CÁC LINH MỤC XUÂN BÍCH VIỆT NAM TĨNH TÂM THƯỜNG NIÊN 2022

Written by xbvn on Tháng Tám 29th, 2022. Posted in Việt Nam, Xuân Bích Thế Giới, Xuân Bích Việt Nam

Từ ngày 26-29/8/2022, các Linh Mục Xuân Bích Việt Nam quy tụ về Đại Chủng viện Huế để tĩnh tâm thường niên. Tình hình đại dịch thời gian qua đã làm gián đoạn cuộc tĩnh tâm chung của Hội Xuân Bích Việt Nam, mà cuộc tĩnh tâm thường niên gần nhất là vào mùa Hè năm 2019. Lần quy tụ lần này gồm 14 thành viên, trong đó có Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long, và cũng là người giảng phòng. Nhiều linh mục Xuân Bích Việt Nam cao tuổi, hoặc đang đau ốm, hoặc đang nghỉ hưu ở xa, nên không thể hiện diện trong cuộc tĩnh tâm này.

Năm nay, Đức Cha giảng phòng đã chọn các bài giảng  tĩnh tâm  liên quan đến đời sống, sứ mạng và linh đạo của Hội Linh Mục Xuân Bích, do cha Jean-Jacques Olier sáng lập. Cụ thể là các bài giảng tĩnh tâm về sứ mạng và đời sống thiêng liêng của các Linh mục Xuân Bích, do cha Gilles Chaillot, PSS, biên soạn. Thêm vào đó là cuốn “15 ngày cầu nguyện với cha Jean-Jacques Olier” của cha Bernard Pitaud, PSS.

Cuộc tĩnh tâm này góp phần làm mới lại ý thức của mỗi tham dự viên về ơn gọi Xuân Bích của mình và đồng thời hun đúc xác tín “Sống hết mình cho Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô” qua việc “Buông mình cho Chúa Thánh Thần” mà cha Olier, đấng sáng lập của Hội Xuân Bích, đã mong muốn nơi mỗi thành viên Xuân Bích.

Cuộc tĩnh tâm cũng là cơ hội để các Linh mục Xuân Bích Việt Nam gặp gỡ nhau trong tinh thần huynh đệ và cùng nhau chia sẻ những công việc của Hội Linh Mục Xuân Bích nói chung, và của các Linh mục Xuân Bích Việt Nam nói riêng.

——————————————-

Các bài giảng tĩnh tâm do cha Chaillot soạn:

SỨ MỆNH XUÂN BÍCH CỦA CHÚNG TA (1)

Trong cuộc tĩnh tâm này, chúng ta được mời gọi đọc lại kinh nghiệm Xuân Bích hiện nay của chúng ta dưới ánh sáng linh đạo mà chúng ta kín múc được từ đặc sủng của đấng sáng lập Jean-Jacques Olier của chúng ta.

Chúng ta sẽ theo hai giai đoạn.

Một, tiến trình của Công đồng Vatican II, trong sắc lệnh Presbyterorum ordinis, bàn trước hết về sứ vụ, rồi đến đời sống của các linh mục trong Giáo Hội. Đây cũng là tiến trình của Hiến Pháp Hội Xuân Bích chúng ta: phần thứ nhất dành cho sứ mệnh của Hội, và chương 1 phần thứ nhì trình bày về đời sống của các linh mục Xuân Bích.

Quả thật, đối với chúng ta, các linh mục Xuân Bích, cũng như đối với các anh em linh mục của chúng ta, chính sứ mệnh – thừa tác vụ độc đáo của chúng ta trong Giáo Hội – điều khiển cách sống và tất cả linh đạo của chúng ta.

Do đó chúng ta được mời gọi dành ngày đầu tiên này để ý thức lại, cách cá nhân và tập thể, về sứ mệnh Xuân Bích của chúng ta, đúng như được xác định trong phần thứ nhất của Hiến Pháp Hội, và như chúng ta nỗ lực thực hiện ngày nay.

Trong bài này chúng ta dừng lại ở chương thứ nhất nói về bản chất cứu cánh hay mục đích của Hội mà chúng ta là thành viên. Trước hết chúng ta ý thức rằng Hội Xuân Bích được sinh ra từ công cuộc tông đồ của cha J.J Olier (art.1). Cách rõ ràng hơn, Hội được thiết lập do cha và các đồng chí đầu tiên của cha ở chủng viện Xuân Bích. Như chúng ta biết, vị sáng lập của chúng ta đã bắt đầu sứ vụ như nhà truyền giáo trong các miền quê đã bỏ đạo, hay đúng hơn đã được Phúc âm hóa tồi. Nhưng cha sớm nhận thấy các hoạt động cho giới bình dân mà cha thực hiện ở nơi này nơi khác cách tùy nghi sẽ chẳng có kết quả lâu dài nếu không có các linh mục được huấn luyện chu đáo để bền bỉ thi hành sứ vụ thánh hóa các tín hữu. Vì vậy, cha cùng với các bạn truyền giáo đầu tiên đã nhắm tới việc lập một chủng viện khả dĩ bảo đảm cho hàng linh mục giáo phận được một sự đào tạo tốt. Đó là điều mà cha đã giải thích trong Divers écrits :

« Từ ít năm trở lại đây, chúng tôi qui tụ nhau, sau khi đã làm việc tại các điểm truyền giáo và các giáo xứ, chúng tôi nhận thấy rằng người ta sẽ làm việc vô ích, nếu trước tiên không thanh tẩy nguồn thánh hóa họ là các linh mục. Từ đó, tôi và các bạn đã lui về để chăm chút những mầm cây mới (là các ứng sinh linh mục) được giao vào tay chúng tôi mà xem ra họ được kêu gọi vào hàng giáo sĩ »  (Ms. 14, 71 ; cf. HP, art. 7).

Nên nhớ rằng Hội chúng ta dĩ nhiên được chỉ định phục vụ toàn thể Giáo Hội, nhưng được kêu gọi cách ưu tiên gắn bó với việc đào tạo hàng giáo sĩ, là người thợ chính xây dựng đời sống Giáo Hội. Jean-Jacques Olier thích nói rằng sứ mệnh của chúng ta là «hoạt động để canh tân các dân tộc (toàn thể Giáo Hội) qua việc thánh hóa hàng giáo sĩ » (Ms. 14,69). Điều đó không có nghĩa là chúng ta loại trừ thừa tác vụ trực tiếp bên cạnh các tín hữu, song trái lại, (x. Hiến Pháp, art.6 : «Sự ưu tiên đào tạo các linh mục không loại trừ, nhưng trái lại kêu gọi nhiều hoạt động khác của linh mục »), khi trở thành linh mục Xuân Bích, chúng ta chấp nhận từ bỏ việc thực hành thường xuyên hoạt động của chúng ta ở giữa dân chúng, để dành phần thiết yếu hoạt động mục vụ của chúng ta trong khung cảnh thu hẹp hơn, khuất lấp hơn, nhưng cũng quan trọng, ở chủng viện. Như Jean-Jacques Olier đã viết trong Mémoires, chúng ta không pha mình vào nhiều phận vụ, nhưng chỉ chuyên chú đào tạo các chủng sinh được giao phó cho chúng ta. Ngài tiếp: « Tôi thấy rằng chúng ta không phải miệt mài quá với dân chúng, nhưng là những người này [tức các chủng sinh chúng ta đào tạo] để một khi trở thành linh mục, họ sẽ miệt mài cách hữu ích và làm nên điều kỳ diệu cho Chúa » (Ms. 5, 107; cf. Constitutions art. 7). Việc từ bỏ này là thành phần của linh đạo Xuân Bích chúng ta: chúng ta chấp nhận không nằm ở tuyến đầu sứ mệnh của Giáo Hội và chỉ đơn giản hiến mình trong bóng tối yêu sách của đời sống chủng viện để chuẩn bị cho các anh em trẻ mai kia sẽ là những người thợ hữu hiệu cho công cuộc mục vụ tại giáo phận của họ.

Tất cả những điều này được tóm tắt nơi khoản 1 Hiến Pháp, định nghĩa về Hội chúng ta như sau:

«Được hiến dâng cho Chúa Giêsu Kitô linh mục thượng phẩm, Hội linh mục Xuân Bích, khai sinh từ công cuộc tông đồ của Jean-Jacques, vị sáng lập của Hội, là một hội của các linh mục địa phận có ơn gọi phục vụ những ai được thụ phong vào thừa tác vụ giáo sĩ ».

Một sứ vụ được xác định rõ, đó là biện phân các ơn gọiđào tạo khởi đầu và thường xuyên cho các linh mục, với quan tâm giáo dục đời sống nội tâm và đào tạo tinh thần tông đồ (HP art.1). Trong định nghĩa này, nhiều điểm đáng cho chúng ta lưu ý và có thể nuôi dưỡng suy tư và cầu nguyện của chúng ta, cũng như việc đọc lại cuộc đời chúng ta sáng mai nay.

Cuối khoản 1 nói rõ : « Hội Xuân Bích là một hội đời sống tông đồ »

Điểm thứ nhất cần ghi nhận : Chính đời sống tông đồ đặc trưng cho sứ mệnh của chúng ta trong Giáo Hội và do đó cũng là linh đạo Xuân Bích của chúng ta. Trong Mémoires của ngài, cha Jean-Jacques Olier lưu ý rằng đó là lời kêu gọi bên trong mà ngài đã đích thân lãnh nhận từ Chúa Kitô: «Ta muốn giao cho con thiết lập một hội tông đồ » và ngài tiếp thêm: «Qua đó tôi thấy rằng các thành viên của Hội Xuân Bích phải có tinh thần tông đồ » (Ms. 5, 107 ; cf. HP đ. 3). Nói cách khác, ơn gọi Xuân Bích xét về bản chất là một ơn gọi tông đồ. Vì như thấy nói trong khoản 1 Hiến Pháp, trong việc đào tạo khởi đầu và thường xuyên cho các anh em linh mục, chúng ta phải quan tâm hướng dẫn bước đầu cho họ vào tinh thần tông đồ, không thể tách khỏi đời sống nội tâm ; việc ấy chỉ có thể được nếu chúng ta là những người trước hết sống tinh thần truyền giáo. Và thật quan trọng để ghi nhận rằng khi Jean-Jacques Olier nói đến tinh thần tông đồ là ngài nói đến sức năng động mà chính Chúa Thánh Thần phải là suối nguồn ở trong chúng ta, như Ngài đã ở trong chính Chúa Giêsu, «vị đại tông đồ của Cha Ngài», và ở trong đoàn các tông đồ được tuyển chọn để tiếp tục công trình của Chúa Giêsu trong Giáo Hội và cho thế giới. Khi nói đến chủng viện Xuân Bích ngay từ lúc khởi đầu của Hội, ngài cũng kêu mời chúng ta hằng ngày cầu xin Thần Trí tông đồ – Chúa Thánh Thần, ban cho chúng ta ân huệ nhiệt huyết tông đồ. Chúng ta hãy đọc lại đoạn này trong Divers Ecrits của ngài:

«Chủng viện Xuân Bích được thánh hiến dành riêng cho Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta để tôn vinh Người, không chỉ như linh mục thượng phẩm và đại tông đồ của Cha Ngài, mà còn để tôn kính Ngài đang sống trong đoàn các tông đồ, hằng ngày khẩn nài Thần Trí tông đồ xuống trên mình và trên toàn thể Giáo Hội, hầu canh tân trong Giáo Hội tình yêu đối với Chúa Giêsu Kitô và lòng sùng kính đối với Cha Ngài, nhất là trong hàng giáo sĩ như là nguồn sự thánh thiện tuôn tràn trên đám đông dân chúng, tức cộng đoàn tín hữu » (Ms. 14, 67 ; cf. HP đ. 1)

Đó là điều mà bài này mời gọi chúng ta tự hỏi xem mình đang ở đâu trên điểm thứ nhất này: Nhiệt huyết tông đồ vẫn đang linh hoạt chúng ta trong đời sống cá nhân, niềm thao thức làm trổi lên trong các chủng sinh và các anh em linh mục của chúng ta lòng nhiệt huyết tông đồ ấy… và để được điều đó, chúng ta tự hỏi về chỗ mà chúng ta đều đặn dành cho việc khẩn cầu Thần Khí tông đồ.

