, trong Ngài và qua Ngài, cho việc phục vụ Thiên Chúa và con người, được sẵn sàng hơn để phục vụ Nước Chúa và việc tái sinh thiêng liêng, được có khả năng hơn để đón nhận rộng rãi chức làm cha trong Đức Kitô. Như thế họ sẽ làm chứng trước mặt mọi người là họ muốn hiến thân không bị chia sẻ cho nghĩa vụ được giao phó cho họ: đính hôn các kitô hữu với Phu Quân duy nhất như một trinh nữ trong sạch để hiến dâng cho Đức Kitô (2 Co 11, 2); họ gợi lên hôn lễ nhiệm mầu Thiên Chúa muốn có và sẽ được bày tỏ đầy đủ trong những thời đại tương lai: hôn lễ của Giáo Hội và Phu Quân duy nhất là Đức Kitô. Sau cùng, họ trở thành dấu hiệu sống động của thế giới tương lai, đã hiện diện rồi bằng đức tin và đức ái, nơi các con cái của sự sống lại không còn lấy vợ lấy chống nữa”.

[5] “Như thế Đức Kitô “đối diện” với Giáo Hội. Ngài “nuôi dưỡng và yêu mến Giáo Hội” (Ep 5, 29) bằng cách ban chính đời sống mình cho Giáo Hội. Linh mục được gọi để nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu-Kitô, hôn phu của Giáo Hội. Dĩ nhiên ngài vẫn là thành phần của cộng đồng, xét như tín hữu ở giữa các anh chị em khác được Chúa Thánh Thần kêu gọi. Nhưng với tư cách nên đồng hình dạng với Đức Kitô, Đầu và Mục Tử, linh mục tự đặt mình trong liên hệ phu quân với cộng đồng”. Tuy nhiên sẽ rất thích hợp khi quân bình hóa hình ảnh này với hình ảnh Gioan Tẩy Giả khi ông tuyên xưng mình không phải là phu quân, mà chỉ là bạn của phu quân thôi” (x. Ga 3, 29)

[6] x. Jean-Jacques OLIER, Le directeur spirituel, 87-88.

[7] x. Maurice VIDAL pss. Op.cit., pp. 70-71.

[8] x. Le ministère presbytéral, Synode des Evêques (1971), 20 partie, n0 4, C, về giá trị của dấu hiệu này trong xã hội hiện thời.

[9] x. La formation spirituelle dans les séminaires, Congrégation pour l’Education Catholique (1980), 20 partie, n0 3: “Les sacrifices spirituels”; cũng xem: Jean-Jacques OLIER, “La voie de la perfection, c’est la voie de la croix”

[10] x. Phm v. 10 và 1 Co 4, 14-15, sur la paternité de Paul à l’égard des chrétiens.

[11] Ví dụ, xem những tác phẩm của Ronald WITHERUP pss.

[12] Le ministère presbytéral, Synode des Evêqué (1971), 20 4, C. Cũng xem le Directoire pour le ministère et la vie des prêtres, Congrégation pour le Clergé (1994), § 58. Cũng xem Le célibat des prêtres, encyclique du pape Paul VI (1967), §§ 69 và 72 về tầm quan trọng của một sự lựa chọn tự do và ý thức.

[13] Cũng xem Pastores Dabo Vobis, số 43 về những phẩm cách nhân bản phải duy trì: “Khả năng bắt liên hệ với tha nhân là đặc biệt quan trọng. Điều căn bản đối với một người được gọi để lãnh trách nhiệm một cộng đồng phải là “người sống hiệp thông”. Vì thế, linh mục không được tỏ ra hiếu chiến, nhưng phải nhã nhặn, cởi mở, trung thực trong lời nói và trong đáy lòng, khôn ngoan và thận trọng, quảng đại và sẵn sàng phục vụ, có khả năng tự cởi mở trong một liên hệ chân thành và huynh đệ để khích lệ người khác, sẵn sàng am hiểu, tha thứ và an ủi”.