Điểm thứ hai đáng cho chúng ta lưu ý. Khoản 1 Hiếp Pháp nói «Hội Xuân Bích là một hội gồm các linh mục địa phận». Khẳng định quan trọng này thật là hiển nhiên và cụ thể bằng nhiều cách trong các khoản sau đây của chương nhất. Chúng ta đọc ở khoản 4 : «Là linh mục địa phận, các thành viên của Hội không có lời khấn, lời thề hay lời hứa đặc biệt». Điều đó có nghĩa là chúng ta không phải là tu sĩ, theo nghĩa giáo luật của từ ngữ đó. Như thế Jean-Jacques Olier đã muốn «Chủng viện Xuân Bích tuyên thệ không hề nâng lên Dòng tu»  (Ms. 14, 87; cf. HP, đ. 4).

Chọn lựa này có hai động lực.

Một đàng, đấng sáng lập của chúng ta đã đánh giá rằng để đạt tới sự thánh thiện kitô không cần phải tuyên khấn Dòng; mà phải nghiêm chỉnh nắm giữ các yêu sách của đời sống linh mục và đón nhận ân sủng của đời sống đó là đủ. Đó là điều mà khoản 4 Hiến Pháp diễn tả: Các linh mục Xuân Bích «được liên kết bởi đức ái linh mục», giống như mọi linh mục địa phận, một đức ái đơn giản được đánh dấu bởi sứ mệnh riêng của mình là «phục vụ các linh mục và các linh mục tương lai». Nếu họ chu toàn sứ vụ đó «trong Thần Khí Chúa Kitô» thì nó sẽ cung cấp cho họ các phương tiện để đạt tới cách hiệu quả «lý tưởng thánh thiện kitô và linh mục do vị sáng lập của họ đề nghị: Sống hết mình cho Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu» (HP đ. 4).

Chắc chắn, chúng ta có thể tự hỏi xem trong mức độ nào chúng ta kiện toàn được thừa tác vụ của mình bên cạnh các chủng sinh và linh mục, cùng lúc vừa là một đòi hỏi vừa là một ơn thánh hoá… 

Động lực thứ hai khiến Jean-Jacques Olier không muốn cho Hội trở thành một Dòng tu, nhưng là một hội các linh mục địa phận thôi, chính là để các linh mục Xuân Bích tự hiến cho công cuộc đào tạo những người được thụ phong vào thừa tác vụ giáo sĩ trong các địa phận, giúp cho các linh mục Xuân Bích sống tình huynh đệ với họ, sống cùng một chức linh mục giáo phận như họ. Điều đó phải được diễn tả cụ thể bằng nhiều cách khác nhau như nhiều số đầu của Hiến Pháp xác định rõ.

Đàng khác, việc đó đòi hỏi chúng ta, như các linh mục đồng nghiệp của chúng ta trong các giáo phận, phải thực thi thừa tác vụ Xuân Bích của chúng ta trong việc phục vụ các giám mục đã tín nhiệm trao cho chúng ta việc đào tạo hàng giáo sĩ của các ngài  (cf. Constitutions, art. 2), và chúng ta bảo đảm công cuộc đào tạo đó bằng sự cộng tác với các Giám mục (cf. HP đ. 2 và 3).

Hơn nữa, việc đó giả thiết rằng chúng ta phải sống trong sự hiệp nhất chặt chẽ tinh thần và hành động để thực hiện một cộng đoàn huynh đệ thực sự, không chỉ với những ai đã được trao phó cho chúng ta, chủng sinh và linh mục, nhưng với linh mục đoàn của các giáo phận mà chúng ta phục vụ (x. HP đ.5).

Sáng nay chúng ta có thể nhớ lại tầm quan trọng mà cha J.J. Olier, đấng sáng lập của chúng ta, đã gán cho mối hiệp thông huynh đệ của các linh mục Xuân Bích với các linh mục giáo phận. Trong « lời nói đầu » của Dự án thiết lập một chủng viện trong một địa phận đệ trình năm 1651 cho các Giám mục tại Hội Nghị Giáo Sĩ Nước Pháp, cha tự giới thiệu như một linh mục của hàng giáo sĩ, và cha khẳng định rằng Hội Xuân Bích tuyên xưng phục vụ các giám mục, «không có bất cứ sự phân biệt nào phân rẽ và kéo Hội ra khỏi đời sống chung của hàng giáo sĩ» (Projet de 1651, IV). Và chúng ta có thể tự hỏi về phía mình rằng chúng ta đang ở đâu trong các mối liên hệ huynh đệ với hàng giáo sĩ các giáo phận chúng ta phục vụ, cùng sự cộng tác của chúng ta với họ dưới sự hướng dẫn của các giám mục.

 SỨ MỆNH XUÂN BÍCH CỦA CHÚNG TA (2)

Trong bài này, chúng ta tiếp tục suy tư và kiểm điểm trong cầu nguyện cuộc sống hiện tại dõi theo ánh sáng của sứ mệnh Xuân Bích cũng là của chúng ta, như Hiến pháp đã trình bày. Trong viễn tượng toàn diện của bài 1 mà chúng ta đã nhận xét sáng nay, từ đó chúng ta nhận định một cách rõ rệt hơn cách thế khác nhau nhờ đó sứ mạng này được mời gọi để thể hiện cách cụ thể trong Hội, là các sứ vụ khác nhau mà chương 3 đề cập đến. Chúng ta sẽ không quên sứ vụ “thường huấn” cho các Linh mục giáo phận (Hiến pháp số 27) cũng như “các sứ vụ khác”, cách riêng tại các giáo xứ (Hiến pháp số 28). Nhiều người trong chúng ta cũng làm việc ở đó, cách tình cờ hay là thường xuyên, và như số 6 trong chương 2, “Các hoạt động khác của linh mục” được thực hành ngoài phạm vi chủng viện, thay vì bị loại trừ do bởi sứ mạng ưu tiên về đào tạo trong chủng viện, ngược lại được mời gọi bởi sứ mạng đó và giúp chúng ta “càng hòa nhập hơn với linh mục đoàn của các giáo phận” mà chúng ta phục vụ và giúp chúng ta thích hợp hơn để đào tạo các thành phần trong đó (Hiến pháp số 6). Nhưng trước hết chúng ta suy tư về sứ vụ ưu tiên là đào tạo linh mục trong chủng viện mà chương 3 Hiến pháp đã bàn đến cách rộng rãi (Hiến pháp số 6 – 26) để giúp chúng ta giới hạn sự suy tư trong khung cảnh của linh đạo Xuân Bích và trong bầu khí cầu nguyện của thời gian tĩnh tâm, chúng ta sẽ suy gẫm đoạn văn trong tập “Divers  écrits de JJ Olier” đoạn văn xuất hiện ra ở số 7 của Hiến pháp :

“Xin Chúa vui nhận chúng ta vào làm việc hoặc đến gần với các dân tộc (trong Giáo xứ chẳng hạn) hoặc gần anh em chúng ta nghĩa là các Giáo sĩ của Giáo Hội (Linh mục và Chủng sinh) mà Ngài đã chỉ định để phục vụ Ngài, chúng ta phó thác mình cho Ngài trong mọi sự, hy vọng tất cả nơi Ngài để kiện toàn công trình của Ngài và để thực hành chức vụ Thánh của Linh mục, chức vụ chỉ có thể được hoàn thành (chu toàn) nhờ vào sức mạnh và sự hiện diện của Chúa Thánh Thần” (Hiến pháp số 7, Thủ bản 14,8).

Trong thái độ cầu nguyện phó thác theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, nguồn suối hữu hiệu duy nhất của chức vụ, chúng ta được mời gọi dừng lại ở một vài điểm quan trọng của sứ mạng Xuân Bích về đào tạo tiên khởi cho các Linh mục được xác định ở chương 3 của Hiến pháp.

Trước tiên chúng ta xác nhận phải chú trọng đến sự cần thiết phải sống chức vụ riêng biệt này trong tương quan mật thiết với “Dân Thiên Chúa toàn diện”: Với Giám mục đương nhiệm, mà chúng ta lệ thuộc vào, nhưng cùng với “các chức vụ khác” – với các Linh mục, các Phó tế .v.v…Và các Dân tộc trong các Địa phận (Hiến chế số 10). Nhưng nếu vì nhằm đến chức vụ tương lai của các Linh mục Địa phận mà chúng ta có trách nhiệm chuẩn bị các Chủng sinh mà chúng ta đào tạo để “nhận biết và thực hiện tính duy nhất của sứ mệnh” Giáo Hội trong “Sự khác biệt của việc phục vụ và các hành động” (Hiến chế số 4), chúng ta được mời gọi để làm gương sáng cho họ nơi điểm này. Và số 16 trình bày cho chúng ta thấy các đòi hỏi thực tế của ơn gọi Xuân Bích. Đang lúc nhắc nhở rằng: “Việc chuẩn bị vào chức vụ Linh mục hợp thành một toàn bộ” và đang khi gợi lên mục đích mục vụ Vatican II đã quyết định – chúng ta nhớ lại Tông thư  “Pastores dabo vobis” số 57: “việc đào tạo này, như đức Gioan Phaolô II đã viết, trong mọi khía cạnh khác nhau phải có một tính cách mục vụ căn bản”. Hiến pháp Xuân Bích nhấn mạnh rằng để có khả năng hoàn thành sứ mạng, về phía chúng ta là các Linh mục Xuân Bích, chúng ta phải phát triển trong ta “các khả năng cần thiết, không những để cộng tác” giữa chúng ta trong Chủng viện “mà còn để theo đuổi với các thành viên khác của Linh mục đoàn và của Dân Chúa, toàn bộ tiến trình của các ứng sinh Linh mục, khi tiếp xúc với các thực tại của Giáo Hội và của trần gian” (Hiến chế số 16). Trong thực tế, chúng ta gặp lại nơi đây, như chúng ta đã xác nhận sáng nay, ơn gọi Xuân Bích của chúng ta. Bởi vì như Hiến pháp số 2 đã nhắc nhở và như chúng ta đã biết rõ qua kinh nghiệm, “Các Chủng viện luôn luôn tạo thành các trung tâm (…) quan trọng cho một Địa phận hay một vùng” mà chúng ta phục vụ cách nào đó để “mọi người, Linh mục và Giáo dân, có thể thừa hưởng” sự phục dịch của chúng ta và cảm thấy đồng trách nhiệm về phía họ với chúng ta về việc đào tạo Linh mục (Hiến chế số 26). Về phần chúng ta, chiều nay, chúng ta tự hỏi là chúng ta đến đâu về điểm này.

Khía cạnh thứ hai của sứ mạng của chúng ta vì như vậy là của ơn gọi Xuân Bích mà chiều nay cuốn hút sự suy tư cầu nguyện và đọc lại đời sống của chúng ta. Đó là điểm ưu tiên mà Cha JJ Olier đòi hỏi chúng ta phải dành cho “sự đào tạo tâm linh” cho các Chủng sinh; chức vụ đào tạo tâm linh là ưu tiên trong truyền thống Xuân Bích (Hiến pháp số 18) đã nhắc nhở chúng ta. Như đấng sáng lập, chúng ta được mời gọi để hoạt động trước tiên cho “việc thánh hóa hàng Giáo sĩ” (xem Nhật ký 14,69). Sự ưu tiên này được trình bày cách rõ ràng trong ba điểm căn bản được ghi ở số 14 như là “các đặc tính thiết yếu của việc thực hành giáo dục của Hội”:

  1. Sự khai tâm tiệm tiến vào đời sống tâm linh của các ứng viên (…)
  2. Sự ưu tư tha thiết đến tự do tâm linh của các ứng sinh (…)
  3. Việc tìm kiếm kiên quyết về hợp nhất với Đức Kitô (Hiến pháp số 14).

Chính trong viễn tượng tâm linh này mà chúng ta với tư cách Xuân Bích, có bổn phận thực thi sứ mạng, bao gồm sự biện phân và đào tạo : “giúp đỡ” các Chủng sinh đã được ký thác cho chúng ta, giúp đỡ họ, biện phân Lời Chúa mời gọi để phục vụ Giáo Hội “như là các Linh mục và chuẩn bị cho họ đáp trả lại” (Hiến pháp số 11). Nói cách khác, ban phép (giúp) họ “bén rễ” dần dần vào trong tinh thần của Đức Kitô, Thầy dạy, Linh mục và Tiến sĩ “để thực hành chức vụ truyền giáo (Hiến pháp số 12). Một việc đào tạo tâm linh như vậy, chúng ta có bổn phận phải làm việc đó trong toàn bộ bổn phận giáo dục của chúng ta, ở tòa ngoài cũng như tòa trong. Nhưng như chúng ta đã biết, truyền thống Xuân Bích, di sản của Cha JJ Olier truyền đạt lại, chúng ta nhớ lại sách “Sự chỉ bảo với các vị linh hướng” mà ngài đã trối lại cho chúng ta (xem sách của Cha P.Pitaud và G.Chaillot, JJ Olier, linh hướng Cerf 1988 trang 15-159). Đã dành một chỗ đặc biệt cho chức vụ “Linh hướng trong các chủng viện”. Số 14 trong Hiến pháp, ở điều 3, nhấn mạnh rằng “cách rất đặc biệt bởi nhờ sự linh hướng liên tục” mà mỗi chủng sinh có thể khai tâm dần dần “vào đời sống tâm linh cá nhân” là “đời sống nội tâm như Cha JJ Olier thường nói (Hiến pháp số 14/3). Không kể Cha Giám đốc, cách thông thường mỗi người trong chúng ta được gọi để thực thi “cách riêng chức vụ linh hướng” (Hiến pháp số 17,1). Chức vụ này, mà chúng ta tất cả đều quý chuộng, với tư cách Xuân Bích là căn bản và tinh vi. Không cần phải quy chiếu về sách “chỉ dẫn” của Cha JJ Olier, chúng ta có thể nhất là chiều này, đọc lại các lời khuyên có đăng ở số 17 của Hiến pháp (ORA e,f,g,h), bằng cách dò hỏi trong ta về cách thực hành riêng biệt và thông thường trong phạm vi này và dùng thời giờ để cầu nguyện Đức Giêsu Kitô canh tân trở lại trong ta, ban ân huệ Chúa Thánh Thần để theo đuổi chức vụ rất quan trọng này.

Khía cạnh thứ ba của ơn gọi Xuân Bích về đào tạo Linh mục tương lai có thể dưỡng nuôi sự suy tư của chúng ta và sự chia sẻ chiều nay, đã được trình bày trong “hai điểm căn bản đầu tiên” nơi số 14 của Hiến pháp, hai điểm liên hệ với nhau: tức là việc thực hành các trách nhiệm cách tập thể và “cộng đồng giáo dục” trong Chủng viện. Hai điểm bắt buộc mà chúng ta phải xử sự, có thái độ luôn hướng về đó để đáp trả lại sứ mạng đào tạo Xuân Bích. Trước tiên chúng ta dừng lại ở điểm (2): Khác biệt với các Chủng viện Xuân Bích được đánh dấu bởi việc nhấn mạnh đến “một đời sống cộng đồng đích thực” và bình thường “giữa các nhà đào tạo và các ứng sinh” theo cách thế cấu tạo thành một “cộng đồng giáo dục thường xuyên và kết hợp với nhau”. Là Xuân Bích, chúng ta chấp nhận – điều đó không phải là không đòi hỏi sự từ khước – chấp nhận sống liên tục với các chủng sinh và như họ ngần nào có thể được. Điều đó không nên cản trở chúng ta tham dự, khi có nhu cầu tham gia một vài sinh hoạt mục vụ Địa phận hay là từng miền “ở ngoài Chủng viện, nếu xem ra ích lợi, những việc đó đòi hỏi rằng, một cách thường xuyên, chúng ta tham dự vào các sinh hoạt của chủng viện như đời sống phụng vụ, nhóm nghiên cứu, toán tâm linh” (Hiến pháp số 24). Lý do sâu xa của đòi hỏi này – đòi hỏi tâm linh; đã được trình bày cho chúng ta nơi số 25 của Hiến pháp. Nếu xét như là Linh mục Hội Xuân Bích, chúng ta chấp nhận sống như thế “thành cộng đồng chặt chẽ với các ứng sinh vào chức Linh mục”. Chính bởi vì chúng tôi “xác tín rằng chính cuộc sống linh mục là việc làm sâu xa nhất và hữu hiệu nhất trong các giáo huấn” cho các Chủng viện (Hiến pháp số 25) không tìm cách tỏ mình làm “gương mẫu” – hầu hết những người mà chúng ta đào tạo, không trở thành Xuân Bích – chúng ta tin tưởng rằng tư cách tâm linh và tông đồ trong chứng nhân đời thường và bằng hữu của đời sống Xuân Bích thường ngày là điều căn bản cho các Chủng sinh. Và chúng ta có thể suy niệm lời khuyên của Thánh Phêrô với các “Đầu Mục”. Đừng thể hiện một quyền lực nghiêm khắc trên các người đã được giao phó cho anh em nhưng hãy trở nên gương mẫu cho đoàn chiên (IPr 5,3). Với bằng chứng đời sống Xuân Bích này, chúng ta cần phải đưa ra cách tập đoàn trong việc thực hành chức vụ. Đó là điểm thứ nhất mà số 14 Hiến pháp nhấn mạnh đến:

“Một việc thực thi tập thể các trách nhiệm được áp dụng trước tiên cho nhóm đào tạo, nhưng cũng đòi hỏi sự cộng tác của các ứng sinh vào chức Linh mục, Linh mục đoàn của Địa phận và các thành phần khác của cộng đồng Kitô hữu”(Hiến pháp số 14,1).

Như vậy chúng ta được gọi – như đã thấy trước đây – để cộng tác với các thành viên khác nhau là những người, trong các Địa phận mà chúng ta phục vụ từ nay trở đi cộng tác với chúng ta vào việc đào tạo các Linh mục. Nhưng trước tiên giữa chúng ta trong hội đồng của Đại Chủng Viện, và với các Chủng sinh trong khung cảnh của “cộng đồng giáo dục”, mà chúng ta có bổn phận sống thành tập thể. Khác với các Chủng viện khác, theo kiểu La mã, chính vị Giám đốc quyết định tất cả sau khi đã tham khảo các đồng môn, trong các Chủng viện Xuân Bích thì chính Hội đồng do vị Giám đốc chủ tọa mới có quyền quyết định theo đa số về mọi quyết định nhất là khi gọi chịu chức – nhưng cũng bảo đảm qua tập thể sinh hoạt của cộng đồng đào tạo. Số 15 Hiến pháp trình bày rõ ràng:

“Tất cả mọi nhiệm vụ sẽ được Bề trên địa phương phối hợp, nhưng các anh em đồng nghiệp sẽ không để cho Bề trên một mình gánh trách nhiệm của Đại Chủng viện, nhưng mỗi người trong phạm vi của mình, phải xác tín sâu xa về trách nhiệm tập thể của mình, mà một cách diễn tả đặc biệt – một diễn tả duy nhất – là cách rõ rệt “Sự tham dự vào các Hội đồng” (Hiến pháp số 15).

Phải ghi nhận rằng “phận sự linh hướng” là phải sống trong việc “thực thi trách nhiệm tập thể ( Hiến pháp số 17). Nói cách khác, thường phải tôn trọng cẩn mật sự phân biệt tòa ngoài và tòa trong, sự linh hướng phải được thực hiện trong liên đới với Hội đồng. Bằng chứng tập thể mà chúng ta trình bày như thế, xét như là Linh mục Xuân Bích là quyết định tuyệt đối để thực hiện với các Chủng sinh “một cộng đồng giáo dục và nó cũng đòi hỏi tháp nhập Chủng viện vào trong các Địa phận mà chúng ta phục vụ. Hãy suy niệm lời Cha JJ Olier viết trong tập ký sự: “Chúa và Thầy chúng ta không muốn sự tìm tòi con người liên kết chúng ta nhưng là Chúa Thánh Thần và đức ái” (Ms 5,108.109)…

ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA (1)

Đối với các linh mục Xuân Bích, cũng như đối với mọi anh em trong chức linh mục, sắc lệnh Presbyterorum Ordinis của công đồng Vatican II (PO 13) dạy rằng, (được nhắc lại trong lời mở đầu của phần hai Hiến Pháp), chính nhờ “việc trung thành thực hiện, không mệt mỏi” các nhiệm vụ của mình trong Thánh Thần của Đức Kitô mà chúng ta có được “phương thế đích thực để đạt tới sự thánh thiện”. Sự thánh thiện mà chúng ta được kêu gọi để sống và tỏa lan trong hàng giáo sĩ, cũng chính là sự thánh thiện chung của hết mọi kitô hữu. Chúng ta tin rằng “Chúa Thánh Thần, Đấng ban phát các đặc sủng khác nhau” sẽ hiến cho chúng ta “những phương thế để nên thánh” liên quan cách tốt nhất với “nhiệm vụ” độc đáo trong Giáo Hội, là công cuộc đào tạo các linh mục của chúng ta trong các chủng viện theo đặc sủng mà cha J.J. Olier đã giao phó cho “hội nhỏ bé” của chúng ta (Hiến pháp, phần hai, lời mở đầu). Vì thế, hôm qua chúng ta đã bắt đầu cuộc tĩnh tâm bằng việc nhắc lại những định hướng căn bản của sứ mạng Xuân Bích lúc ban đầu, như chúng đã được giới thiệu cho chúng ta trong Phần thứ nhất của Hiến pháp. Hôm nay, chúng ta bước vào phần thứ hai của cuộc tĩnh tâm, trong viễn tượng “sứ mạng của Hội Xuân Bích”, chúng ta sẽ suy nghĩ trong cầu nguyện và trong việc duyệt xét lại cuộc sống hiện nay của chúng ta, về những hậu quả thiêng liêng và tông đồ, xuất phát từ chúng ta và làm nên những đường nét chính của “linh đạo Xuân Bích”, như lời mở đầu và chương 1, phần Hai bản Hiến pháp gợi cho chúng ta.
Linh đạo Xuân Bích không khác điều mà xưa cha sáng lập J.J. Olier đã sống. Vì vậy, trước khi đi vào chi tiết cụ thể những gì kinh nghiệm đã chia xẻ và mời ta sống ngày nay, theo Hiến pháp, thì chiều hôm qua, chúng ta đã được ôn lại những định hướng lớn về linh đạo riêng mà cha Olier đã kể lại trong bút ký của ngài, đặc biệt là trong tập Hồi ức (Mémoires), tập Nhật ký tự thuật trong đó ngài đã trình bày cho cha linh hướng biết hành trình nội tâm của ngài, và trong cuốn sách nhan đề “Pietas seminarii”, là Chỉ Nam thiêng liêng ngài đã soạn cho chủng viện và Hội Xuân Bích. Chúng ta sẽ dừng lại suy niệm hai kiểu nói hay nhóm kiểu nói cho phép chúng ta tóm lược đời sống thiêng liêng của cha Olier : chúng sẽ định hướng cho phần tiếp theo cuộc tĩnh tâm của chúng ta.