[14] x. Pastores Dabo Vobis, số 12. Đúng như các Nghị Phụ của Thương Hội Đồng đã nhấn mạnh: “Căn tính của linh mục, cũng như của mỗi kitô hữu, có nguồn suối trong Ba Ngôi hiển phước”.

[15] x. Pastores Dabo Vobis, số 12, về kiểu mẫu Ba Ngôi của mọi căn tính linh mục. “Chính trong nội tâm của mầu nhiệm Giáo Hội, được coi như thông hiệp Ba Ngôi và sai đi truyền giáo mà tất cả căn tính kitô giáo biểu lộ, một trật với căn tính linh mục và chức vụ của ngài. Vì thế, linh mục qua việc thánh hóa ngài nhận trong bí tích truyền chức, được Chúa Cha sai đi, và qua trung gian của Chúa Giêsu-Kitô mà ngài đã nên đồng hình dạng một cách đặc biệt như Đầu của Mục Tử của dân ngài, để sống và làm việc trong sức mạnh của Thánh Thần để phục vụ Giáo Hội và lo cho phần rỗi của thế giới” (23).

“Theo cách thức đó, chiều kích tương hệ của căn tính linh mục có thể được hiểu biết đầy đủ. Chức linh mục được phát sinh từ những chiều kích sâu thẳm của những mầu nhiệm khôn tả của Thiên Chúa, nghĩa là của tình yêu của Chúa Cha, ân sủng của Chúa Giêsu-Kitô và ơn thông điệp của Chúa Thánh thần. Như thế linh mục nhờ bí tích bước vào sự thông hiệp với Giám Mục và với các linh mục khác để phục vụ dân Thiên Chúa là Giáo Hội, và để lôi kéo mọi người đến với Đức Kitô theo như lời cầu nguyện của Chúa: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy giữ gìn chúng trong danh Cha mà Cha đã ban cho con để chúng nên một như chúng ta là một… và như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho chúng cũng ở trong chúng ta để cho thế gian tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17, 11-21). Vì thế bản tính và sứ mạng của chức linh mục thừa tác không thể định nghĩa được ngoài sự đan kết chồng tréo giầu có đó của những liên hệ phát xuất từ Ba Ngôi rất thánh, và kéo dài trong sự hiệp thông của Giáo Hội với tư cách là dấu chỉ và dụng cụ của Đức Kitô, dấu chỉ của sự thông hiệp với Thiên Chúa và sự hợp nhất của toàn thể nhân loại” (25).

[16] x. Jean-Jacques OLIER, Introduction à la vie et aux vertus chrétiennes, chapitre 5.

[17] x. Constitution de la Compagnie des Prêtres de Saint-Sulpice, articles 17 et 18.

[18] Pastores Dabo Vobis, số 21: “Bằng vào sự thánh hiến đó mà Thánh Thần đã trao ban cho ngài quà Bí tích Truyền Chức, đời sống thiêng liêng của linh mục được đánh dấu, khuôn đúc và biểu thị qua những tác động và tư tưởng của Chúa Giêsu-Kitô, Đầu và Mục Tử của Giáo Hội. Đức bác ái mục vụ hệ tại trong chính điều đó vậy”.

[19] Pastores Dabo Vobis, số 15: “Chính vì thế mà các linh mục được mời gọi để kéo dài sự hiện diện của Đức Kitô, vị Linh Mục Thượng Phẩm duy nhất. Các ngài chấp nhận cách sống của Người để bày tỏ nó ra giữa đoàn chiên được giao phó cho các ngài”.

[20] Jean-Jacques OLIER, Divers écrits I, 281.