Chúng ta bắt đầu bằng điều 1 của Chỉ Nam thiêng liêng, (được Hiến pháp, phần hai, lời mở đầu nhắc lại). Chúng ta đọc được như sau :

“Được sinh động bởi ân sủng linh mục, – chúng ta cũng là linh mục như các linh mục giáo phận -, các linh mục Xuân Bích – đây là nét độc đáo của chúng ta – còn được hướng dẫn bởi một truyền thống đã được sống, truyền thống này được cha Olier đặt ở đầu cuốn Chỉ nam dành cho các môn đệ của mình : “Mục tiêu đầu tiên và cuối cùng của Hội Xuân Bích – gồm cộng đoàn chủng viện, các ứng sinh được đào tạo và những nhà đào tạo Xuân Bích đầu tiên – sẽ là sống tột bậc cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta. Đó sẽ là niềm hy vọng duy nhất và là tư tưởng độc nhất nơi mọi người, đó cũng là việc thực hành duy nhất : sống nội tâm bằng sự sống của Đức Kitô và thể hiện sự sống ấy qua các hoạt động trong thân xác hay chết của chúng ta” (Pietas Seminarii, I , x. 2Cr 4, 10-11). Hiến pháp của Hội thêm : “Tình yêu Đức Kitô sẽ thúc đẩy các thành viên của Hội nên giống Ngài, đến độ họ phải bắt chước Ngài trong nhiệm vụ huấn luyện các thừa tác viên của Phúc Âm” (trích Hiến Pháp, Phần Hai, Lời dẫn nhập).

Khi kêu mời các môn đệ “sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”, cha Olier nhắc cho họ rằng, trước hết, đó là điều phải có nơi mọi kitô hữu : tức là vừa hướng về Thiên Chúa, làm vinh danh Chúa khi thực hiện ý Ngài, vừa qui hướng về Đức Kitô – trong sự thông hiệp nội tâm với cuộc sống của Đức Giêsu là người con hiếu thảo và truyền giáo. Tuy nhiên chúng ta đừng quên điều này là, khi nói như thế, cha Olier nhắm đến các linh mục. Và như ngài thường nhắc lại trong tập Hồi Ức, rằng nếu các kitô hữu phải sống điều ấy, thì các linh mục càng phải sống điều ấy cách đặc biệt hơn ; nếu các linh mục không trở nên như điều mà người ta ngày nay quen nói, là những “kitô siêu đẳng” (superchrétiens), là anh cả của các anh em trong Hội Thánh, thì ít là họ phải hết sức trở thành những kitô hữu gương mẫu, vì sứ mạng của họ là trở nên những thừa tác viên của Chúa Kitô để tiếp nối công cuộc tông đồ của Chúa Cha trong thế giới. Đối với các phần tử Xuân Bích chúng ta, vì sứ mạng của chúng ta hệ tại cách riêng và độc đáo là “bắt chước” Đức Kitô “trong việc đào tạo các thừa tác viên Tin Mừng” – nối tiếp sứ vụ nhà giáo dục của các tông đồ -, thì việc “nên giống” với Ngài trong nội tâm thúc đẩy chúng ta nhiều hơn nữa, và đó chính là “linh đạo” của Hội chúng ta. Quả thật, theo cách thế riêng, chúng ta phải tái hiện lại nơi chủng viện, với các linh mục tương lai được trao phó cho chúng ta, nền giáo dục mà Chúa Giêsu đã dành cho các tông đồ trong Tin Mừng. Trong tông huấn Pastores dabo vobis (PDV 6), ĐTC Gioan-Phaolô II nhắc lại cho chúng ta rằng “chủng viện phải giúp cho các ứng viên linh mục “khả năng sống lại kinh nghiệm giáo dục mà Chúa đã dành cho các tông đồ”, và chủng viện “theo cách riêng mình, là một sự tái hiện ở trong Hội Thánh, cộng đoàn tông đồ vây quanh Chúa Giêsu”.  Là thành viên hội Xuân Bích, chúng ta gặp lại ở đây tư tưởng của đấng sáng lập. Chúng ta hãy nhớ lại điều ngài đã viết trong tập Tạp ký (Divers écrits) về chủng viện Xuân Bích như sa: “Chủng viện Xuân Bích (…) được dâng hiến cho Đức Giêsu-Kitô Chúa chúng ta để tôn vinh Ngài không những chỉ với tư cách Linh mục Thượng phẩm, và Tông đồ cao cả của Cha Ngài, nhưng còn để tôn kính Ngài, Đấng sống động trong cộng đoàn các Tông đồ” (Ms 14, 67 : Hiến pháp, điều 1). Ta hãy dành thời gian, trong buổi sáng này, để làm mới lại sự hiệp thông nội tâm ta với Chúa Giêsu, nhà đào tạo nhóm Mười Hai, Đấng mời gọi ta tiếp nối công cuộc đào tạo các chủng sinh hôm nay hướng về sứ vụ tông đồ họ sẽ đảm nhận mai ngày trong tư cách linh mục tại giáo phận của họ.

Chúng ta đổi mới, hay đúng hơn, được đổi mới, cách cá nhân và tập thể, bằng sự nên giống với Chúa Giêsu Đấng đào tạo các tông đồ. Điều này dẫn chúng ta đến một điểm dừng khác cũng căn bản của linh đạo Xuân Bích, như ta phải sống theo ơn đặc sủng của cha Olier mà ta là người thừa kế. Đó là vị trí quyết định mà đấng sáng lập đã dành cho Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chỉ mình Chúa Thánh Thần có thể giúp chúng ta đổi mới cách chúng ta “sống hết mình cho Thiên Chúa” Cha, “trong Chúa Giêsu Kitô”. Cha Olier đã có kinh nghiệm về điều này trong hành trình cá nhân ngài sống đời kitô hữu, và trong việc thực hiện sứ mạng là nhà đào tạo linh mục. Ta có thể trong buổi sáng hôm nay, nhớ đến những chứng tá mà ngài để lại, đặc biệt trong tập Hồi Ức của ngài. Khi vâng lời cha linh hướng kể lại hành trình của ngài, ngài đã nhắc đến cuộc “trở lại đầu tiên” ở nhà thờ Loretta năm 1630, nơi ngài đã nhờ Đức Mẹ mà nhận được ân sủng từ bỏ cuộc sống phàm tục và khước từ lòng ham hố địa vị trong Giáo Hội, để dấn thân vào việc trở thành một linh mục thánh thiện quang tỏa sự thánh thiện đó nơi hàng giáo sĩ. Nhưng nhất là ngài nhấn mạnh đến thời kỳ tiếp theo cuộc khủng hoảng sâu xa trong những năm 1639-1641, khi ngài đang tham gia công cuộc truyền giáo ở miền quê, ngài đã được một cuộc trở lại thứ hai rất quyết liệt. Bấy giờ, với nhiệt huyết bừng bừng sau khi trở lại, ngài có khuynh hướng cậy vào sự quảng đại của riêng mình trong các hoạt động, và gắn cho mình các công trạng – thì thất bại ngài nếm cảm trong những năm đó – tức không gặp gỡ được Chúa trong kinh nguyện, không thành công trong tác vụ truyền giáo – đã đẩy ngài, nhờ ơn Chúa giúp, hiểu ra rằng điều chính yếu, điều chính yếu duy nhất là, như ngài sẽ nói sau này vào năm 1642, “buông mình cho Chúa Thánh Thần”, là từ bỏ cách khiêm tốn và tin tưởng vào tác động của Chúa Thánh Thần nơi ngài. Chúng ta hãy nhớ những đoạn trong tập Hồi Ức mà cha Olier đã kể lại kinh nghiệm “thiêng liêng” có tính quyết định này :

“Tôi thấy chúng ta cần phải tín nhiệm rất nhiều vào Chúa Thánh Thần và phải phó thác nhiều cho Ngài để Ngài hướng dẫn chúng ta, với tư cách là vị linh hướng đích thực bên trong, như Ngài đã là thế đối với Đức Giêsu-Kitô Chúa chúng ta” (Ms. 1, 145 : Hiến pháp, số 32).

“Cần phải để cho Chúa Thánh Thần hoạt động và đừng ngăn cản Ngài. Đó là điều chúng ta phải làm” (Ms. 1, 164).

Việc phó mình cho Chúa Thánh Thần để Ngài hoàn toàn tự do hoạt động trong tâm hồn ta không chỉ cần thiết cho đời sống cá nhân của ta, mà còn là điều không thể thiếu nếu muốn cho tác vụ của ta có kết quả nơi các chủng sinh và các linh mục mà ta phục vụ. Điều này hệ tại ở chỗ, như cha Olier sẽ viết trong tập Dự phóng (Projet) năm 1651, “mang ân sủng của Chúa Thánh Thần và sự thánh hóa hoàn hảo vào tâm hồn của hàng giáo sĩ” (Dự phóng năm 1651, tr. 25 : Hiến pháp số 7).

Trong tập Hồi Ức, đấng sáng lập viết như sau : “Ta cần phó mình cho Chúa Thánh Thần để Ngài xử dụng chúng ta, để qua tác vụ và qua lời chúng ta, Ngài thực hiện nơi những người mà chúng ta phục vụ điều đẹp ý Ngài” (Ms 1, 274 : Hiến pháp điều 32).

Điều 32 Hiến pháp, ngay đầu chương bàn về “Đời sống của các linh mục Xuân Bích” (Phần 2, chương 1), nhắc cho chúng ta rằng “để sống trong Đức Kitô phục sinh” trong hành trình cá nhân mỗi người, “và để hoàn thành kế hoạch của Người” trong sứ mạng đào tạo các linh mục, “ta cần phải hoàn toàn ngoan ngùy dưới tác động của Chúa Thánh Thần”, và một đoạn tự thuật khác của cha Olier được trích, trong đó Ngài mời gọi “để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta, hầu đem chúng ta đến tất cả những gì Ngài muốn, không giới hạn những ước ao và những tác động của Ngài” (Hiến pháp, đ. 32). Sáng hôm nay, khi kiểm điểm về đời sống Xuân Bích hiện tại của mình, đời sống thiêng liêng cá nhân và sứ vụ đào tạo, chúng ta hãy tự hỏi mình đang ở vị trí nào trong sự tôn sùng Chúa Thánh Thần. Và nhất là hãy dành thời giờ cầu nguyện trong viễn tượng này. Các lời cầu nguyện dưới đây của cha Olier có thể, nếu cần, giúp chúng ta :
“Ôi lạy Chúa Thánh Thần dịu hiền, lạy Chúa Thánh Thần diễm phúc, con xin phó thác cho quyền năng thánh thiện của Chúa, cho sự toàn năng của Chúa…, xin đổ đầy lòng con ngọn lửa tinh tuyền của Ngài và ánh sáng thánh thiện của Ngài” (Ms. 1, 395. 396).

“Ôi lạy Chúa Giêsu dịu dàng, dù con thế nào, con xin thuộc trọn về Chúa nhờ Thánh Thần của Chúa. Chính trong Chúa và trong Thánh Thần của Chúa mà con nhận được mọi ơn, và nhờ Chúa, Đấng là Tất Cả của con, con muốn làm mọi sự, muốn nói tất cả” (Ms. 2, 282).