[21] “Như vậy chính trong khi thi hành chức vụ tinh thần và công lý (2 Co 3, 8-9) họ đâm rễ sâu vào đời sống thiêng liêng, miễn là họ biết cởi mở đón nhận Thánh Thần của Đức Kitô Đấng ban đời sống và dẫn dắt họ. Điều chỉnh đốn đời họ nên trọn lành là những cử hành phụng vụ của họ mỗi ngày, là toàn bộ chức vụ của họ, được thực hiện hiệp thông với Giám Mục và các linh mục”.

[22] x. Pastores Dabo Vobis, số 21: “Vậy quyền bính của Chúa Giêsu-Kitô như là Đầu trùng với việc phục vụ, với sự hiến thân, với sự thánh hiến toàn vẹn, khiêm nhường và yêu thương của Ngài để mưu cầu lợi ích cho Giáo Hội. Mọi việc Ngài làm đều do vâng lời Chúa Cha; Ngài là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa vừa là linh mục vừa là của lễ. Linh đạo của mỗi linh mục đều được khởi hứng trong chính loại quyền bính đó là phục vụ Giáo Hội. Điều đó phát xuất từ sự nên đồng hình dạng của linh mục với Chúa Giêsu-Kitô, Đầu và Tôi Tớ của Giáo Hội. Đó là điều mà thánh Augustinô đã nhắc bảo một Giám Mục trong ngày thụ phong: “Kẻ làm đầu dân chúng trước hết phải nhớ mình là tôi tớ và đừng khinh chê mình là thế. Tôi nói lại: người đó không được khinh chê mình là tôi tớ của nhiều người, bởi vì Chúa các Chúa đã không kinh chê mình là đầy tớ chúng ta”. Đời sống thiêng liêng của những người thừa hành Tân Ước phải được ghi dấu bằng khả năng căn bản là phục vụ dân Thiên Chúa (x. Mt 20, 24tt; Mc 10, 43-44). Các linh mục phải biết giải phóng mình khỏi cơn cám dỗ muốn thống trị luôn hiện diện trong lúc họ thi hành chức vụ mình.

[23] Tức bốn Bản Đức hay tứ Đại Đức: Công bằng, Khôn ngoan, Tiết độ, Sức mạnh.

[24] x. Directoire sur la formation des éducateurs de séminaire, Congrédation pour l’Education Catholique, 1993, n0 35. Người ta đưa ra một miêu tả về sự trưởng thành cảm tính mà những nhà giáo dục phải có: “Như là hậu quả quan trọng của sự trưởng thành đã nhắc đến trên đây, cần thiết là những nhà giáo dục phải có một cảm tính thật quân bình và già giặn. Qua danh từ đó, người ta hiểu là sự tự chủ tự do và vững vàng về thế giới cảm tính riêng của mình. Đó là một khả năng yêu mến và tự ban phát bản thân cách ngay thẳng và trong lành. Kẻ có đức tính đó luôn luôn được thúc đẩy để lưu ý đến người khác và tìm hiểu những khó khăn của họ. Kẻ đó sẽ biết nhìn thấy đâu là ích lợi thật của người lân cận mình, sẽ biết đánh giá với lòng biết ơn và trọng kính sự ái mộ của người khác, sẽ không đòi hỏi hay đặt điều kiện để mới giúp đỡ. Kẻ đã chín chắn về mặt cảm tính sẽ biết không ràng buộc người khác vào mình. Trái lại sẽ đủ khả năng để tạo nên nơi người khác một cảm tính cũng cởi mở sang những người khác nữa. Cảm tính đó sẽ tựa trên tình yêu nhận được từ Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô, Đấng mà cuối cùng người ta luôn phải quy chiếu”. Tất cả chương này (số 23-47) đều được dành cho những đức tính luôn phải có mặt nơi những nhà đào tạo tại chủng viện. Những Hội Đồng Tỉnh Hội và những nhà hữu trách về việc đào tạo Xuân Bích cần phải nghiên cứu kỹ càng văn bản này.

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Ba 2024
H B T N S B C
« Th2    
  1 2 3
4 5 6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17
18 19 20 21 22 23 24
25 26 27 28 29 30 31