“Lạy Chúa Giêsu sống trong Mẹ Maria, xin hãy bao phủ chúng con bằng chính Chúa cách trọn vẹn, để Chúa không còn là gì khác ở trong chúng con, để chúng con sống hoàn toàn cho Chúa Thánh Thần, như Mẹ Maria, và để Chúa Cha được vinh danh” (Ms. 9,268)

ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA (2)

Sau khi chúng ta đã dừng lại, sáng nay, ở hai phần cấu tạo lớn của kinh nghiệm thiêng liêng và tông đồ của Cha Jean-Jacques Olier – “sống tột bậc cho Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu” bằng cách cố gắng “để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn mình” – giờ đây chúng ta đề cập một cách chi tiết hơn đến những thực hành khác nhau mà việc này đòi hỏi chúng ta, như đã được trình bày trong chương I  của Phần Hai Hiến Pháp của chúng ta (điều 33 tt.) về “đời sống các linh mục Xuân Bích“. Định hướng cụ thể trước nhất đã được đưa ra cho chúng ta ở đó, trong việc tiếp nối đời sống và những lời giảng dạy của Đấng sáng lập của chúng ta, liên quan đến việc thực hành của chúng ta đối với “Bí tích Thánh Thể” (Hiến Pháp, điều 33). Điều này tương ứng với điều 2 của Tập chỉ nam thiêng liêng hay “Pietas seminarii” do Cha Jean-Jacques Olier biên soạn dành cho các đệ tử của ngài ở Chủng viện Xuân Bích:

Như vậy lòng tôn sùng chủ yếu là tận hiến cho Bí tích Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Trong bí tích này, không những chúng ta tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch mọi ân sủng, và Chúa Kitô ẩn mình ở đó, như là Đấng trung gian mọi ơn phúc, nhưng chúng ta cũng ôm lấy Chúa đang thông ban sự sống của chính ngài cho chúng ta” (Pietas seminarii 2).

Chúng ta hãy lưu ý rằng Hiến Pháp của chúng ta (điều 33. ORA) trong khi mời gọi “các anh em nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng ở hai bàn Kinh Thánh và Thánh Thể“, theo lời khuyến cáo của Bộ Giáo luật hiện hành (điều 276, 2, 2) hoàn toàn nối tiếp ý tưởng của Đấng sáng lập của chúng ta. Chúng ta hãy liên tưởng đến ý nghĩa mà ngài đã để lại chứng từ cho chúng ta ở đoạn viết trong Hồi ký năm 1644 về việc thực hành có tính đào tào mà ngài muốn áp dụng trong chủng viện. Ngài viết rằng như đã từng thực hành “ngày trước trong Hội Thánh“, chúng ta cũng phải tôn sùng Kinh Thánh cũng như tôn thờ Thánh Thể trong chủng viện. Trong nhà tạm, ngài giải thích, chúng ta tìm gặp “Ngôi Lời Thiên Chúa ẩn mình trong Mình Thánh Chúa“, và cũng “Ngôi Lời Thiên Chúa diễn giải bên ngoài và làm cho tiếp thu những gì Ngài nói“. Ngài bày tỏ bên trong “nhờ ánh sáng của đức tin kín đáo chính Thiên Chúa ngự trong Lời thánh thiện của Ngài để nuôi dưỡng Hội Thánh cũng như Ngài hiện diện dưới hình bánh rượu của Bí tích Thánh Thể” (Ms. 7, 54 và 57). Cùng một lúc đây là một hướng dẫn quý báu cho phương pháp sư phạm của chúng ta đối việc đào tạo thiêng liêng của các chủng sinh, chúng ta cũng được nhắc bảo về một đòi hỏi quan trọng cho đời sống thiêng liêng của riêng mỗi người chúng ta là những nhà đào tạo Xuân Bích : việc tôn sùng Lời Chúa và Thánh Thể cả hai phải chiếm một địa vị đặc biệt. Không quên sự liên kết giữa hai việc tôn sùng này, chiều nay, chúng ta được mời gọi dừng lại tuần tự ở mỗi việc tôn sùng để suy nghĩ đến cách chúng ta sẽ sống thế nào.

Chúng ta bắt đầu chất vấn về vị trí chúng ta được mời gọi như là những thành viên Xuân Bích dâng đời sống thường ngày cho việc tôn sùng Lời Chúa. Trong Hiến Pháp của chúng ta, đúng là điều này chỉ được nói đến ngắn gọn trong ORA của điều 33 mà chúng ta vừa điểm qua và trong đoạn của điều 34 : “các linh mục Xuân Bích, trung thành với truyền thống của Hội Thánh, suy niệm Kinh Thánh”. Nhưng chúng ta không thể không nhắc lại tầm quan trọng mà truyền thống Xuân Bích của chúng ta dành cho việc tôn sùng Lời Chúa, xuất phát từ gương mẫu và những lời dạy bảo về chính vấn đề này của Cha Jean-Jacques Olier. Như chúng ta đã thấy ở đoạn viết trong Hồi ký năm 1644 ngài suy nghĩ về cách chủng viện phải hướng dẫn các ứng sinh vào sứ vụ thánh về việc tôn kính Kinh Thánh như ngài viết “đối với chúng ta đó là những ấn tích tốt lành của Thánh Thần của Đức Giêsu Kitô cùng với Bí tích Thánh Thể” (Ms. 7, 56), ngài tự cho ngài – và cũng cho chúng ta – điều tâm niệm này :

“Phải có trước bản thân mình Kinh Thánh như là lời sấm của Thiên Chúa, như là hòm bia giao ước và nhà tạm ở đó Thiên Chúa muốn được tôn thờ và tham khảo để lắng nghe bí nhiệm và sự thật của Ngài. Đó là nơi chúng ta phải lãnh nhận lương thực và bữa ăn thiêng liêng của Ngài; đó phải là nơi chúng ta phải múc lấy ánh sáng của chúng ta, tình yêu của chúng ta và sức mạnh của chúng ta; tóm lại, đó là nơi Thiên Chúa ẩn mình để hiến mình cho chúng ta và để thông ban ân sủng của Ngài cho chúng ta” (Ms. 7, 59).

Khi suy niệm câu chuyện về việc Hiển Dung trong Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 9, 28-36) và về “tiếng nói” từ trời “Đây là Con yêu dấu của Ta, hãy nghe Người”, Cha Olier chú thích :

“Nơi đó tôi hiểu rằng Chúa chúng ta mong muốn giữa những huấn lệnh khác chúng ta phải đón nhận Ngài làm Thầy dạy từ nơi Cha vĩnh hằng : Ipsum audite [Hãy nghe Người]” (Ms. 7, 61).

Và một gợi ý thực tiễn cho chính mình ngài là nên làm : “mỗi ngày đọc một chương […] của Tân Ước” mà thật là hữu ích học “thuộc lòng” một “lời dạy” này hay lời khác (xem Ms. 7, 62). Nói cách khác Cha Jean-Jacques Olier ý thức tầm quan trọng thực hành đều đặn “lectio divina”, như thường được nói theo truyền thống. Không phải là một cuộc học hỏi nghiên cứu, mặc dầu việc này cũng hữu ích, nhưng là một việc đọc thiêng liêng mà, trong đức tin, Thánh Thần Thiên Chúa cho hiểu biết với con tim ý nghĩa sâu sắc của Lời Chúa. Phải thành thật nói, ngài đã thú nhận trong Hồi ký của mình, ngài đã phải trải qua một thời gian để khám phá việc cầu nguyện khi đọc Kinh Thánh và đem ra thực hành. Quá bận nhiều công tác mục vụ, ngài đã phải thỉnh thoảng bỏ việc cầu nguyện với Kinh Thánh này. Thế nhưng vào năm 1644, lúc “nguyện ngắm”, ngài đã cảm nghiệm được lời gọi của Thiên Chúa : “Ta muốn con mỗi ngày đọc Kinh Thánh một giờ: nửa giờ Cựu Ước và nửa giờ Tân Ước; và để làm việc này Ta sẽ mở lòng con để hiểu biết” (Ms. 7, 51).  Một lời mời gọi thực hành mỗi ngày “lectio divina”… Chứng từ của Đấng sáng lập có thể giúp chúng ta, chiều này, xem xét lại chúng ta đang ở vị trí nào hiện nay về điểm này. Không phải nhất thiết bắt chước từng chữ cách thực hành của ngài – mỗi người chúng ta tìm ra nhịp điệu và cách thức thực hành “lectio divina” –  tuy nhiên gương của ngài có thể giúp chúng ta dành cho việc thực hành này – thậm chí dành lại cho việc này nếu, như Cha Jean-Jacques Olier, chúng ta đã đôi khi đi đến việc chểnh mảng – vị trí của nó đáng có trong đời sống thiêng liêng Xuân Bích của chúng ta.

Điểm thứ hai mời gọi chúng ta lưu ý hôm nay, trong sự liên kết với việc tôn sùng thiêng liêng Lời Chúa, đó là lòng tôn kính Thánh Thể của chúng ta. Theo quan điểm của Công đồng Vaticanô II (Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis 13), Hiến Pháp của chúng ta mời gọi chúng ta “dâng Thánh lễ mỗi ngày”, đó là “chức vụ chủ yếu” của chúng ta như là linh mục. Hiến Pháp nhấn mạnh việc hiệp thông bí tích “vào mầu nhiệm vượt qua” trong Thánh Thể “nguồn mạch và đỉnh cao” của “sứ vụ” của chúng ta, nhưng cũng gợi ra “việc chiêm ngắm mầu nhiệm đức tin” để chúng ta “biến thành hình ảnh của Đức Kitô Phục sinh” và kết hợp chúng ta “với tình yêu của Ngài đối với mọi người” (Hiến Pháp, điều 33 và ORA). Những gợi ý đơn sơ của Hiến Pháp phải được soi sáng bằng chứng từ mà Đấng sáng lập của chúng ta, Cha Jean-Jacques Olier, đã để lại trong số các bài viết của ngài về “kinh nghiệm Thánh thể” của riêng ngài : ngài là gương mẫu cho chúng ta, những  thành viên Xuân Bích, và có thể giúp chúng ta, chiều nay, điểm lại chiều kích quan trọng này của đời sống thiêng liêng của chúng ta trong Hội. Chúng ta nhớ lại ttước tiên, vào lúc sáng lập Hội, năm 1644, trên đường đi đến “Montmartre” với những bạn đồng hành, như ngài ghi trong Hồi ký của ngài, ở đó các ngài “đã hiến dâng cho Thiên Chúa để trở thành những người phục vụ Hội Thánh Chúa”, qua việc đào tạo giáo sĩ, ngài đã nghĩ đến việc ghi thêm vào tên “Hội nhỏ” danh xưng “của Thánh Thể”. Và trong “những lưu ý đối với Hội của các linh mục Thánh Thể” mà ngài viết trong Nhật ký của ngài :

“Cũng như bên ngoài của hình bánh và hình rượu của Bí tích Thánh Thể […] không phải […] có trong mình nguồn ơn thánh hoá, nhưng chính là nội dung của bản thể biến đổi, biến thành […] Chúa Giêsu Kitô mới là nguồn mạch đời sống thần linh, cũng vậy đối với các linh mục […] không phải bên ngoài của họ thánh hoá, nhưng là đáy lòng của họ biến đổi thành Chúa Kitô sống động và đem lại sự sống cho Hội Thánh. Và cho mục đích này mà tất cả các linh mục – và nhất là các linh mục của Hội Thánh Thể – phải phấn đấu : trở nên giống Chúa Giêsu Kitô nơi Bí tích Thánh Thể, mà họ tuyên hứa tôn thờ” (Ms. 7, 21, 35 và 39.40).

Chúng ta có xác tín rằng, như Cha Jean-Jacques Olier, là chính việc đồng hình đồng dạng nội tâm với Chúa Kitô – Thánh Thể, đối với anh em Xuân Bích chúng ta, là cội nguồn hữu hiệu của tác vụ thánh hoá các giáo sĩ ?  Và một khi đã xác tín, như Đấng sáng lập, rằng chúng ta có nhiệm vụ “đào tạo các linh mục” chúng ta được mời gọi “múc lấy lòng tôn sùng và nhiệt thành đối với vinh quang của Bí tích Thánh Thể để đem đến mọi nơi” trong Hội Thánh ? Một cách cụ thể Đấng sáng lập của chúng ta đã để lại chứng từ, luôn luôn đầy tính cách khuyến khích đối với chúng ta, về những hình thức thực tiễn của lòng tôn sùng Thánh Thể của ngài. Dĩ nhiên là ngài rất trung thành dâng “hy lễ thánh” mỗi ngày, và, trong thánh lễ ngài kết hiệp với những ý nguyện mà chính Chúa Giêsu gợi ra cho ngài trong buổi nguyện ngắm, ý nguyện tạ ơn “Cha hằng hữu” hoặc những ý nguyện tông đồ và mục vụ. Nhạy cảm với chiều kích hy tế Thánh Thể, Cha Jean-Jacques Olier đã không coi nhẹ tầm quan trọng thiêng liêng và tông đồ của việc rước lễ. Ngài viết trong Hồi ký của ngài về vấn đề này :

“Chính Chúa chúng ta đến với chúng ta, không những để ban cho chúng ta Thánh Thần của Ngài [như trong bí tích rửa tội và thêm sức] nhưng là để hoán cải và biến đổi hoàn toàn chúng ta thành như Ngài. Ngài không đến để chỉ hành động trong chúng ta nhờ Thánh Thần của Ngài, mà còn để hành động cho Thiên Chúa và để chính Ngài hành động trong chúng ta […]”.

Chính nhờ việc hiệp thông Thánh Thể mỗi ngày của chúng ta, như Đấng sáng lập đã viết, mà chúng ta trở thành những “người tông đồ” và những “tông đồ mang Chúa Giêsu Kitô” cho những anh em của chúng ta : chính chúng ta “như là những bí tích” sống động “mang Chúa” xung quanh họ nhờ hành động và lời nói (Ms. 2, 314, 320 …). Cuối cùng, ngoài việc thực hành đều đặn phụng vụ thánh lễ, Cha Jean-Jacques Olier đã có lòng sùng kính thờ lạy thinh lặng trước “Mình Thánh Chúa”. Khi ngài ở Paris, ngài có thói quen mỗi chiều đến Nhà thờ Đức Bà để kính viếng, với nhận thức rằng thói quen này là một phương thế đối với các linh mục làm cho sứ vụ của mình hữu hiệu. Ngài viết trong Hồi ký :

“Vì linh mục chuyên cần tôn kính và thờ lạy Bí tích Thánh Thể, kêu cầu và van xin cho dân chúng, ngài không thể không đem lại sớm hay muộn việc hoán cải của đoàn chiên. Việc kiên trì cầu nguyện và ở trước Mình Thánh Chúa lại không thể thông ban những tâm tình, lòng nhiệt thành và hữu hiệu của Chúa Kitô để rồi đánh động, soi sáng và hoán cải dân chúng, nhờ quyền năng của Chúa Giêsu Phục sinh đang sống trong Hội Thánh” (Ms. 4, 125-126).

Chừng ấy chứng từ cũng có thể hôm nay chất vấn và cổ vũ chúng ta về việc duyệt xét lại trong cầu nguyện đối với việc thực hành Thánh Thể và vị trí của nó trong đời sống thiêng liêng Xuân Bích của chúng ta.

 ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA (3)

    Trong ngày tĩnh tâm cuối cùng này, chúng ta tiếp tục suy niệm và đọc lại đời sống mình về những hướng đi lớn của linh đạo Xuân Bích, mà phần tiếp theo trong chương Hiến pháp của chúng ta nói về “đời sống các linh mục Xuân Bích” (số 33tt). Sáng nay chúng ta sẽ ngừng lại tại hai điểm được nhắc lại trong hai khoản 34 và 35. Trong khi nói với chúng ta về đời sống cầu nguyện (“oraison”) và về việc tham gia truyền giáo (“mission”), cả hai khoản đã lưu ý như là hai điểm cực (pôles) hay tụ điểm đặc trưng đời sống thiêng liêng của chúng ta : điểm cực về sự (kết hợp) thân mật cá nhân với Chúa Kitô và điểm cực về sự dấn thân tông đồ. Lần lượt nhận xét hai điểm này cách rõ ràng hơn, chúng ta sẽ không quên rằng thực sự chúng không thể tách rời nhau được. Thay lời dẫn nhập, chúng ta có thể nhớ lại viễn tượng kép trong Phúc Âm theo thánh Marcô (Mc 3,13-14) làm sáng tỏ ý nghĩa Chúa Giêsu đã muốn đặc cách hóa ơn gọi của các tông đồ : “Ngài lên núi và Ngài gọi những kẻ Ngài muốn. Họ đến với Ngài và Ngài chọn mười hai người trong họ để” – đây là sự nhấn mạnh quan trọng – “ở với Ngài và sai họ đi rao giảng”. Điều gì là thật với Mười Hai Tông Đồ thì cũng là thật cho mọi linh mục, được tham gia vào tác vụ tông đồ của các giám mục, những đấng kế vị các ngài, và thật cách riêng cho chúng ta, (linh mục) Xuân Bích, được các giám mục của chúng ta trao phó, nhân danh các ngài và dưới trách nhiệm của các ngài, cộng tác đào tạo hàng giáo sĩ của các ngài. Đặc biệt đối với chúng ta, sự sống thân mật với Chúa Kitô và việc tiếp tục sứ mạng của Ngài không thể tách rời, chúng ta sẽ không quên điều đó trong khi lưu ý sáng nay đến điều một rồi đến điều hai.

    Hãy bắt đầu bằng điều đã được khoản 34 nhắc bảo chúng ta về việc “cầu nguyện” (l’oraison). Trước hết, cần lưu ý rằng việc cầu nguyện được trình bày cho chúng ta vừa trong liên quan với “phụng vụ” (la liturgie) trong đó “những mầu nhiệm Chúa Kitô” được “thông ban” cho chúng ta, vừa với việc suy đọc thiêng liêng “Thánh Kinh”. Nói cách khác, trong sự kéo dài việc tôn thờ Lời Chúa và Thánh Thể, mà chúng ta đã suy niệm chiều hôm qua. Viễn tượng đó hoàn toàn am hợp với cái nhìn của đấng sáng lập chúng ta, cha J.J.Olier. Trong cuốn “Giáo lý Kitô giáo cho đời sống nội tâm”, xuất bản năm 1656, ngài đặt việc cầu nguyện, trong đó ngài coi – đây là đề tài của phần hai cuốn sách – “là một phương cách chính yếu để đạt được và bảo tồn tinh thần kitô giáo” – trong việc kéo dài việc cử hành Thánh Thể. Quả quyết tại đây rằng : “Thiên Chúa đã ban Con của Người cho chúng ta để ở trong chúng ta chẳng những khi chúng ta thông hiệp với Mình và Máu Ngài (trong thánh lễ), nhưng còn trong mọi lúc của đời sống chúng ta” (bài 5), ngài giải thích nơi khác trong những Ghi chú thủ bút, rằng việc cầu nguyện là phương thế đạt được sự cư ngụ thường xuyên của Chúa Kitô trong ta. Thực vậy, ngài coi đó là “sự thông hiệp thiêng liêng với Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”, mà chúng ta nhận được trong khi thông hiệp cách bí tích trong thánh lễ, và ngài viết :

“Linh hồn, qua việc cầu nguyện, gặp được sự sung mãn của Thánh Thần và những hồng ân mà nó đã nhận qua các bí tích […] và, vì nó có thể không ngừng ở trong lời cầu nguyện, nên nó có thể không ngừng thông hiệp với Chúa Giêsu Kitô” (Nhật ký 2. 191. 190).

    Đấy là cách diễn đạt riêng của ngài mà khoản 36 trong Hiến Pháp nói với chúng ta, tức là nhờ việc cầu nguyện hàng ngày mà “những mầu nhiệm Chúa Kitô, được phụng vụ thông truyền […] trở nên thực sự là của chúng ta nhờ việc đồng hóa nội tâm” (Hiến Pháp khoản 34). Trong khi mời gọi chúng ta “kiên trì” dấn thân vào đó, cũng khoản này đòi chúng ta dành “mỗi ngày một giờ”, theo khả năng, vào việc thực hành cầu nguyện. Để hiểu rõ ý nghĩa và tầm mức của sự đòi hỏi này trong linh đạo Xuân Bích của chúng ta, sáng nay chúng ta cần được soi dẫn dưới ánh sáng của việc thực hành và lời dạy của cha J.J.Olier. Việc “trở lại đầu tiên” của ngài tại thánh điện Đức Bà ở Loretta đã diễn ra, theo ngài kể trong Nhật ký, bằng “một sự ao ước rất lớn cầu nguyện” trong thinh lặng và kéo dài (Nhật ký 1, 44, 45). Một khi khám phá tại đó sự quan trọng của việc cầu nguyện, ngài đã mãi mãi trung thành sau đó : “từ khi tôi nhận được ơn gọi tại Loretta, tôi chỉ có thể tìm thấy […] vui thỏa trong việc trao đổi với Thiên Chúa” (Nhật ký 3, 46). Ngay trong khi bận bịu nhất với vô vàn hoạt động mục vụ tại chủng viện và tại giáo xứ Saint-Sulpice từ 1642 đến 1652, ngài vẫn dành trọn “một giờ sáng và chiều” để thực hiện việc cầu nguyện. Nhưng ngài cũng ghi nhận là ngài thường luôn trong nội tâm “gắn bó suốt cả ngày” với Thiên Chúa và nhìn thấy mình như “được cầm tay dẫn dắt” trong tác vụ bởi Thánh Thần của Chúa Giêsu. Là vì, đối với ngài, chính thật tất cả đời sống thường nhật đều phải được sống trong tinh thần cầu nguyện. Trong những điều ngài ghi nhận về việc cầu nguyện, ngài chú giải như sau lời kêu gọi phúc âm về việc cầu nguyện liên lỉ được thánh Phaolô nhắc lại (trong thư 1 Thess 5,17: “hãy cầu nguyện không ngừng”).

    “Cách cầu nguyện thánh thiện và hữu ích của những kitô hữu […] không hệ tại sự gì khác là làm mọi công việc của mình trong tinh thần cầu nguyện. Chính trong điểm này gồm tóm tất cả sự trọn lành ; thi hành mọi công việc (= làm mọi hành động của chúng ta) cho sáng danh Thiên Chúa trong Chúa chúng ta và với Chúa chúng ta. Đó là điều thánh Phaolô (Rm 6,11) gọi là “sống cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô” (Nhật ký 20, 128).

    Chúng ta đừng quên rằng cũng chính vì không hề thua kém điều đó mà ngày nay Hiến pháp của chúng ta (khoản 34) kêu gọi chúng ta bằng cách nhắn nhủ chúng ta tha thiết “với sự kiên trì trong việc cầu nguyện”. Nhưng trong thực tế, nếu Hiến pháp đòi chúng ta cách cụ thể phải thực hiện “mỗi ngày một giờ”, là vì, như chính cha J.J.Olier trong những Ghi chú của ngài nói, sống trong tinh thần cầu nguyện mọi ngày của chúng ta chỉ được Thánh Thần Chúa Giêsu từ từ ban cho chúng ta nếu chúng ta trung thành với giờ cầu nguyện thầm lặng hàng ngày đó. Ngài viết : “Phương thế tuyệt hảo, hay nhất, đưa chúng ta vào việc cầu nguyện” liên lỉ, “đó chính là sự thực hành và sự chăm chỉ cầu nguyện thực hiện mỗi ngày” (Nhật ký 20, 128). Trong cùng  Ghi chú đó, ngài nhấn mạnh nơi các vị “linh hướng” Xuân Bích để họ lưu tâm khai mở cho các chủng sinh điều đó. Bởi vì ngài nhớ lại và luôn nhắc bảo chúng ta hôm nay là ngài được kêu gọi cùng với Hội nhỏ bé của ngài (hội Xuân Bích) để sống trong sự chiêm niệm trường kỳ “hầu đem nó vào trong chức linh mục” (Nhật ký 1645).

    Và đó là điều đưa chúng ta sáng nay tới điểm cực thứ hai của linh đạo Xuân Bích, liên kết chặt chẽ với điểm cực thứ nhất : đây là điểm cực tông đồ. Như khoản 35 trong Hiến pháp nói : “Như thế, được hướng dẫn” nội tâm “bởi Thánh Thần của Chúa Giêsu” trong đời sống cầu nguyện của chúng ta, chúng ta tự cảm thấy được dấn thân “sâu xa”, do tác vụ đào tạo hàng giáo sĩ, “vào sứ mạng của Giáo Hội”, bận tâm tham gia cách kín đáo nhưng quyết liệt “vào công việc phúc âm hóa và làm phát triển nơi các linh mục tương lai” được giao phó cho chúng ta “tinh thần tông đồ và truyền giáo” (Hiến pháp, khoản 35). Cả khi, như chúng ta đã lưu ý ở đầu tuần tĩnh tâm này, công việc đào tạo của chúng ta tại chủng viện, thường không diễn ra, như đối với các linh mục khác tại tiền đồn của việc truyền giáo trong các giáo phận, nó vẫn thật sự là một thừa tác mục vụ và tông đồ. Không phải tình cờ mà đấng sáng lập của chúng ta, cha J.J.Olier quan niệm “chủng viện Xuân Bích” rập theo kiểu mẫu của “trường” các tông đồ : “Chủng viện Xuân Bích sẽ được tất cả những ai bước vào [các chủng sinh, nhưng trước hết là nhà đào tạo họ !] xem như một trường tông đồ, nơi mà người ta được qui tụ dưới sự che chở của các thánh Tông Đồ để học theo các phương châm của các ngài và sống phù hợp với Phúc âm các ngài rao giảng” (Nhật ký 16, 281; Hiến pháp khoản 35).

    Để tự đổi mới nội tâm, khi cần thiết, trong sự dấn thân mục vụ và truyền giáo Xuân Bích, sáng nay chúng ta có thể nhớ lại lòng thực sự “đam mê” (passion) tông đồ đã luôn luôn sinh động đấng sáng lập của chúng ta. Chẳng hạn khi, vào năm 1642, lúc sắp sửa trở thành cha sở tại Saint-Sulpice, nơi ngài sẽ di chuyển chủng viện, thành lập tại làng Vaugirard tới, ngài tâm sự với cha linh hướng mình trong Nhật ký :

    “Điều cũng làm cho con đôi khi cảm thấy những ước ao rất lớn là cứu rỗi toàn thế giới, ước ao phổ biến lòng nhiệt thành của tình yêu mà tìm sáng danh Thiên Chúa trong trái tim của toàn thế giới. Con tha thiết mơ tưởng có thể có cả ngàn môn sinh (để huấn luyện) hầu sai đi mọi nơi, mang đến tình yêu Chúa Giêsu Kitô và lòng tôn kính Thánh Thể. Và khi con nghĩ rằng giáo xứ mà người ta đề nghị với con có thể giúp cho việc đó để làm cho Paris và toàn thể nước Pháp được lòng sốt sắng, thì con hết sức vui mừng !” (Nhật ký 2, 279).

    Chúng ta nhớ lại ngài hiệp thông mạnh mẽ với “lòng ước ao nồng nhiệt phát triển Giáo Hội” được chiêm ngắm trong niềm tin “vào Chúa phục sinh của chúng ta ”, ngài viết tại một trong các Thư của ngài : “đó phải giống như sự ao ước lớn lao và là lời cầu nguyện liên tục của các linh mục”, bắt đầu, dĩ nhiên, bằng các linh mục Xuân Bích. (Thư 444; Hiến pháp khoản 35). Một lời cầu xin với Chúa Thánh Thần – Đấng bản thân là “Tinh Thần tông đồ” của Chúa Giêsu trong Giáo Hội – để xin Ngài ban ơn được có sự “đam mê” truyền giáo đó. Một kinh mà bản thân cha J.J. Olier hằng đọc và sẵn sàng khuyến khích, theo ý nguyện của ngài và của các môn đệ ngài trong Hội (Xuân Bích), cho những người các ngài hướng dẫn. Thế nên ngài đã viết cho một trong các “con thiêng liêng nữ” của ngài:

    “Cha xin con hãy khẩn khoản cầu xin cho cha tinh thần tông đồ ; […] bởi vì nếu cha có được đặc ân đó, cha sẽ không ao ước và cầu xin Chúa chúng ta điều gì khác nữa ngoài việc xin Ngài gìn giữ ơn đó. Có điều thiện hảo nào mà chúng ta không làm được với tinh thần ấy ! […] Cần phải dùng mọi sức lực của chúng ta để đạt được ơn đó” (Thư 52 ; Hiến pháp khoản 35).

    Tất cả điều đó giúp chúng ta suy nghĩ sáng nay, về cách thức hiện nay chúng ta thử nghiệm sống khía cạnh hay điểm cực tông đồ đó của tác vụ Xuân Bích, cá nhân mỗi người theo phận sự mình và cùng cộng tác mỗi người với các người khác trong toán đào tạo. Nhưng điều này trước hết mời gọi chúng ta dành thời giờ để cầu nguyện với Thánh Thần truyền giáo mà đấng sáng lập căn dặn. Chúng ta có thể cầu nguyện trong một bầu khí tạ ơn về sứ vụ Xuân Bích mà như ngài, chúng ta có “hạnh phúc” được “tuyển chọn”, như ngài nhìn nhận trong Nhật ký của mình.
    “Chúa Thánh Thần ở trong ta để kiện toàn Thân mình của Chúa Giêsu Kitô và vẻ thẩm mỹ của Giáo Hội Người. Hạnh phúc biết bao cho chúng ta được lòng nhân từ của Thiên Chúa tuyển chọn, Ngài hoạt động trong chúng ta bằng Thánh Thần của Ngài, điều làm Ngài vui thỏa cho sáng danh Ngài và kiện toàn sự sáng danh cho Con Ngài” (Nhật ký 1, 147).

    Và khi cần, chúng ta có thể mượn cho việc cầu nguyện đó, chính những lời lẽ mà cha J.J. Olier đề nghị với chúng ta thay cho “việc đọc kinh Thánh Vụ” trong cuốn “Ngày sống kitô giáo” (tr. 123) :

    “Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng vui thích tiếp tục làm trong Giáo Hội điều Chúa đã khởi sự nơi các thánh của Chúa, con dâng cho Chúa linh hồn con để Chúa đổ tràn trong nó, hãy diễn đạt trong nó điều Chúa đã diễn đạt trong các thánh ; hãy làm triển nở trong con và trong toàn Giáo Hội điều Chúa dâng lên Thiên Chúa như bổn phận trong trái tim của Chúa Giêsu […]”.

    Trong khi nhớ lại lời quả quyết táo bạo của đấng sáng lập của chúng ta trong “Dự án thành lập một chủng viện tại một giáo phận”, được trình bày với các giám mục năm 1652 :

    “Nếu có ba người tông đồ trong một chủng viện, đầy […] nhiệt tâm, có lòng bác ái, có sự hiểu biết và sự khôn ngoan cần thiết cho công việc thiêng liêng này, thì họ sẽ đủ cho việc thánh hóa cả một giáo phận, […] họ sẽ thánh hóa cả thế giới […]. Đó là sức mạnh của tinh thần tông đồ và vô vị lợi” (Dự án, tr. 228-229; Hiến pháp khoản 26).

 

ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA (4)

Sáng nay, sau khi đã dừng lại ở hai cực không thể tách rời của linh đạo XB chúng ta là « đời sống nội tâm » và « tinh thần tông đồ », thì ở cuối kỳ tĩnh tâm, chúng ta đạt tới mức coi như là « bầu khí » trong đó chúng ta được mời gọi sống hằng ngày. Một bầu khí mà Hiến Pháp XB chúng ta, từ số 37 đến 40, trình bày cho thấy tính cách vừa « phục sinh », vừa « huynh đệ ».

Phương diện thứ 1 bao hàm chúng ta trong thái độ riêng tư nhất với Thiên Chúa trước hết mọi sự ; đang khi phương diện thứ 2 đưa chúng ta về những mối tương quan với nhau trong cộng đoàn XB. Chúng ta linh cảm thấy điều ấy rồi và chiều nay, chúng ta lại nhận ra khi suy nghĩ về nó. Hai phương diện này chẳng phải là không liên quan gì tới nhau, theo cách thế – dầu chẳng phải là điều duy nhất thế đâu – đời sống cộng đoàn chúng ta rõ ra là môi trường ưu đãi và thật cụ thể, nơi đó chúng ta thường xuyên được mời gọi thông hiệp vào sự Phục sinh của Chúa Giêsu, để « chết đi cho con người chúng ta mà sống cho Thiên Chúa », như Jean Jacques Olier, Vị Sáng lập chúng ta, ưa nói thế.

1. Chiều nay, khởi đầu chúng ta hãy suy niệm về những đòi hỏi – nhưng tiên vàn là Ân sủng đấy – của chiều kích phục sinh này của linh đạo XB chúng ta. Lưu ý rằng, rất đúùng, hằng ngày chúng ta được đón nhận Ân sủng từ đó. Hãy nhớ điều 33 của Hiến Pháp chúng ta nhắc rằng « nhờ cử hành Thánh Thể, suối nguồn và tột đỉnh của sứ mạng chúng ta », chúng ta thông hiệp « ngày một nhiều hơn vào Mầu nhiệm Phục sinh » của Chúa Giêsu (HP, đ.33). Nhưng vấn đề đặt ra là hãy cật vấn xem cách chúng ta « đồng hóa từ trong » và cá biệt ra sao Mầu nhiệm này của Chúa Kitô, Đấng lại « kết hợp với chúng ta nhờ Phụng vụ Thánh Thể » (Cf. HP, đ.34). Hằng ngày của cuộc sống XB, khi làm cho sự Phục sinh của Chúa Giêsu trở thành của chúng ta, điều ấy bao hàm vừa tiến trình nội tâm của chúng ta hướng về sự thánh thiện Kitô, cố gương mẫu bao nhiêu có thể, bởi vì sự thánh ấy mà chúng ta được mời gọi làm linh mục ; vừa viêïc thi hành sứ mạng của chúng ta đối với những người mà ta phải đào luyện trở thành tư tế. Điều này chính Jean Jacques Olier đã chỉ dẫn chúng ta trong tập Tạp ký Ngài viết về Chủng Viện. Nói về những thành phần của Hội làm việc trong Chủng Viện, Ngài ghi :

 « Họ sẽ để cho Chúa Giêsu Kitô sử dụng họ một cách tuyệt đối, theo cách Người muốn ; hoặc để qua họ (khía cạnh nội tâm hơn) mà vác Thánh giá và cả chịu chết nữa ; hoặc để hành động qua họ (khía cạnh tông đồ), tiếp tục nơi họ tác vụ tư tế thần thánh của Người » (Tự thuật 14,7 ; HP, đ.38).

Chiều nay, chúng ta dừng lại lần lượt ở phương diện này hay nọ của « bầu khí » phục sinh trong đó, với tư cách là XB, chúng ta phải sống. Nơi cuốn Tự thuật, Vị Sáng lập của chúng ta quả quyết rằng để trở thành « Kitô hữu đích thực và thành toàn », phải « chết đi cho chính mình và sống cho duy Thiên Chúa thôi ». Và Ngài xây dựng đòi hỏi này trên « lời dạy của Chúa chúng ta » trong Phúc Âm : « Ai muốn đến cùng Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập giá mình và theo Ta » (Mt 16, 24). Theo nghĩa này, Ngài giải thích, «  qua cái chết bản thân mà bước vào đời sống với Chúa Kitô », « điểm đầu » như là « nền tảng của điểm sau ». Và như vậy, Jean Jacques Olier nói, « tâm trạng trước hết phải có trong sự nghiệp của chúng ta » là « từ bỏ chính mình ». Ngài cũng nhắc tới lời dạy của Thánh Phaolô (Rm 6,11) về Phép Rửa : « Hãy nhớ, chớ quên, là anh em chết đi cho tội và sống cho TC trong Chúa Giêsu Kitô ». Nói cách khác, chính Ân sủng Rửa tội đã lãnh nhận & luôn tác động trong chúng ta giúp ta chết đi từ bên trong, đang khi chúng ta không có khả năng như thế duy từ những nỗ lực của ta. Được vậy, chỉ là do chúng ta biết đón nhận Ân sủng « hoán cải » Phục sinh. Một sự đón nhận đi qua lòng trung tín đến với việc cầu nguyện hằng ngày, mà sáng nay chúng ta đã suy về tầm quan trọng của nó. Nhưng điều ấy cũng đến từ viêïc chúng ta cầu viện thường xuyên với « mầu nhiệm hòa giải nơi Bí tích sám hối », như điều 37 trong Hiến Pháp nhắc nhở chúng ta (HP, đ.37).

Đối với mỗi người chúng ta, cách thế « vác thập giá mình » trong đời sống thiêng liêng cá nhân rõ ràng chẳng tách rời – đây là phương diện thứ hai – với các thập giá không hề thiếu, trong khi chúng ta thực thi sứ mạng XB ; điều ấy được số 38 Hiến Pháp khơi lên ở « trong những chống đối, va chạm », thậm chí đôi khi nơi « thất bại » chúng ta phải đương đầu. Trong chiều kích tông đồ của mình, chúng ta được mời nhận ra biết bao là cơ hội quan phòng để sống Mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu. Hãy đọc lại điều Jean Jacques Olier kể trong tập Tạp ký, khi nói về kinh nghiệm của mình, rằng sứ mạng của Ngài ở Giáo xứ XB đã đụng phải bao khó khăn và chống đối, cả dữ dội nữa! :

« Người tôi tớ phải chịu đau khổ mọi bề vì ích lợi của Chủ mình. Không có lạnh nóng nào, đói khát nào, công việc, khinh chê trái ý nào mà người ấy không chịu được khi theo đuổi các lợi ích của Chủ mình. Không có sự khốn khó nào mà người ấy không vượt qua để phụng sự Chủ mình ; không có điều gì mà người ấy không phải làm và chịu vì Ngài » (Tự thuật 14,22 ; HP, đ.38).

Trong kinh nguyện chiều nay, để khấn xin Chúa Thánh Thần sức mạnh tiếp nhận những khó khăn của sứ mệnh chúng ta, trong sự thông hiệp với Mầu nhiệm Phục sinh của CG, chúng ta nhớ lại điều Đấng Sáng lập đã nói với các môn sinh Ngài ở một trong những buổi « hội họp thiêng liêng » ở Chủng Viện :

« Có những đau khổ mà hoàn cảnh đặt để ra cho chúng ta, chúng là những Thánh giá thực sự phải yêu chuộng cho tất cả mọi cuộc sám hối và hành xác mà chính chúng ta có thể lựa chọn… Được chấp nhận, thì những Thánh giá quan phòng này giúp chúng ta tiến bộ trước mắt Chúa nhiều hơn gấp bội những Thánh giá mà chúng ta tự chọn. Những Thánh giá của tình cảnh chúng ta này rất thánh hóa chúng ta… Vì vậy chúng ta phải yêu mến và đón nhận vui vẻ những khó nhọc nho nhỏ chợt đến trong tình cảnh chúng ta » (Tự thuật 116,5,53-55).

2. Và điều này dẫn chúng ta tới suy niệm khía cạnh thứ hai của « bầu khí » trong đó chúng ta phải sống hằng ngày linh đạo XB chúng ta, khía cạnh của mối liên hệ cộng đoàn – một môi trường thường cho chúng ta gặp thấy, không nghi nan gì – những « khó nhọc nho nhỏ » hay là những « Thánh giá » không chọn lựa!

Điều 39 Hiến Pháp nhắc chúng ta trước hết phải có « tấm lòng thể hiện », giữa chúng ta những thành viên XB, « sự hiệp thông sâu xa mà tác vụ linh mục đòi buộc tất cả những người nhận lãnh trách nhiệm linh mục » (HP, đ.39). Cũng như tất cả các anh em trong hàng ngũ linh mục của các địa phận, chúng ta được mời gọi, nói một cách khác, sống cụ thể mối tình « huynh đệ bí tích », mà việc thụ phong linh mục tạo nên giữa mọi linh mục. Một tình huynh đệ mà tỏ tường Jean Jacques Olier, Đấng Sáng lập của chúng ta, dành một tầm quan trọng đặc biệt trong Hội, với mức độ ta có nhiệm vụ khai tâm cho các chủng sinh được giao phó cho ta bằng nêu gương cho họ. Trong cuốn Tạp ký về Chủng Viện XB, Ngài nhấn mạnh điều này nhiều lần :

« Trong ngôi nhà này, ví dụ Ngài quả quyết, phải khấn sống theo đức tin, đức tin được tiến hành bởi sự dễ dàng và hướng chiều mà đức ái của Chúa Thánh Thần ban cho [Thánh Thần là suối nguồn] (Tự thuật 14,105 ; HP, đ. 34).

Và Ngài không ngại chất vấn bạn hữu mình vấn đề ấy , rồi chất vấn cả chúng ta sau đó :

« Cần phải… học hỏi xem thử ta có sống với tha nhân như với anh em mình không [anh em trong cộng đoàn và không phải chỉ là chủng sinh], xem thử ta có thân tình, đơn giản và bác ái đối với họ như đối với những anh em đích thực của mình không, anh em đích thực còn hơn cả anh em máu mủ, bởi vì không những họ chỉ có một cha một mẹ, tức là TC và Giáo Hội của Ngài, nhưng họ còn mang trong mình cùng một Thánh Thần khiến cho tất cả họ trở nên một » (Tự thuật 14,107 ; HP, đ.39).

Quả vậy, nơi Thần Khí duy nhất của Chúa Giêsu, mà tất cả cũng như từng người chúng ta được triệu tập lại trong Hội XB để cùng nhau đáp ứng lại ơn gọi chung là đào luyện các linh mục theo đặc sủng & theo Jean Jacques Olier. Như điều 39 của Hiến Pháp XB chúng ta chỉ định rõ, « sự hiệp thông sâu xa » mà chúng ta được kêu gọi sống như thế giữa các thành viên XB với nhau, bày tỏ qua những « mức độ khác nhau ». Theo một nghĩa trước hết – hay đúng hơn theo nghĩa tối thiểu – có một mức độ có thể gọi là « chức năng ». Đó là mức độ mà, theo sự bổ sung các chức năng của chúng ta trong Chủng Viện, ta phải « hợp tác hữu hiệu để phục vụ sứ mạng chung ». Điều này giả thiết giữa chúng ta, trong hội họp và trong sự linh động hằng ngày của việc huấn luyện, phải có một « công việc nhóm đích thực ». Nó đòi hỏi tính « tập thể » XB mà chúng ta đã suy nghĩ ở ngày đầu cuộc tĩnh tâm. Nhưng cho dù mức độ « chức năng » của đời sống XB là cần thiết, vẫn không đủ và về phía chúng ta, vẫn cần đến một sự chú tâm ở tầm mức « cá nhân » về các mối tương quan, mà điều 39 của Hiến Pháp luôn gợi lên khi nói tới sự « thân tình » (cordialité), sự « thông cảm » (compréhension) và sự « tín nhiệm » (confiance) lẫn nhau ; khi nói tới mối bận tâm « đón tiếp huynh đệ ».

Đối với chúng ta thật là tốt, để soi dẫn việc xem lại đời sống huynh đệ hiện thời giữa chúng ta, trong cộng đoàn XB, chiều nay sẽ đọc lại ít đoạn trong cuốn sách của Vị Sáng lập chúng ta có nhan đề « Dẫn vào đời sống và nhân đức Kitô », trong đó bàn về bác ái ở chương 14, khởi từ chính kinh nghiệm của Ngài. Ngài nhắc lại trước hết kiểu mẫu và suối nguồn của tình bác ái huynh đệ : tình yêu của chính Chúa Kitô, tình yêu ấy không là gì khác hơn là chính tình yêu mà Cha Người mang đến cho Người : « Như Cha yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con » (Ga 15,9)  và Ngài viết :

« Chính như thế mà Chúa chúng ta muốn con người yêu nhau. Chính vì thế, Người nói với các đồ đệ : « Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con » (Ga 15,12). Tình yêu Thầy tạo nên dành cho các con, dựa trên tình yêu mà Cha Thầy dành cho Thầy ; Thầy cũng muốn các con tạo nên tình yêu dành cho nhau, dựa trên tình yêu mà Thầy dành cho các con, để tình yêu của các con cũng nên đồng hình và giống với tình yêu của Cha Thầy » (tr.149).

Và Ngài xác định rằng vì thế mà CG ban cho chúng ta Thần trí nội tâm của Người. Để « trong TC » chúng ta phải yêu nhau, cách rất cụ thể :

 « Phải làm như vậy đối với người lân cận. Phải yêu họ hết mình ; phải thông hiệp với họ với con tim, với linh hồn, mọi cách và hiện diện nữa » (tr. 150).

Một tình bác ái, muốn trở nên « phổ quát », phải thực tế và áp dụng trước hết « đối với từng trường hợp đặc thù » (từng người trong số những người kề ta). Một tình bác ái không chỉ bao hàm trong cách lột tả nhạy cảm, nhưng phải được thực thi với sự kính trọng và tự do. Một tình bác ái « không hao mòn và không bao giờ mệt mỏi », giúp cho người lân cận khi cần là có thể cậy nhờ vào, dù ở nơi nào hay ở cuôïc gặp nào đó, mà không sợ bị chối từ.

Ghi nhận sau cùng là mối tương quan huynh đệ trong cộng đoàn XB, dù ở mức độ « cá nhân », cầu mong ta vẫn có thể, như điều 39 & 40 của Hiến Pháp nhắc tới, bằng tất cả sự « đơn sơ » giữa chúng ta, đạt tới một sự « chia sẻ thiêng liêng » chân thật (đ. 39) mà những cuộc « tĩnh tâm » của chúng ta (như cuộc tĩnh tâm này) là một cơ hội đặc biệt (đ. 40) : chia sẻ sự « tìm kiếm » thiêng liêng, chia sẻ kinh nguyện, cùng nhau nhìn lại đời sống chúng ta trong đức tin…        

 

Trackback from your site.

Bài viết cùng chủ đề

Dữ liệu Website cũ

Xem nhiều gần đây nhất

Đang online

Lịch đăng bài

Tháng Năm 2024
H B T N S B C
« Th4    
  1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31